Bài thơ Giá từng thước đất được Việt theo thể thơ nào

15:51, 08/06/2011

Nhà thơ Chính Hữu là người lính trực tiếp tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Bài thơ “Giá từng thước đất” được ông viết từ năm 1954 đến 1961 mới hoàn thành.

Thơ Chính Hữu thường có tứ, câu chữ dồn nén nhiều dư ba. Nếu như bài thơ “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” của nhà thơ Tố Hữu là một tráng ca hào hùng nóng hổi, kích thích hưng phấn lòng người, nhịp thơ cuộn chảy thì “Giá từng thước đất” của Chính Hữu nghiêng về phía bi tráng nhiều quặn thắt. Ở đây chân dung người lính hiện lên thật cụ thể có cả những tên người: Lò Văn Sự, Nguyễn Đình Ba… Đồng đội theo nhà thơ là: Hớp nước uống chung/Nắm cơm bẻ nửa. Tình cảm đồng đội được nâng dần lên từ những sinh hoạt bình thường đến lẽ tử sinh của một đời người: Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp/Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết. Cái cộng đồng thân thiết đó thật bình dị: Chia khắp anh em một mẩu tin nhà. Có lẽ đây cũng là nét đặc trưng của những người lính Việt Nam đa số xuất thân từ nông thôn ra đi từ cộng đồng làng xóm, từ nếp nhà tranh sau lũy tre làng gắn bó mật thiết với nhau. Một mẩu tin tuy ngắn ngủi nhưng đó là cả một hậu phương vững chắc để chống chọi lại “Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo dội. Viết trực tiếp về chiến tranh thật khó, nhất là với thơ – một thể loại ở đó có độ kết tinh cao của ngôn ngữ. Ở đây nhà thơ viết về cái chết của đồng đội với một giọng thơ hào sảng chứ không bi lụy: Bạn ta đó/chết trên dây thép ba tầng, câu thơ cắt ngang tạo hình rất ấn tượng.

Chính Hữu đã phác họa vẻ đẹp hùng tráng của người chiến sĩ khó có tượng đài nào chạm khắc nổi: Một bàn tay chưa rời báng súng/Chân lưng chừng nửa bước xung phong, người lính hy sinh vẫn nằm trong tư thế tấn công. Sau này nhà thơ Lê Anh Xuân đã có tứ thơ khá hay về “Dáng đứng Việt Nam” của người chiến sĩ trong thời kỳ chống Mỹ: “Và anh chết trong khi đang đứng bắn/Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng. Nhịp điệu câu thơ trong bài “Giá từng thước đất”/cấu trúc theo lối bậc thang tạo cho người đọc cảm giác đang chứng kiện trận địa giao thông hào chằng chịt và lấn dần từng thước đất mà: Bạn ta/lấy thân mình/đo bước. Tứ thơ vụt sáng khi mỗi thước đất được đo bằng sự hy sinh của từng người lính gối lên nhau rải trên mặt đất. Ngôn ngữ thơ quánh lại quyện lấy nhau tạo ra trường liên tưởng ám ảnh, gợi nhiều suy nghĩ sâu sắc lay động tâm thức người đọc. Khổ cuối bài thơ câu thơ dồn ngắn lại, rồi đột ngột trải dài ra cô đọng đanh như một lời thề – cao hơn đó còn là lời hứa danh dự với người đã khuất.

Thơ Chính Hữu gợi nhiều hơn tả, dồn nén và tung phá, chạm khắc và lung linh, chân thực và biến ảo. Sức công phá của bài thơ ông giống như khối bộc phá ngàn cân nén vào đội A1 và âm thầm cháy bằng dây cháy chậm. Những người hy sinh sẽ trẻ mãi với thời gian và từng thước đất sẽ sống mãi với non sông đất nước.

Nguyễn Ngọc Phú

Viết trực tiếp về chiến tranh thật khó, nhất là với thơ - một thể loại có độ kết tinh cao của ngôn ngữ. Ở đây, nhà thơ viết về cái chết của đồng đội với một giọng thơ hào sảng chứ không bi lụy: Bạn ta đó - chết trên dây thép ba tầng, câu thơ cắt ngang tạo hình rất ấn tượng. Chính Hữu đã phác họa vẻ đẹp hùng tráng của người chiến sĩ khó có tượng đài nào chạm khắc nổi: Một bàn tay chưa rời báng súng/Chân lưng chừng nửa bước xung phong - người lính hy sinh vẫn nằm trong tư thế tấn công. Sau này, nhà thơ Lê Anh Xuân đã có tứ thơ khá hay về “Dáng đứng Việt Nam” của người chiến sĩ trong thời kỳ chống Mỹ: Và anh chết trong khi đang đứng bắn/Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng. Nhịp điệu câu thơ trong bài "Giá từng thước đất" cấu trúc theo lối bậc thang, tạo cho người đọc cảm giác đang chứng kiến trận địa giao thông hào chằng chịt và lấn dần từng thước đất mà Bạn ta - lấy thân mình - đo bước. Tứ thơ vụt sáng khi mỗi thước đất được đo bằng sự hy sinh của từng người lính. Ngôn ngữ thơ quánh lại, quyện lấy nhau tạo ra trường liên tưởng ám ảnh, gợi nhiều suy nghĩ sâu sắc, lay thức. Khổ cuối bài, câu thơ dồn ngắn lại, trải dài ra, rồi đột ngột cô đọng, đanh như một lời thề, cao hơn đó còn là lời hứa danh dự với người đã khuất.

Thơ Chính Hữu gợi nhiều hơn tả, dồn nén và tung phá, chạm khắc và lung linh, chân thực và biến ảo. Sức công phá của thơ ông giống như khối bộc phá ngàn cân nén vào đồi A1 và âm thầm cháy bằng dây cháy chậm. Những người hy sinh sẽ trẻ mãi với thời gian và từng thước đất sẽ sống mãi với non sông đất nước [Nguyễn Ngọc Phú].

Blog Giadinh.net.vn xin trân trọng giới thiệu tới quý bạn đọc bài thơ "Giá từng thước đất" của nhà thơ Chính Hữu như một lời tri ân kính cẩn dâng lên các anh - những chiến sĩ Điện Biên năm xưa.

Giá từng thước đất

Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo giội, Ta mới hiểu thế nào là đồng đội. Đồng đội ta là hớp nước uống chung Nắm cơm bẻ nửa Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa Chia khắp anh em một mẩu tin nhà Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết. Bạn ta đó Ngã trên dây thép ba tầng Một bàn tay chưa rời báng súng, Chân lưng chừng nửa bước xung phong. Ôi những con người mỗi khi nằm xuống Vẫn nằm trong tư thế tiến công! Bên trái: Lò Văn Sự Bên phải: Nguyễn Đình Ba, Những đêm tiến công, những ngày phòng ngự, Có phải các anh vẫn còn đủ cả Trong đội hình đại đội chúng ta ? Khi bạn ta lấy thân mình đo bước Chiến hào đi, Ta mới hiểu giá từng thước đất, Các anh ở đây Trận địa là đây, Trận địa sẽ không lùi nửa thước, Không bao giờ, không bao giờ để mất Mảnh đất

Các anh nằm.

Nhà thơ Chính Hữu

[1954-1961]

honghanh1

Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi: “Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo giội Ta mới hiểu thế nào là đồng đội. Đồng đội ta Là hớp nước uống chung Nắm cơm bẻ nửa Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa Chia khắp anh em một mẩu tin nhà Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.” [Giá từng thước đất,Chính Hữu] Câu 1: xác định PTBĐ và thể thơ Câu 2: Đoạn thơ lý giải như thế nào về tình đồng đội? Câu 3: Những hình ảnh: trưa nắng, chiều mưa, chiến hào chật hẹp,cái chết gợi cho em những cảm nhận gì? Câu 4: Phân tích hiệu quả của biện pháp điệp từ trong đoạn thơ? Câu 5: Em cảm nhận được gì về tâm trạng của tác giả trong câu thơ: “Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.” Câu 6: Định nghĩa “đồng đội” trong bài thơ có gì giống và khác với

định nghĩa “đồng chí” trong bài thơ Đồng chí?

Nhà thơ Chính Hữu là người lính trực tiếp tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Bài thơ Giá từng thước đất được ông viết từ năm 1954 đến 1961 mới hoàn thành. Thơ Chính Hữu thường có tứ, câu chữ dồn nén nhiều dư ba. Nếu như bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên của nhà thơ Tố Hữu là một tráng ca hào hùng nóng hổi, làm hưng phấn lòng người, nhịp thơ cuộn chảy thì Giá từng thước đất của Chính Hữu nghiêng về phía bi tráng nhiều quặn thắt. Ở đây, chân dung người lính hiện lên thật cụ thể, có cả những tên người: Lò Văn Sự, Nguyễn Đình Ba… Đồng đội - theo nhà thơ - là Hớp nước uống chung - nắm cơm bẻ nửa. Tình cảm đồng đội được nâng dần lên từ những sinh hoạt bình thường đến lẽ tử sinh của một đời người: Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp/Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết. Cái cộng đồng thân thiết đó thật bình dị: Chia khắp anh em một mẩu tin nhà. Có lẽ đây cũng là nét đặc trưng của người lính Việt Nam - phần lớn xuất thân từ nông thôn, ra đi từ cộng đồng làng xóm, từ nếp nhà tranh sau lũy tre làng, gắn bó mật thiết với nhau từ “nhà” rộng ra cả “nước”. Một mẩu tin tuy ngắn ngủi nhưng đó là cả một hậu phương vững chắc để chống chọi: Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm, pháo dội.

Viết trực tiếp về chiến tranh thật khó, nhất là với thơ - một thể loại có độ kết tinh cao của ngôn ngữ. Ở đây, nhà thơ viết về cái chết của đồng đội với một giọng thơ hào sảng chứ không bi lụy: Bạn ta đó - chết trên dây thép ba tầng, câu thơ cắt ngang tạo hình rất ấn tượng. Chính Hữu đã phác họa vẻ đẹp hùng tráng của người chiến sĩ khó có tượng đài nào chạm khắc nổi: Một bàn tay chưa rời báng súng/Chân lưng chừng nửa bước xung phong - người lính hy sinh vẫn nằm trong tư thế tấn công. Sau này, nhà thơ Lê Anh Xuân đã có tứ thơ khá hay về “Dáng đứng Việt Nam” của người chiến sĩ trong thời kỳ chống Mỹ: Và anh chết trong khi đang đứng bắn/Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng. Nhịp điệu câu thơ trong bài Giá từng thước đất cấu trúc theo lối bậc thang, tạo cho người đọc cảm giác đang chứng kiến trận địa giao thông hào chằng chịt và lấn dần từng thước đất mà Bạn ta - lấy thân mình - đo bước. Tứ thơ vụt sáng khi mỗi thước đất được đo bằng sự hy sinh của từng người lính. Ngôn ngữ thơ quánh lại, quyện lấy nhau tạo ra trường liên tưởng ám ảnh, gợi nhiều suy nghĩ sâu sắc, lay thức. Khổ cuối bài, câu thơ dồn ngắn lại, trải dài ra, rồi đột ngột cô đọng, đanh như một lời thề, cao hơn đó còn là lời hứa danh dự với người đã khuất.

Thơ Chính Hữu gợi nhiều hơn tả, dồn nén và tung phá, chạm khắc và lung linh, chân thực và biến ảo. Sức công phá của thơ ông giống như khối bộc phá ngàn cân nén vào đồi A1 và âm thầm cháy bằng dây cháy chậm. Những người hy sinh sẽ trẻ mãi với thời gian và từng thước đất sẽ sống mãi với non sông đất nước.

Nguyễn Ngọc Phú

Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi: “Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo giội Ta mới hiểu thế nào là đồng đội. Đồng đội ta Là hớp nước uống chung Nắm cơm bẻ nửa Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa Chia khắp anh em một mẩu tin nhà Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.” [Giá từng thước đất,Chính Hữu] Câu 1: xác định PTBĐ và thể thơ Câu 2: Đoạn thơ lý giải như thế nào về tình đồng đội? Câu 3: Những hình ảnh: trưa nắng, chiều mưa, chiến hào chật hẹp,cái chết gợi cho em những cảm nhận gì? Câu 4: Phân tích hiệu quả của biện pháp điệp từ trong đoạn thơ? Câu 5: Em cảm nhận được gì về tâm trạng của tác giả trong câu thơ: “Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.” Câu 6: Định nghĩa “đồng đội” trong bài thơ có gì giống và khác với

định nghĩa “đồng chí” trong bài thơ Đồng chí?

Năm mười sáu ngày đêm bom gầm pháo dội

Ta mới hiểu thế nào là đồng đội

Đồng đội ta là hớp nước uống chung

Nắm cơm bẻ nửa

Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa

Chia khắp anh em một mẩu tin nhà

Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp

Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết...

["Giá từng thước đất" - Chính Hữu]

Đó là tình đồng đội, tình đồng chí gắn bó, keo sơn được viết ra từ người trong cuộc, từ người chiến sĩ làm thơ - Chính Hữu. Có thể nói đề tài đồng chí là một ám ảnh với hồn thơ ông, có lẽ vì trong hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến trường: nào bom đạn, nào thiếu ăn, thiếu mặc, sốt rét, bệnh tật... Chính Hữu và những người bạn đều đã trải qua. Và lúc ấy, chỉ có tình đồng chí mà chính là tình đồng đội đã giúp ông vượt qua gian khó mà vươn lên chiến thắng chính mình. Vì thế, các bài thơ về tình đồng chí, Chính Hữu đều gửi tặng những người bạn của mình. Nó như một lời cám ơn chân thành, thiết tha mà nhà thơ muốn gửi tới đồng đội. Và một trong các thi phẩm tuyệt vời, gây ấn tượng sâu sắc tới bạn đọc là bài thơ "Đồng chí". Qua bài thơ, chúng ta thấy được vẻ đẹp tình đồng chí cao đẹp, thiêng liêng của chàng trai nông dân vệ quốc trong cuộc kháng chiến trường kì chống Pháp.

Bài thơ được viết vào mùa xuân năm 1948, sau khi Chính Hữu cùng đồng đội của mình tham gia chiến dịch Việt Bắc - Thu Đông năm 1947. Vậy là, tác phẩm đã cách xa chúng ta 70 năm rồi nhưng mỗi khi đọc xong bài thơ, người đọc vẫn cảm thấy thấm thía, rung động về tình đồng chí giản dị, mộc mạc, chân thành của người lính cách mạng trong cuộc sống nơi chiến đấu.

Trước hết, vẻ đẹp tình đồng chí được thể hiện ở sự tương đồng nhau về hoàn cảnh xuất thân, cùng chung mục tiêu chiến đấu và gắn bó với nhau trở thành đôi bạn tri kỉ:

Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí!

Lời thơ mộc mạc, giản dị, chân thành, đã cho thấy những người lính, họ đều xuất thân từ những người nông dân chân nấm tay bùn, vất vả và nghèo khó. Thành ngữ "nước mặn đồng chua", gợi lên một miền đất nắng gió ven biển, đất đai bị nhiễm phèn, nhiễm mặn, rất khó trồng trọt. Còn cụm từ "đất cày lên sỏi đá" lại gợi lên trong lòng người đọc về một vùng đồi núi, trung du đất đai cằn cỗi, khó canh tác. Đó là xuất phát điểm về hoàn cảnh xuất thân và cuộc sống của những chàng trai nông dân nghèo khó, lam lũ, cực nhọc. Và cũng nhờ có điểm chung gặp gỡ giống nhau ấy, là cơ sở ban đầu để hình thành trong họ tình đồng cảm, hữu ái giai cấp, tạo tiền để làm nên tình đồng chí, đồng đội, gắn bó keo sơn.

Đang quen tay cuốc, tay cày nhưng khi đất nước có giặc ngoại xâm, những người nông dân như vươn lên trở thành tráng sĩ. Họ cùng nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, lời vẫy gọi thiết tha của đất nước thân thương đang lâm nguy, họ gác lại tất cả mà vác ba lô, vác súng ra chiến trường chiến đấu. Vì thế, họ lại gặp chung một lí tưởng cách mạng, một mục tiêu chiến đấu thiêng liêng: tình yêu tổ quốc và niềm khát khao đất nước được hòa bình, độc lập.

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Qua thời gian năm tháng, trong hoàn cảnh khắc nghiệt của khói lửa chiến tranh, những người lính áo vai đã xích lại gần nhau, coi nhau như anh em, ruột thịt:

Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí!

Từ hai con người vốn chẳng hề thân quen, nay cùng chung lí tưởng cách mạng mà gặp gỡ, từ đó mà làm nên tình đồng chí. Một lí do rất đơn giản nhưng lại rất thiêng liêng và cao cả. Bởi tình cảm đồng chí ấy được chấp cảnh bởi lí tưởng và khát vọng cao đẹp của tình yêu đất nước. Và cũng từ đó,tình đồng chí bắt đầu nảy nở và trở nên bền chặt, keo sơn trong chiến đấu và cuộc sống có chiến tranh. Hình ảnh thơ có sự sóng đôi, gợi nên tình gắn bó keo sơn của người lính cách mạng. Trong chiến tranh: "súng bên súng": họ cùng nhau kề vai sát cảnh đi bên nhau trong chiến đấu; cùng chung mục tiêu, cùng chung nhiệm vụ. Trong cuộc sống nơi hòn tên, mũi đạn, họ "đầu sát bên đầu", "đêm rét chung chăn", gắn bó, sẻ chia, sẵn sàng chia ngọt, sẻ bùi những lúc thiếu thốn về vật chất [chung chăn] và sự khắc nghiệt, dữ dội của tiết trời, khí hậu [sương muối, mưa rừng]. Chính sự sẻ chia, đồng cam cộng khổ ấy đã tạo nên hơi ấm để xua tan đi cái lạnh lẽo, cái khắc nghiệt, khó khăn của cuộc đời người lính, giúp họ gắn kết với nhau mà vượt lên gian khó, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà lịch sử đang giao phó. Tất cả những hành động và tình cảm chân thành ấy đã làm nên những người bạn "tri kỉ" tri âm mà cao hơn là tình đồng chí, đồng đội bền chặt, thiêng liêng.

Trong bảy câu thơ mở đầu, người đọc nhận ra cách xưng hô "anh - tôi" trong mỗi dòng thơ có những sắc thái biểu cảm khác nhau, cho thấy quá trình phát triển về mặt tình cảm của tình đồng chí, đồng đội của người lính: Ban đầu với hai câu đầu, hai đại từ nhân xưng "anh - tôi" chỉ dùng để gọi, giao tiếp của hai con người ở hai thế giới hoàn toàn khác biệt [ một người vùng biển; một người vùng cao]; Tiếp đó, hai câu thơ tiếp, "anh - tôi" đã gặp gỡ mà quen biết nhau khi cùng chung lí tưởng và mục tiêu chiến đấu, nhưng vẫn chỉ là "đôi người xa lạ". Cuối cùng, qua thời gian năm tháng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, họ đã biến sự xa lạ thành thân quen, biến thân quen thành đôi bạn tri kỉ, tri âm. Từ một cá nhân riêng lẻ nhưng sau dần đã trở thành một khối thống nhất và đoàn kết mạnh mẽ không tách rời. Vì thế, hai tiếng "Đồng chí!" được gieo giữa bài thơ vừa có ý nghĩa khép lại đoạn thơ mở đầu, vừa có tính chất mở ra để kết nối đoạn thơ tiếp theo. Đồng thời nó như một lời hô gọi thiêng liêng, trầm hùng và xúc động của những người lính trong chiến tranh và trong tranh đấu. Đó là một câu thơ đặc biệt như là một lời kết luận cho những lí lẽ, cơ sở mà tác giả đưa ra để làm "minh chứng" cho quá trình phát triển hình thành của tình đồng chí. Từ đó, ta bắt gặp một cách định nghĩa bằng thơ rất riêng của Chính Hữu về "Đồng chí". "Đồng chí" là cùng chung hoàn cảnh, cùng chung lí tưởng, mục tiêu cách mạng, cùng chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau vượt qua khó khăn, vất vả trong chiến đấu. Cách lập ý rõ ràng, tạo nên một kết cấu logic chính luận cho bài thơ trữ tình.

Không dừng lại ở đó, vẻ đẹp tình đồng chí còn được thẻ hiện ở chỗ, họ sẵn sàng chia sẻ cảm thông sâu xa những hoàn cảnh, tâm tư, nỗi niềm sâu kín của nhau:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính

Chúng ta thấy, cả ba câu thơ chỉ xuất hiện đại từ xưng hô "anh" mà không phải "tôi", điều đó cho thấy lời thơ là lời nói hộ, bộc lộ hộ những tâm tư tình cảm của người bạn mình. Đó là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, nhớ người thân yêu nơi hậu phương của người lính. Và qua cách nói hộ ấy, người đọc thấy được tình cảm đồng đội, đồng chí hiện lên thật sâu đậm, họ hiểu bạn mình cũng như hiểu chính mình vậy. Vì thế cho nên, lời thơ cũng chính là bộc bạch chân thành của chính nhân vật trữ tình "tôi" về nối nhớ quê hương sâu sắc.

Ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa... là những hình ảnh giản dị, quen thuộc ở mọi làng quê Việt Nam. Có lẽ lúc này người lính dang rất nhớ tới quê hương, nơi có gia đình, người thân, có ruộng nương, gian nhà, những tình cảm đẹp đẽ của họ từ thuở ấu thơ đến lúc trưởng thành.Nhưng từ "mặc kệ" đã cho thấy sự quyết tâm ra đi của những người lính; họ gửi lại quê hương, ruộng nương, gian nhà và cả những tình cảm buồn vui của thời thơ ấu cho người thân yêu để lên đường cầm súng đánh giặc cứu nước. Tinh thần hi sinh mạnh mẽ ấy đã được nhà thơ Thanh Thảo bộc bạch bằng lời thơ của mình:

"Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình

Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc

Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi tổ quốc"

Như vậy, câu thơ đã cho thấy được ý thức trách nhiệm công dân cao độ của người lính đối với dân tộc khi tổ quốc lâm nguy. Điều đó cho thấy lòng yêu nước mạnh mẽ, sâu sắc của họ. Hình ảnh "giếng nước gốc đa" là một hình ảnh rất giàu sức gợi, đây vừa là nhân hóa, lại vừa là hoán dụ biểu trưng cho quê hương, người thân nơi hậu phương luôn luôn dõi theo và nhớ nhung người lính da diết. Câu thơ nói quê hương nhớ người lính mà thực ra là người lính đang nhớ nhà. Nỗi nhớ hai chiều nên càng da diết, khôn nguôi. Nhưng chính nỗi nhớ quê hương ấy, lại là động lực mạnh mẽ, thôi thúc và tiếp bước cho họ vươn lên mà mạnh mẽ, trưởng thành, vì sự nghiệp chung lớn lao của đất nước, dân tộc.

Không chỉ chia sẻ với nhau những chuyện riêng tư, nỗi nhớ nhung về quê hương, người thân, người lính còn sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau trong lúc hoạn nạn khó khăn. Và "tôi" với "anh" hai cá thể riêng biệt nay đã hòa với nhau làm một, trở thành một cặp đồng chí gắn bó với nhau:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

Đầu tiên, người lính chia sẻ, đùm bọc lẫn nhau khi mắc phải bệnh tật quái ác - những cơn sốt rét ghê gớm. Hình ảnh: "ớn lạnh, sốt run người, ướt mồ hôi" là những biểu hiện cụ thể để nói về căn bệnh sốt rét rừng rất nguy hiểm khi mà trong chiến tranh không hề có đủ thuộc men để chạy chữa. Vì thế các anh phải cắn răng chịu đựng, tự lực, tự cường mà vượt qua. Nhưng khi mắc bệnh, những người lính lại nhận được sự chăm sóc tận tình, chu đáo của những người bạn, người đồng đội nên căn bệnh dù có quái ác nhưng vẫn không thể quật ngã được họ. Từ "với" trong cụm từ "anh với tôi" đã diễn tả sự sẻ chia của người lính đối với người bạn của mình khi bị ốm sốt rét. "Với" ở đây có nghĩa là có sự đồng cảm, sẻ chia, cộng hưởng của tình cảm. Chính sự giúp đỡ động viên chân tình ấy đã giúp họ cùng nhau vượt qua được những căn bệnh sốt rét nguy hiểm - một nỗi ám ảnh kinh hoàng của người lính trong chiến tranh.

Người lính không chỉ chia sẻ với nhau về bệnh tật mà còn đồng cam, cộng khổ khi phải đối diện với sự thiếu thốn, khó khăn về vật chất. Hình ảnh: "áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày" là những hình ảnh thực có ý nghĩa diễn tả điều đó. Nhưng trong hoàn cảnh ấy, họ đã chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau bằng những hành động chân thành: "Miệng cười buốt giá", "Thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Chính nụ cười đã xoá tan đi cái lạnh lẽo của đêm đông giá rét. Họ đùa vui trong gian khổ thiếu thốn. Cùng động viên nhau qua ánh mắt nụ cười. Dù đó chỉ là nụ cười gượng gạo trong "buốt giá" nhưng vẫn chứa chan tình cảm, cho thấy được sự lạc quan mạnh mẽ của họ trong cuộc sống chiến đấu. Còn hành động "tay nắm lấy bàn tay" là một cử chỉ rất cảm động và cần thiết vào lúc này. Họ đã truyền cho nhau hơi ấm của tình thương, cùng dắt tay nhau tiến lên phía trước, vì mục tiêu lí tưởng cách mạng lớn lao: vì hòa bình dân tộc. Và có lẽ, tình yêu thương nhau đã lấp đầy khoảng trống, làm dịu vơi đi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương. Tất cả những cử chỉ ánh mắt, nụ cười, nắm tay ấy đã giúp họ có thêm động lực để vượt qua khó khăn, thử thách. Điều ấy đã làm cho tình đồng chí thêm keo sơn, gắn bó và hóa thành sức mạnh đoàn kết trong suốt cuộc kháng chiến trường kì.

Cuối cùng biểu hiện cao đẹp nhất của tình đồng chí là họ cùng chung một chiến hào. Chiến hào là nơi giáp mặt với kẻ thù, là nơi sự sống và cái chết chỉ kề nhau trong gang tấc. Vì thế tình đồng chí được tôi luyện trong thử thách gian lao và đầy thử thách nhất.

Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.

Ba câu thơ tuy không trực tiếp nói về tình đồng chí nhưng vẻ đẹp của tình đồng vẫn cứ hiển hiện, vừa thực, lại vừa lãng mạn. Đó là khoảng thời gian "đêm nay" rất cụ thể với khung cảnh "rừng hoang - sương muối" hiu quạnh, lạnh lẽo và khắc nghiệt nhưng những người lính vẫn "đứng cạnh bên nhau" để "chờ giặc tới". Nghệ thuật tương phản đối lập được tạo ra rất cân đối giữa một bên là không gian núi rừng lạnh lẽo, hoang vu, vắng lặng; với một bên là tư thế chủ động mạnh mẽ như lấn át cả không gian toàn cảnh của người lính. Chính sức mạnh của tình đồng chí đã làm cho người lính vượt lên trên hiện thực khắc nghiệt đó. Các từ gần nghĩa "cạnh - bên" cho thấy sức mạnh của tinh thần đoàn kết, gắn bó luôn có nhau của những người lính.

Trên cao là ánh trăng treo lơ lửng trên bầu trời, dưới cái nhìn lãng mạn hóa của Chính Hữu, ánh trăng như đang treo ở đầu mũi súng. Và "Trăng" theo đó như trở thành người bạn vừa chứng minh cho tình cảm đồng chí keo sơn của người lính, vừa soi sáng và sưởi ấm cho không gian của rừng đêm sương muối lạnh lẽo bên trên. Hình ảnh "súng - trăng" được đặt cạnh bên nhau khiến người đọc có nhiều liên tưởng: giữa thực tại - mơ mộng; chiến tranh - hòa bình; chiến sĩ - thi sĩ. Sự đan cài giữa hiện thực và lãng mạn ấy vừa cho thấy được hiện thực chiến tranh khó khăn, vất vả; lại vừa toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính: họ vừa là chiến sĩ lại vừa là thi sĩ, họ cầm súng chiến đấu để bảo vệ quê hương, đem lại nền độc lập , tự do cho Tổ quốc thân yêu. Có thể nói, ba câu thơ cuối một bức tranh đẹp, như một bức tượng đài sừng sững cho tình đồng chí thiêng liêng, cao cả.

Với một ngôn ngữ thơ hàm súc, cô đọng, giàu sức biểu cảm, lời thơ giản dị mà giàu sức tạo hình; giọng điệu tâm tình, nhẹ nhàng, thiết tha, sử dụng sáng tạo bút pháp tả thực và lãng mạn, Chính Hữu đã khắc họa thành công vẻ đẹp chân chất, mộc mạc, bình dị của người lính cụ Hồ trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Và bằng cái nhìn và sự trải nghiệm chân thực của người trong cuộc, Chính Hữu đã tái hiện thật xúc động vẻ đẹp tình đồng chí của những người lính cụ Hồ trong chiến tranh. Đối diện với khó khăn, hiểm nguy nơi hòn tên mũi đạn, họ luôn yêu thương, gắn bó, san sẻ với nhau từng miếng ăn, giấc ngủ và thậm chí là cả cái chết. Cùng đồng cam, cộng khổ, đoàn kết lấy nhau mà chống lại quân thù. Và tình đồng chí trong bài thơ của Chính Hữu đã làm nên bức tượng đài tráng lệ trong dàn hợp xướng thi ca dân tộc viết về người lính. Mặc dù, chiến tranh đã lùi về quá khư nhưng hình ảnh những anh lính vệ quốc quân mãi mãi in sâu vào trong tâm thức người Việt và mãi trở thành ngọn nguồn cảm hứng bất tận cho thơ ca dân tộc!.

Video liên quan

Video liên quan

Chủ Đề