Các phương pháp ghi nhận các hiện tượng kinh tế tài chính

Chương 1: Đối tượng, Nhiệm vụ và phương pháp kế toánBài 1: Khái niệm về kế toán và sự phát triển của kế toán1. Khái niệm kế toánĐứng về phương diện kinh tế, ai làm việc gì cũng đều nhận được một khoản thù lao và sẽ sửdụng số tiền này để mua những vật dụng cần thiết cho đời sống hàng ngày. Dù không mở sổ sáchđể theo dõi những số thu, chi này chúng ta vẫn cần biết đã thu vào bao nhiêu, chi ra bao nhiêu vàcòn lại bao nhiêu. Nếu số chi lớn hơn số thu chúng ta phải nghĩ cách để tăng thu hay giảm chi.Ngược lại nếu số thu lớn hơn số chi, chúng ta sẽ phải nghĩ cách sử dụng số thặng dư sao cho cóhiệu quả nhất. Chính vì thế mà chúng ta cần phải có thông tin tài chính để làm căn cứ cho cácquyết định.Tương tự như trên, các nhà quản lý của một doanh nghiệp hay của một cơ quan nhà nước cũngcần có những thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp hay cơ quan của họ. Nếu số thulớn hơn số chi họ muốn biết số thặng dư đã được dùng để làm gì. Còn nếu số chi lớn hơn, họmuốn biết tại sao lại có số thiếu hụt và tìm cách khắc phục. Vậy các dữ kiện tài chính này ở đâumà có? Câu trả lời là ở các sổ sách kế toán do doanh nghiệp hay cơ quan nhà nước ghi chép lưugiữ. Vì thế chúng ta có thể nói mục đích căn bản của kế toán là cung cấp các thông tin về tìnhhình tài chính của một tổ chức cho những người phải ra các quyết định điều hành hoạt động củatổ chức đó.Muốn cung cấp được các dữ kiện tài chính này, kế toán phải thực hiện một số công việc: phảighi nhận các sự việc xẩy ra cho tổ chức như là việc bán hàng cho khách hàng; mua hàng từ mộtnhà cung cấp; trả lương cho nhân viên... Những sự việc này trong kế toán gọi là nghiệp vụ kinhtế. Sau khi được ghi nhận tập trung, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh sẽ được phân loại và hệthống hóa theo từng loại nghiệp vụ, tức là chúng ta sẽ tập trung tất cả các nghiệp vụ như bánhàng vào với nhau; Trả lương cho nhân viên vào với nhau... theo trìnhtự thời gian phát sinh. Sau khi tất cả các nghiệp vụ của một kỳ hoạt động đã được ghi nhận vàphân loại kế toán sẽ tổng hợp những nghiệp vụ này lại. Tức là tính ra tổng số hàng bán, tổng sốhàng mua, tổng số lương trả cho nhân viên... và cuối cùng là tính toán kết quả của những nghiệpvụ kinh tế diễn ra trong một kỳ hoạt động bằng cách lập các báo cáo tài chính để Ban Giám đốcthấy được kết quả hoạt động của tổ chức và tình hình tài chính của tổ chức này.Để đưa ra khái niệm về kế toán có nhiều quan điểm bày tỏ ở các giác độ khác nhau. Theo LuậtKế toán: “Kế toán là việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tàichính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động”.Cũng theo Luật Kế toán thì kế toánđược chia ra 2 loại là kế toán tài chính và kế toán quản trị, trong đó: Kế toán tài chính là việc thuthập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính bằng báo cáo tài chínhcho đối tượng có nhu cầu sử dụng thông tin của đơn vị kế toán. Kế toán quản trị là việc thu thập,xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyếtđịnh kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán. Định nghĩa về kế toán trên nhấn mạnh đếncông việc của những người làm công tác kế toán.Trên một phương diện khác một số tác giả muốn nhấn mạnh đến bản chất và chức năng của kếtoán thì phát biểu: Kế toán là khoa học và nghệ thuật về ghi chép, phân loại, tổng hợp số liệu vàtính toán kết quả của các hoạt động kinh tế tài chính của một tổ chức nhằm cung cấp thông tingiúp Ban Giám đốc có thể căn cứ vào đó mà ra các quyết định quản lý, đồng thời cung cấp thôngtin cho những người có lợi ích và trách nhiệm liên quan. Ngoài ra còn nhiều khái niệm nói lênnhiều khía cạnh khác nhau về kế toán. Tuy vậy người ta có những quan điểm chung về bản chấtcủa kế toán là: khoa học và nghệ thuật về ghi chép, tính toán, phân loại, tổng hợp số liệu, cònchức năng của kế toán là cung cấp thông tin trong đó thông tin kế toán phục vụ cho nhà quản lý[như Chủ doanh nghiệp, Hội đồng quản trị, Ban giám đốc...], người có lợi ích trực tiếp [như cácNhà đầu tư, các chủ cho vay], người có lợi ích gián tiếp [như cơ quan thuế, cơ quan thống kê vàcác cơ quan chức năng].2. Vài nét về sự phát triển của kế toánSự hình thành và phát triển của kế toán gắn liền với sự hình thành và phát triển của đời sốngkinh tế, xã hội loài người từ thấp lên cao. Một số tài liệu nghiên cứu cho thấy lịch sử của kế toáncó từ thời thượng cổ, xuất hiện từ 5,6 ngàn năm trước công nguyên. Lịch sử kế toán bắt nguồntrong lịch sử kinh tế, theo đà phát triển của những tiến bộ kinh tế - xã hội. Thời kỳ Phục hưngcho phép khám phá ra một kỷ nguyên mới, người ta thấy xuất hiện văn chương kế toán. Mộttrong những người sáng chế đầu tiên ra các phương pháp kế toán phần kép là một nhà tu dòngFranciscain tên là Luca Pacioli, ông sinh ra tại một thị trấn nhỏ Borgo san Sepolchro trên sôngTibre vào năm 1445, là một giáo sư về toán và đã soạn thảo ra một tác phẩm vĩ đại tựa như mộtcuốn tự điển vào năm 1494 về số học, đại số học, toán học thương mại, hình học và kế toán.Riêng về phần kế toán, ông đã dành 36 chương về kế toán kép mà theo đó các tài liệu kế toánnhư phiếu ghi tạm, sổ nhật ký, sổ cái và một số lớn các tài khoản được phân chia rõ rệt như tàikhoản vốn, tài khoản kho hàng, tài khoản kết quả sản xuất... Người ta coi ông như là người chacủa ngành kế toán và là người cuối cùng có công đóng góp lớn trong ngành toán học ở thế kỷ 15.Do đã góp phần vào việc truyền bá kỹ thuật kế toán, nên ông được xem là tác giả đầu tiên viết vềkế toán và từ đó kế toán có bước phát triển không ngừng cho đến ngày nay. Tuy nhiên sự ghichép vào sồ nhật ký những nghiệp vụ kinh tế phát sinh thời bấy giờ chưa được gọn và rõ rệt, chỉsử dụng bảng đối chiếu đơn giản để kiểm tra và chưa có hình thức bảng tổng kết tài sản.Ngày nay kế toán là một công cụ quản lý quan trọng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinhtế xã hội, người ta đã sử dụng các phương pháp hiện đại trong kế toán như phương trình kế toán,mô hình toán trong kế toán, kế toán trên máy vi tính...Bài 2: Một số khái niệm vè nguyên tắc kế toán được thừa nhận1. Một số khái niệm và giả định1.1 Khái niệm đơn vị kế toánKhái niệm này tương đồng với khái niệm đơn vị kinh doanh. Theo khái niệm này, thông tin tàichính được phản ánh cho một đơn vị kế toán cụ thể. Mỗi đơn vị kinh tế riêng biệt phải được phânbiệt là một đơn vị kế toán độc lập, có bộ báo cáo tài chính của riêng mình. Khái niệm đơn vị kếtoán đòi hỏi các báo cáo tài chính được lập chỉ phản ánh các thông tin về tình hình tài chính củađơn vị kế toán mà không bao hàm thông tin tài chính về các chủ thể kinh tế khác như tài sảnriêng của chủ sở hữu hay các thông tin tài chính của các đơn vị kinh tếđộc lập khác. Nói cáchkhác khái niệm đơn vị kế toán quy định giới hạn về thông tin tài chính mà hệ thống kế toán cầnphải thu thập và báo cáo.1.2. Đơn vị thước đo tiền tệThông tin do kế toán cung cấp phải được thể hiện bằng thước đo tiền tệ. Kế toán lựa chọn và sửdụng một đơn vị tiền tệ làm thước đo. Thông thường thước đo tiền tệ được lựa chọn là đơn vịtiền tệ chính thức của quốc gia mà đơn vị kế toán đăng ký hoạt động. Mọi nghiệp vụ kinh tế phátsinh đều được tính toán và ghi chép bằng thước đo tiền tệ này. Khi ghi chép các nghiệp vụ kinhtế, kế toán chỉ chú ý đến giá thực tế tại thời điểm phát sinh mà không chú ý đến sự thay đổi sứcmua của đồng tiền. Đối với các đơn vị kinh tế Việt Nam, thông thường kế toán phải dùng đồngViệt Nam trong quá trình tính toán và ghi chép các nghiệp 12 vụ kinh tế phát sinh và phải đặt giảthiết là sức mua của đồng tiền có giá trị bền vững hoặc sự thay đổi về tính giá trị của tiền tệ theogiá cả ảnh hưởng không đáng kể đến tình trạng tài chính của đơn vị kinh tế. Tuy nhiên khi có sựbiến động lớn về giá cả trên thị trường thì kế toán phải dựa vào những quy định, hướng dẫn củanhà nước để tổ chức đánh giá lại các tài sản có liên quan từ giá trị đã ghi sổ thành giá trị đươngthời để làm tăng ý nghĩã của báo cáo tài chính kế toán.1.3. Giả định hoạt động liên tụcKế toán phải đặt giả thiết là doanh nghiệp sẽ hoạt động liên tục trong một thời gian vô hạn địnhhay sẽ hoạt động cho đến khi nào các tài sản cố định hoàn toàn bị hư hỏng và tất cả trách nhiệmcung cấp sản phẩm, hàng hóa hay dịch vụ của đơn vị đã được hoàn tất hoặc ít nhất là không bịgiải thể trong tương lai gần. Giả định này được vận dụng trong việc định giá các loại tài sản đangsử dụng trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp đang sử dụng cho nên chưa bán hoặc không thể bánđược do đó giá trị của những tài sản này sẽ được tính toán và phản ánh trên cơ sở giá gốc và sựđã hao mòn do sử dụng. Tức là giá trị tài sản hiện còn là tính theo số tiền mà thực sự doanhnghiệp đã phải trả khi mua sắm hay xây dựng trừ đi giá trị đã hao mòn chứ không phải là giámua bán ra trên thị trường. Mặt khác giả thiết về sự hoạt động lâu dài của doanh nghiệp còn là cơsở cho các phương pháp tính khấu hao để phân chia giá phí của các loại tài sản cố định vào chiphí hoạt động của doanh nghiệp theo thời gian sử dụng của nó.1.4. Khái niệm kỳ kế toánHoạt động của doanh nghiệp là lâu dài và liên tục, nếu chờ cho tất cả các hoạt động sản xuấtkinh doanh ngưng lại và mọi tài sản đều được bán xong kế toán mới lập báo cáo tài chính thì sẽkhông có tác dụng gì trong việc điều hành hoạt động của Ban Giám đốc. Để kịp thời cung cấpcác thông tin cần thiết cho việc quản lý doanh nghiệp, kế toán phải chia hoạt động lâu dài củađơn vị thành nhiều kỳ có độ dài về thời gian bằng nhau, từ đó dễ dàng so sánh, đánh giá và kiểmsoát doanh thu, chi phí và lãi [lỗ] của từng kỳ. Giả định này dựa trên giả thiết hoạt động của đơnvị sẽ ngưng lại vào một thời điểm nào đó để kế toán có thể lập các báo cáo có tính chất tổng kếttình hình hoạt động trong thời gian qua và cung cấp các thông tin về kết quả đạt được lúc cuốikỳ.Thông thường, kỳ kế toán chính được tính theo năm dương lịch từ ngày 01 tháng 01 đến hếtngày 31 tháng 12 của năm. Trong từng năm có thể phân thành các kỳ tạm thời như tháng, quý.Thời gian để tính kỳ tạm thời là ngày đầu tiên của tháng, quý đến hết ngày cuối cùng của tháng,quý đó. Trong chế độ kế toán doanh nghiệp ngoài kỳ kế toán tính theo năm dương lịch, trongnhững trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp có thể tính theo 12 tháng tròn sau khi đã thông báo chocơ quan thuế và được phép thay đổi ngày kết thúc kỳ kế toán năm. Việc thay đổi này có thể dẫnđến việc lập báo cáo tài chính cho kỳ kế toán năm đầu tiên hay năm cuối cùng ngắn hơn hoặc dàihơn.12 tháng, nhưng không được vượt quá 15 tháng.2. Một số nguyên tắc kế toán2.1. Nguyên tắc thực tế khách quanKhi ghi chép phản ảnh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào những giấy tờ hay sổ sách cần thiết,kế toán phải ghi chép một cách khách quan nghĩa là phải phản ánh theo đúng những sự việc thựctế đã diễn ra và có thể dễ dàng kiểm chứng lại được, không được ghi chép theo ý chủ quan nàođó mà làm người đọc hiểu không đúng bản chất của vấn đề.2.2. Nguyên tắc giá phíNội dung của nguyên tắc giá phí là khi ghi nhận các nghiệp vụ kinh tế liên quan đến tài sản, kếtoán phải dựa vào chi phí đã phát sinh để hình thành nên tài sản chứ không phải căn cứ vào giáhiện hành trên thị trường. Như vậy, giá trị của tài sản được ghi nhận vào bảng cân đối kế toán làchi phí mà doanh nghiệp đã phải bỏ ra để có tài sản đó, chứ không phải giá thị trường ở thờiđiểm báo cáo. Nguyên tắc này còn được gọi là nguyên tắc giá gốc để thể hiện rằng kế toán ghinhận giá trị tài sản và các khoản chi phí phát sinh theo giá gốc là số tiền mà doanh nghiệp đã chira tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ.2.3. Nguyên tắc ghi nhận doanh thuDoanh thu chỉ được ghi nhận khi đơn vị đã hoàn thành trách nhiệm cung cấp sản phẩm, hànghóa hay dịch vụ cho khách hàng và được khách hàng trả tiền hoặc chấp nhận thanh toán. Việcghi nhận doanh thu được hưởng ở thời điểm bán hàng như trên sẽ cho một sự đo lường thực tếnhất vì:- Khi đã giao hàng cho khách hàng thì doanh nghiệp đã thực hiện hầu hết những công việc cầnthiết trong việc bán hàng hoặc cung cấp dịch vụ, những vấn đề còn lại là không đáng kể.- Vào buổi điểm bán hàng, giá cả thanh toán đã được người bán và người mua thỏa thuận là mộtsự đo lường khách quan doanh thu được hưởng và khi đó bên bán đã nhận được một số tiền hoặcmột khoảnphải thu.2.4. Nguyên tắc phù hợp giữa doanh thu và chi phíMỗi khoản doanh thu được tạo ra, đều xuất phát từ những khoản chi phí, vì vậy khi xác địnhdoanh thu ở kỳ nào, thì cũng phải xác định những chi phí để tạo doanh thu đó ở kỳ ấy. Tất cả cácchi phí chi ra trong quá trình hoạt động của doanh 15 nghiệp đều có mục đích cuối cùng là tạo radoanh thu và lợi nhuận. Tuy nhiên trong từng kỳ kế toán [tháng, quý, năm] doanh thu có thể phátsinh ở kỳ này, nhưng những chi phí đã phải chi ra để đạt doanh thu đó ở kỳ trước, vì vậy nguyêntắc này yêu cầu khi tính chi phí được coi là chi phí hoạt động trong kỳ, phải trên cơ sở những chiphí nào tạo nên doanh thu được hưởng trong kỳ. Như vậy có thể có những chi phí đã phát sinhtrong kỳ, nhưng không được coi là chi phí hoạt động trong kỳ vì nó có liên quan đến doanh thuđược hưởng ở kỳ sau như: chi phí mua nguyên vật liệu để sản xuất trong kỳ sau...Ngược lại, có những trường hợp đã thu tiền nhưng diễn ra trước khi giao hàng hay cung cấpdịch vụ thì cũng chưa được ghi nhận là doanh thu. Trong trường hợp này kế toán phải coi nhưmột món nợ phải trả cho đến khi nào việc giao hàng hay cung cấp dịch vụ đã được thực hiện.2.5. Nguyên tắc nhất quánTrong kế toán có thể một số trường hợp được phép có nhiều phương pháp tính toán, mỗiphương pháp lại cho một kết quả khác nhau. Theo nguyên tắc này, khi đã chọn phương pháp nàothì kế toán phải áp dụng nhất quán trong các kỳ kế toán. Trường hợp cần thiết sự thay đổi vềphương pháp đã chọn cho hợp lý thì trong phần thuyết minh báo cáo tài chính phải giải trình lýdo tại sao phải thay đổi phương pháp và sự thay đổi đó ảnh hưởng như thế nào đến kết quả tínhtoán so với phương pháp cũ.Ví dụ: Có nhiều phương pháp tính khấu hao tài sản cố định; tính giá trị hàng tồn khi cuối kỳ...Mỗi phương pháp sẽ mang lại một con số khác nhau về chi phí và lợi nhuận. áp dụng phươngpháp nào là tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp vì tất cả các phương pháp đóđều được công nhận, nhưng theo nguyên tắc này, kế toán đã lựa chọn áp dụng phương pháp nàothì phải áp dụng nhất quán trong các kỳ kế toán.2.6. Nguyên tắc thận trọngVì mỗi một số liệu của kế toán đều liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của nhiều phía khácnhau, mà trong lĩnh vực kinh tế thì có nhiều trường hợp không thể lường trước hết được từ đóđòi hỏi kế toán phải thận trọng, phải có những phương án dự phòng những khảnăng xấu có thểxẩy ra trong tương lai, nhất là đối với các hoạt động kéo dài hay có tính lặp đi lặp lại như cáckhoản đầu tư chứng khoán,hàng tồn kho...Nguyên tắc thận trọng đòi hỏi:- Phải lập các khoản dự phòng khi có bằng chứng về các khoản đầu tư, hàng tồn kho... trên thựctế đã bị giảm giá.- Không đánh giá cao hơn giá trị của các tài sản và các khoản thu nhập.- Không đánh giá thấp hơn giá trị của các khoản nợ phải trả và chi phí.- Doanh thu và thu nhập chỉ được ghi nhận khi có bằng chứng chắc chắn về khả năng thu đượclợi ích kinh tế. Còn chi phí phải được ghi nhận khi có bằng chứng có thể về khả năng phát sinh.2.7. Nguyên tắc trọng yếuKế toán có thể bỏ qua những yếu tố không ảnh hưởng, hoặc ảnh hưởng không đáng kể đến tìnhhình tài chính, nhưng phải đặc biệt quan tâm đến những yếu tố ảnh hưởng lớn đến tình hình tàichính. Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp bao gồmnhiều loại với những giá trị lớn nhỏ khác nhau và có ảnh hưởng đáng kể hoặc không đáng kể đếndoanh thu hay chi phí hay hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ kế toán. Theo nguyêntắc này, kế toán có thể linh động giải quyết một sốnghiệp vụ kinh tế phát sinh theo hướng thiết thực đơn giản, dễ làm mà không bắt buộc phải bảođảm yêu cầu của những nguyên tắc trên, nếu ảnh hưởng của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh đóđến các chỉ tiêu doanh thu, chi phí và lợi nhuận của doanh nghiệp là không đáng kể.2.8. Nguyên tắc công khaiNguyên tắc này đòi hỏi tất cả các hoạt động kinh tế diễn ra trong kỳ của đơn vị đều phải đượcphản ảnh đầy đủ trong hệ thống báo cáo tài chính, phải giải trình rõ ràng các sổ liệu quan trọngđể người đọc báo cáo hiểu đúng tình hình tài chính và phải công bố công khai theo quy định củanhà nước.Bài 3: Đối tượng kế toán và sự hình thành của một doanh nghiệp1. Đối tượng kế toánĐối tượng chung của các môn khoa học kinh tế là quá trình tái sản xuất xã hội trong đó mỗi mônkhoa học nghiên cứu một góc độ riêng. Vì vậy cần phân định rõ ranh giới về đối tượng nghiêncứu của hạch toán kế toán như một môn khoa học độc lập với các môn khoa học kinh tế khác.Khác với các môn khoa học kinh tế khác, kế toán còn là công cụ phục vụ yêu cầu quản lý hoạtđộng sản xuất kinh doanh ở các đơn vị kinh tế cơ sở, thông qua việc cung cấp các thông tin cánthiết cho Ban Giám đốc hay Hội đồng quản trị. Vì vậy đối tượng nghiên cứu của kế toán là “Sựhình thành và tình hình sử dụng các loại tài sản vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong mộtđơn vị kinh tế cụ thể” nhằm quản lý khai thác một cách tốt nhất các yếu tố sản xuất trong quátrình tái sản xuất xã hội.Để hiểu rõ hơn đối tượng nghiên cứu của hạch toán kế toán chúng ta cần đi sâu nghiên cứu vềvốn, trên 2 mặt biểu hiện của nó là tài sản và nguồn hình thành tài sản và sau nữa là quá trìnhtuần hoàn của vốn. Để nghiên cứu được toàn diện mặt biểu hiện này, trước hết sẽ nghiên cứu vốntrong các tổ chức sản xuất vì ở các tổ chức này có kết cấu vốn và các giai đoạn vận động của vốnmột cách tương đối hoàn chỉnh. Trên cơ sở đó chúng ta có thể dễ dàng xem xét các mặt biểu hiệnnêu trên trong các đơn vị kinh tế khác.2. Sự hình thành tài sản của doanh nghiệpBất kỳ một doanh nghiệp, một tổ chức hay thậm chí một cá nhân nào muốn tiến hành kinhdoanh cũng đòi hỏi phải có một lượng vốn nhất định, lượng vốn đó biểu hiện dưới dạng vật chấthay phi vật chất và được đo bằng tiền gọi là tài sản. Hay nói cách khác tài sản của doanh nghiệplà nguồn lực do doanh nghiệp kiểm soát và có thể thu được lợi ích kinh tế trong tương lai như:- Được sử dụng một cách đơn lẻ hoặc kết hợp với các tài sản kháctrong sản xuất sản phẩm để bán hay cung cấp dịch vụ cho khách hàng.- Để bán hoặc trao đổi lấy tài sản khác.- Để thanh toán các khoản nợ phải trả.- Để phân phối cho các chủ sở hữu doanh nghiệp.Mặt khác vốn [tài sản] của doanh nghiệp lại được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau gọi lànguồn vốn hay nói khác nguồn gốc hình thành của tài sản gọi là nguồn vốn. Như vậy tài sản vànguồn vốn chỉ là 2 mặt khác nhau của vốn. Một tài sản có thể được tài trợ từ một hay nhiềunguồn vốn khác nhau, ngược lại một nguồn vốn có thể tham gia hình thành nên một hay nhiều tàisản. Không có một tài sản nào mà không có nguồn gốc hình thành cho nên về mặt tổng số ta có:Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn [1]Tài sản của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng đều được hình thành từ 2 nguồn vốn: nguồn vốn củachủ sở hữu và các món nợ phải trả. Từ đó ta có đẳng thức:Tổng tài sản = Nợ phải trả + Nguồn vốn chủ sở hữu [2]a] Tổng tài sản là giá trị của tất cả các loại tài sản hiện có của doanh nghiệp kể cả các loại tàisản có tính chất hữu hình như nhà xưởng, máy móc, thiết bị, vật tư, sản phẩm, hàng hóa... và cácloại tài sản có tính chất vô hình như phần mềm máy tính, bằng phát minh sáng chế, lợi thếthương mại, bản quyền,... Tài sản doanh nghiệp thường chia làm 2 loại: Tài sản lưu động và tàisản cố định.+ Tài sản lưu động là những tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nhưng có giá trị nhỏ[theo quy định hiện nay là < 10 triệu đồng] hoặc thời gian sử dụng, thu hồi, luân chuyển vốn nhỏhơn 1 năm hoặc 1 chu kỳ kinh doanh. Tài sản lưu động gồm 3 loại:- TSLĐ sản xuất: Như nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ… đang dự trữ trong kho chuẩn bị choquá trình sản xuất hoặc đang trong quá trình sản xuất dở dang.- TSLĐ lưu thông: Như thành phẩm, hàng hoá dự trữ, hàng hoá gửi bán.- TSLĐ tài chính: Như vốn bằng tiền, các khoản phải thu, đầu tư ngắn hạn...+ Tài sản cố định là những tài sản có giá trị lớn [theo quy định hiện nay là > 10 triệu đồng] và cóthời gian sử dụng, luân chuyển lớn hơn một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh như tài sản cố địnhhữu hình, vô hình, tài sản cố định thuê ngoài dài hạn, các khoản đầu tư tài chính dài hạn, cáckhoản đầu tư xây dựng cơ bản... Đặc điểm của loại tài sản này là không thể thu hồi trong mộtnăm hoặc một chu kỳ kinh doanh.- TSCĐ hữu hình: Là những tài sản cố định có hình thái vật chất cụ thể do doanh nghiệp nắmgiữ để sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh như: máy móc, nhà cửa, thiết bị công tác,phương tiện vận tải, phương tiện truyền dẫn...- TSCĐ vô hình: Là những TSCĐ không có hình thái vật chất cụ thể, nhưng phản ánh một lượnggiá trị lớn mà doanh nghiệp đã thực sự bỏ ra đầu tư như: chi phí nghiên cứu, phát triển, phátminh sáng chế, lợi thế thương mại...- TSCĐ tài chính: Là giá trị của các khoản đầu tư tài chính dài hạnvới mục đích kiếm lời, có thời gian thu hồi vốn > 1 năm hay 1 chu kỳsản xuất kinh doanh như: Đầu tư liên doanh dài hạn, cho thuê TSCĐ,đầu tư chứng khoán dài hạn.b] Nợ phải trả là giá trị của các loại vật tư, hàng hóa hay dịch vụ đã nhận của người bán hayngười cung cấp mà doanh nghiệp chưa trả tiền hoặc là các khoản tiền mà đơn vị đã vay mượn ởngân hàng hay các tổ chức kinh tế khác và các khoản phải trả khác như phải trả công nhân viên,phải nộp cho cơ quan thuế... Hay nói cách khác nợ phải trả là nghĩa vụ hiện tại của doanh nghiệpphát sinh từ các giao dịch và sự kiện đã qua mà doanh nghiệp phải thanh toán từ các nguồn lựccủa mình. Nhìn chung doanh nghiệp nào cũng có nhiều món nợ phải trả vì mua chịu thường tiệnlợi hơn là mua trả tiền ngay và việc vay ngân hàng hay các tổ chức tài chính khác để tăng vốnhoạt động của doanh nghiệp là hiện tượng phổ biến và có lợi cho nền kinh tế. Đứng về phươngdiện quản lý người ta thường phân chia các khoản nợ phải trả của doanh nghiệp thành nợ ngắnhạn và nợ dài hạn.+ Nợ ngắn hạn: là các khoản nợ mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải trả trong 1 năm hoặctrong một chu kỳ hoạt động kinh doanh như: vay ngắn hạn ngân hàng, thương phiếu ngắn hạn,lương phụ cấp phải trả cho công nhân viên...+ Nợ dài hạn: Là các khoản nợ có thời hạn phải thanh toán phải chi trả lớn hơn một năm hoặclớn hơn một chu kỳ hoạt động kinh trái phiếu phát hành dài hạn phải trả...c] Vốn chủ sở hữu là giá trị vốn của doanh nghiệp được tính bằngSố chênh lệch giữa giá trị tài sản của doanh nghiệp trừ [-] nợ phải trả. [3]Nguồn vốn thuộc quyền sử dụng của đơn vị, đơn vị có quyền sử dụng lâu dài trong suất thờigian hoạt động của đơn vị hay nói cách khác vốn chủ sở hữu là giá trị của các loại tài sản nhưnhà cửa máy móc thiết bị, vốn bằng tiền... mà các chủ thể sản xuất kinh doanh đã đầu tư để cóthể tiến hành các hoạt động kinh tế đã xác định. Một doanh nghiệp có thể có một hoặc nhiều chủsở hữu. Đối với doanh nghiệp Nhà nước do Nhà nước cấp vốn và chịu sự giám sát của nhà nướcthì chủ sở hữu là Nhà nước. Đối với các xí nghiệp liên doanh hay công ty liên doanh thì chủ sởhữu là các thành viên tham gia góp vốn. Đối với các công ty cổ phần hay công ty trách nhiệmhữu hạn thì chủ sở hữu là các cổ đông. Đối với các doanh nghiệp tư nhân thì chủ sở hữu là ngườiđã bỏ vốn ra để thành lập và điều hành hoạt động đơn vị.Vốn của chủ sở hữu bao gồm:+ Vốn của các nhà đầu tư.+ Số vốn được bổ sung từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.+ Lợi nhuận chưa phân phối.+ Các quỹ+ Cổ phiếu quỹ.+ Lợi nhuận giữ lại.+ Chênh lệch tỷ giá và chênh !ệch đánh giá lại tài sản.Cần lưu ý số liệu vốn chủ sở hữu là một con số cụ thể, nhưng khi doanh nghiệp bị suy thoái thìchủ sở hữu chỉ được coi là sở hữu phần tài sản còn lại của đơn vị sau khi đã thanh toán hết cáckhoản nợ phải trả. Mặt khác, quyền đòi nợ của các chủ nợ có hiệu lực trên tất cả các loại tài sảncủa doanh nghiệp chứ không phải chỉ có hiệu lực trên một loại tài sản riêng lẻ nào. Vì thế ta có:Nguồn vốn chủ sở hữu = Tổng tài sản - Nợ phải trả [4]Bài 4: Sự vận động của tài sản trong kinh doanhSự vận động của tài sản trong hoạt động kinh doanhTrong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh tài sản của các doanh nghiệp sẽ không ngừngvận động, nó biến đổi cả về hình thái và lượng giá trị. Nghiên cứu sự vận động của tư bản sảnxuất, C. Mác đã nêu công thức chung về tuần hoàn của tư bản sản xuất qua 3 giai đoạn: TH...SX...H’-T. Sự biến đổi về hình thái tồn tại của các loại tài sản chủ yếu phụ thuộc vào chứcnăng cơ bản của từng doanh nghiệp.- Đối với doanh nghiệp sản xuất: Chức năng cơ bản là sản xuất và tiêu thụ sản phẩm làm ra thìtài sản của đơn vị sẽ thay đổi hình thái qua 3 giai đoạn sản xuất kinh doanh chủ yếu: cung cấp,sản xuất và tiêu thụ. Xét trong một quá trình liên tục, tương ứng với 3 giai đoạn trên tài sản sẽthay đổi hình thái từ tiền mặt hay tiền gởi ngân hàng thành nguyên vật liệu, dụng cụ, trang thiếtbị... để chuẩn bị thực hiện kế hoạch sản xuất. Sau đó tài sản sẽ biến đổi từ nguyên vật liệu chính,vật liệu phụ hao mòn tài sản cố định... thành 1 sản phẩm dở dang, bán thành phẩm hay thànhphẩm và từ thành phẩm biến đổi thành khoản thu hay tiền mặt hay tiền gởi ngân hàng khi bánsản phẩm cho người mua. Số tiền này được dùng để mua nguyên vật liệu... nhằm thực hiện choquá trình sản xuất tiếp theo. Sự vận động biến đổi của tài sản theo các giai đoạn sản xuất kinhdoanh chủ yếu như trên gọi là sự tuần hoàn của tài sản.- Đối với đơn vị kinh doanh thương mại: chức năng cơ bản là mua và bán hàng hóa. Tươngứng với 2 quá trình này, tài sản của doanh nghiệp sẽ biến đổi từ tiền thành hàng hóa khi muahàng về nhập kho và từ hàng hóa thành khoản phải thu hay bằng tiền khi bán hàng cho ngườimua. Số tiền này lại được dùng để mua hàng... Sự biến đổi này cũng mang tính tuần hoàn. Nếutính từ một hình thái tồn tại cụ thể nhất định của tài sản thì sau một quá trình vận động, tài sảntrở lại hình thái ban đầu gọi là một vòng tuần hoàn của tài sản, một vòng chu chuyển hay mộtchu kỳ hoạt động. Có thể mô tả vòng tuần hoàn một số loại tài sản của một số loạihình doanh nghiệp theo các sơ đồ sau đây:Đối với doanh nghiệp sản xuấtTrong quá trình tuần hoàn, tài sản không chỉ biến đổi về hình thái mà quan trọng hơn là tài sảncòn biến đổi về lượng giá trị [trừ trường hợp huy động thêm vốn], giá trị tăng lên của tài sản từkết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là mục tiêu của các doanh nghiệp nhằm tăng vốn của chủsở hữu sau khi thực hiện đầy đủ trách nhiệm pháp lý của mình như nộp thuế thu nhập... tức là lấythu bù chi và còn có lãi.Những thông tin về sự biến đổi giá trị rất cần thiết cho việc tìm phương hướng và biện phápthường xuyên nâng cao hiệu quả của quá trình tái sản xuất, quá trình vận động và lớn lên của tàisản. Tóm lại đối tượng của kế toán là vốn kinh doanh của đơn vị hạch toán được xem xét trongquan hệ giữa 2 mặt biểu hiện là tài sản và nguồn hình thành tài sản [nguồn vốn] và quá trình tuầnhoàn của vốn kinh doanh qua các giai đoạn nhất định của quá trình tái sản xuất, cùng các mốiquan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động của đơn vị.Bài 5: Nhiệm vụ, yêu cầu và đặc điểm của công tác kế toán1. Đặc điểm của kế toánKế toán có những đặc điểm sau:- Cơ sở ghi sổ là những chứng từ gốc hợp lệ, bảo đảm thông tin chính xác và có cơ sở pháp lý.- Sử dụng cả 3 loại thước đo là: giá trị, hiện vật và thời gian, nhưng chủ yếu và bắt buộc là giátrị.- Thông tin số liệu: Chủ yếu trình bày bằng hệ thống biểu mẫu báo cáo theo quy định của nhànước [đối với thông tin cho bên ngoài] hay theo những báo cáo do giám đốc xí nghiệp quy định[đối với nội bộ].- Phạm vi sử dụng thông tin: Trong nội bộ đơn vị kinh tế cơ sở và các cơ quan chức năng củanhà nước và những đối tượng trên quan như các nhà đầu tư, ngân hàng, người cung cấp.2. Nhiệm vụ của kế toánVới chức năng phản ảnh và kiểm tra, cung cấp thông tin toàn bộ các hoạt động kinh tế củadoanh nghiệp, kế toán có những nhiệm vụcơ bản như sau:- Thu nhập xử lý thông tin, số liệu kế toán theo đối tượng và nội dung công việc kế toán, theochuẩn mực và chế độ kế toán.- Ghi chép, tính toán, phản ánh số hiện có, tình hình luân chuyển và sử dụng tài sản, vật tư, tiềnvốn; quá trình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh [SXKD] và tình hình sử dụng kinh phí[nếu có] của đơn vị.- Kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch SXKD, kế hoạch thu chi tài chính, kiểm tra, giám sátcác khoản thu, chi phí tài chính, các nghĩa vụ thu, nộp, thanh toán nợ; kiểm tra việc quản lý, sửdụng tài sản và nguồn hình thành tài sản; phát hiện và ngăn ngừa các hành vi vi phạm phát luậtvề tài chính, kế toán.- Cung cấp các số liệu, tài liệu cho việc điều hành hoạt động SXKD, kiểm tra và phân tích hoạtđộng kinh tế, tài chính phục vụcông tác lập và theo dõi thực hiện kế hoạch phục vụ công tácthống kê và thông tin kinh tế.3. Yêu cầu đối với công tác kế toánĐể phát huy đầy đủ chức năng, vai trò và thực hiện đấy đủ các nhiệm vụ nói trên, công tác kếtoán phải đảm bảo các yêu cầu sau đây:- Kế toán phải chính xác, trung thực, khách quan, thể hiện ở các mặt:+ Chứng từ phải chính xác: chứng từ là khâu khởi điểm của kếtoán, nội dung và số liệu ghi trênchứng từ đúng với thực tế của các hoạt động kinh tế. Toàn bộ công tác kế toán có chính xác haykhông phần lớn phụ thuộc vào khâu lập chứng từ ghi chép ban đầu.+ Vào sổ phải chính xác: phải ghi chép, kiểm tra, tính toán đảm bảo sự chính xác số liệu, sau đóxếp đặt, lưu trữ chứng từ đầy đủ, gọn gàng ngăn nắp.+ Báo cáo phải chính xác: lập báo cáo phải cẩn thận, kiểm tra sốliệu thật chính xác trước khinộp cho các nơi nhận theo quy định và theo yêu cầu quản lý. Nói chung các thông tin và số liệukế toán phải được ghi chép và báo cáo trên cơ sở các bằng chứng đấy đủ, khách quan đúng vớithực tế về hiện trạng, bản chất nội dung và giá trị của nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Các thông tinvà số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo đúng với thực tế, không bị xuyên tạc, không bịbóp méo.- Kế toán phải kịp thời: Kế toán chính xác nhưng phải kịp thời mới có tác dụng thiết thực đếncông tác điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua việc cung cấp kịp thời các thông tinphục vụ yêu cấu quản lý. Muốn kịp thời thì nghiệp vụ kinh tế phát sinh lúc nào, ngày nào phảiđược tính toán ghi chép phản ánh vào sổ kế toán lúc ấy, ngày ấy. Việc khóa sổ, lập báo cáo quyđịnh vào thời gian nào phải làm đúng không chậm trễ.- Kế toán phải đầy đủ: phải phản ánh đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trên cơ sở cácchứng từ gốc hợp lệ, hợp pháp không thêm bớt, không bỏ sót và phải phản ánh tất cả các hoạtđộng kinh tế tài chính, thuộc các loại tài sản của doanh nghiệp. Thực hiện đầy đủ các nguyên tắc,thủ tục quy định mở đầy đủ các loại sổ sách cần thiết và lập đầy đủ các báo cáo kế toán theo quyđịnh.- Kế toán phải rõ ràng dễ hiểu, dễ so sánh, đối chiếu: Các công việc của kế toán từ khâu ghichép nghiệp vụ kinh tế phát sinh trên các chứng từ gốc đến việc phân loại và hệ thống hóa cácnghiệp vụ kinh tế trên các sổ sách kế toán và tổng hợp lại thành các chỉ tiêu kinh tế trên các báocáo kế toán đều phải được trình bày một cách rõ ràng dễ hiểu. Những thông tin về những vấn đềphức tạp trong báo cáo tài chính phải được giải trình trong phần thuyết minh. Các chỉ tiêu kinh tếdo kế toán báo cáo phải phù hợp cả về nội dung và phương pháp tính với các chỉ tiêu kế hoạchđể người đọc báo cáo dễ dàng so sánh đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanhcủa đơn vị. Các thông tin và số liệu giữa các kỳ kế toán trong một doanh nghiệp và giữa cácdoanh nghiệp chỉ có thể so sánh được khi tính toán và trình bày nhất quán. Trường hợp khôngnhất quán thì phải giải trình trong phần thuyết minh để người sử dụng báo cáo tài chính có thể sosánh thông tin giữa các kỳ kế toán, giữa các doanh nghiệp hoặc giữa thông tin thực hiện vớithông tin dự toán, kế hoạch.- Tổ chức kế toán trong đơn vị phải theo nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả: Công tác kế toán cũngnhư công việc khác trong đơn vị khi tiến hành đều phải thực hiện tiết kiệm chi phí và đạt hiệuquả cao góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động toàn đơn vị. Nhưng yêu cầu trên đối với kế toánđều phải được thực hiện đầy đủ. Tuy nhiên trong từng giai đoạn phát triển và mục đích sử dụngthông tin kế toán mà yêu cầu này hay yêu cầu khác có được chú trọng hơn.Bài 6: Các phương pháp của kế toán1.Phương pháp chứng từ kế toánChứng từ kế toán là phương pháp thông tin và kiểm tra sự hình thành các nghiệp vụ kinh tế. Đểphản ánh và có thể kiểm chứng được các nghiệp vụ kinh tế, kế toán có một phương pháp là: mọinghiệp vụ kinh tế phát sinh đều phải lập các chứng từ là giấy tờ hoặc vật chứa đựng thông tin[vật mang tin], làm bằng chứng xác nhận sự phát sinh và hoàn thành của các nghiệp vụ kinh tế.Phương pháp chứng từ kế toán nhằm sao chụp nguyên tình trạng và sự vận động của các đối kếtoán, được sử dụng để phản ánh các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh và thực sự hoàn thànhtheo thời gian, địa điểm phát sinh vào các bản chứng từ kế toán.Hệ thống chứng từ kế toán là căn cứ pháp lý cho việc bảo vệ tài sản và xác minh tính hợp pháptrong việc giải quyết các mối quan hệ kinh tế pháp lý thuộc đối tượng hạch toán kế toán, kiểm trahoạt động sản xuất kinh doanh.2. Phương pháp tính giáTính giá là phương pháp thông tin và kiểm tra về chi phí trực tiếp và gián tiếp cho từng loạihoạt động, từng loại tài sản như: tài sản cố định, hàng hoá, vật tư, sản phẩm và lao vụ…Phương pháp tính giá sử dụng thước đo tiền tệ để tính toán, xác định giá trị của từng loại tài sảncủa đơn vị thông qua việc mua vào, nhận góp vốn, được cấp, được tài trợ hoặc sản xuất ra theonhững nguyên tắc nhất định.3. Phương pháp đối ứng tài khoảnĐối ứng tài khoản là phương pháp thông tin và kiểm tra quá trình vận động của mỗi loại tài sản,nguồn vốn và quá trình kinh doanh theo mối quan hệ biện chứng được phản ánh vào trong mỗinghiệp vụ kinh tế phát sinh. Phương pháp đối ứng tài khoản được hình thành bởi cặp phươngpháp tài khoản và ghi sổ kép. Trong đó:- Phương pháp tài khoản: Là phương pháp phân loại và hệ thống hóa các nghiệp vụ kinh tế phátsinh theo từng nội dung kinh tế, nhằm theo dõi tình hình biến động của từng loại tài sản, nguồnvốn, từng nội dung thu, chi... trong quá trình sản xuất kinh doanh của đơn vị.- Phương pháp ghi sổ kép: Là phương pháp phản ánh sự biến động của các đối tượng kế toán,theo từng nghiệp vụ kinh tế phát sinh, trong mối liên hệ khách quan giữa chúng, bằng cách ghi sốtiền kép [một số tiền ghi 2 lần] vào các tài khoản kế toán liên quan.4. Phương pháp tổng hợp và cân đối kế toánTổng hợp và cân đối kế toán là phương pháp khái quát tình hình tài sản, nguồn vốn và kết quảhoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị hạch toán qua từng thời kỳ nhất định bằng cách lập cácbáo cáo có tính tổng hợp và cân đối như: bảng cân đối kế toán; báo cáo kết quả hoạt động kinhdoanh; báo cáo lưu chuyển tiền tệ...Mỗi phương pháp có vị trí, chức năng nhất định nhưng giữa chúng lại có mối quan hệ chặt chếvới nhau tạo thành một hệ thống phương pháp kế toán. Muốn có những thông tin tổng hợp vềtình trạng tài chính của đơn vị thì phải lập bảng cân đối tài sản tức là sử dụng phương pháp tổnghợp và cân đối kế toán. Nhưng chỉ có thể tổng hợp và cân đối các loại tài sản của doanh nghiệptrên cơ sở theo dõi chặt chẽ sự hình thành và vận động biến đổi của các loại tài sản qua các giaiđoạn sản xuất kinh doanh. Việc ghi chép vào các tài khoản kế toán bắt buộc phải dùng đơn vị đolường là tiền tệ do đó cần phải tính giá các yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất kinhdoanh.Muốn tính giá và ghi chép vào các tài khoản có liên quan một cách chính xác thì phải có nhữngthông tin chính xác về từng hoạt động kinh tế cụ thể của đơn vị tức là phải có những chứng từhợp lệ phản ánh nguyên vẹn nghiệp vụ kinh tế phát sinh và có đầy đủ cơ sở pháp lý để làm căncứ ghi sổ kế toán. Nhưng nếu chỉ dựa vào chứng từ thì không thể phản ánh hết sự biến đổi của tàisản. Trong thực tế có những hiện tượng không thống nhất giữa hiện vật với chứng từ, sổ sách dođiều kiện khách quan gây ra như: đường dôi thừa do ẩm ướt, xăng dầu bị hao hụt do bốc hơi...Để khắc phục tình trạng trên kế toán phải tiến hành kiểm kê để kiểm tra số lượng và tình hình cụthể của hiệnvật, đối chiếu giữa sổ sách với thực tế trong từng thời điểm có khớp đúng với nhauhay không. Nếu không khớp đúng thì lập biên bản và căn cứ vào biên bản [cũng là chứng từ] màđiều chỉnh lại sổ sách kế toán cho khớp với thực tế. Bảo đảm cho các số liệu của kế toán phảnánh chính xác và trung thực về các loại tài sản của doanh nghiệp.

Video liên quan

Chủ Đề