Cách rèn nề nếp học sinh lớp 1

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN1.Tên sáng kiến: Một số biện pháp rèn nề nếp cho học sinh lớp 1.2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Quản lí chủ nhiệm lớp: Nề nếp của học sinh lớp 13. Tác giả :Họ và tên: Hoàng Thị HươngNgày tháng năm sinh: 01/ 10/1983Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạmChức vụ: Giáo viên.Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Sao Đỏ 1.Điện thoại: 0983 537 5234.Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:Tên đơn vị: Trường Tiểu học Sao Đỏ 1.Địa chỉ: Phường Sao Đỏ, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương.5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu:Tên đơn vị: Trường Tiểu học Sao Đỏ 1.Địa chỉ: Phường Sao Đỏ, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương.6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến :Đối tượng áp dụng: Học sinh lớp 1 và Giáo viên giảng dạy lớp 1.7. Thời gian áp dụng sáng kiến: Tôi áp dụng sáng kiến này trong năm học 2013 –2014 tại trường mà tôi đang trực tiếp giảng dạy.HỌ VÀ TÊN TÁC GIẢXÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ[Ký tên]ÁP DỤNG SÁNG KIẾNHoàng Thị Hương1TÓM TẮT SÁNG KIẾN1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:Học sinh tiểu học đặc biệt là đối tượng học sinh lớp 1, các em còn mang tínhhiếu động, thích bắt chước, tự do, chưa có ý thức, khó làm chủ bản thân. Bên cạnhđó do sự nuông chiều từ phía một số gia đình nên dẫn đến ở một số em rơi vàotình trạng học tập tự do và không có ý thức kỉ luật. Nhận lớp qua một thời gian,tôi nhận thấy các hoạt động của lớp thiếu đồng bộ, nhịp nhàng, các em còn tùytiện trong mọi hoạt động học tập nên đã ảnh hưởng không tốt đến chất lượng giờdạy.Để có một lớp học với nề nếp tốt, kết quả học tập cao thì thầy cô giáo phải làmgì? Làm như thế nào cho có hiệu quả? Chính những trăn trở này đã thôi thúc tôinghiên cứu, tìm tòi đưa ra “Một số biện pháp rèn nề nếp cho học sinh lớp 1.”một trong những công tác chủ nhiệm hết sức quan trọng của người giáo viên.2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến:a. Điều kiện :- Về giáo viên : Được sự giúp đỡ của Ban Giám Hiệu trường: tổ chức thao giảng,dự giờ hàng tháng, tổ chức những buổi học chuyên đề thảo luận về chuyên mônđể rút ra những ý kiến hay, những đề xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việcgiảng dạy. Ngoài ra, trường có đội ngũ giáo viên có tay nghề vững lâu năm trongcông tác, có nhiều kinh nghiệm, có ý thức tốt về trách nhiệm người giáo viên vàsẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp về chuyên môn cũng như giúp nhau tháo gỡ nhữngkhó khăn hay xử lý các trường hợp học sinh cá biệt về học tập cũng như hạnhkiểm.- Về học sinh : Đa số học sinh lớp tôi đều ngoan ngoãn, lễ phép với thầy cô giáo.Các em có nhận thức tương đối đồng đều và có ý thức chấp hành kỉ luật cao.- Về phụ huynh : Phụ huynh của lớp nhiệt tình, quan tâm đến con em và tích cựctham gia các phong trào do trường, lớp,… phát động.b. Thời gian áp dụng sáng kiến : Năm học 2013 – 2014 tại lớp tôi giảng dạy.c. Đối tượng áp dụng sáng kiến : Học sinh lớp 1 nói riêng và học sinh tiểu họcnói chung.3. Nội dung sáng kiến :3.1. Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến :Trong quá trình giảng dạy, dự giờ đồng nghiệp, tôi thấy các thầy cô đã vậndụng nhiều biện pháp như nhắc nhở, nêu gương, xây dựng ban cán bộ lớp, kếthợp vơí phụ huynh… để duy trì nề nếp nhưng còn mang tính nhất thời, áp đặt,2chưa sâu sát, coi trọng việc giảng dạy kiến thúc hơn việc rèn nề nếp cho học sinhnên kết quả chưa mang tính khả thi cao. Việc tổ chức cho học sinh tự nhận xét,đánh giá hành vi, việc làm của mình trước tập thể chưa được chú trọng hết mức.Việc kết hợp của giáo viên với phụ huynh chưa thường xuyên, liên tục. Sáng kiếncủa tôi đã đưa ra những biện pháp tích cực cụ thể, sát thực, mềm dẻo trong việcrèn nề nếp cho học sinh như sau : rèn nề nếp cho học sinh bằng cách kết hợp vớiphụ huynh, rèn nề nếp cho học sinh bằng cách kết hợp với giáo viên bộ môn, rènnề nếp cho học sinh thông qua khen thưởng kỉ luật, rèn nề nếp thông qua đội ngũcán bộ lớp. Sáng kiến có thể áp dụng một cách rộng rãi, đơn giản, mà giáo viênnào cũng có thể thực hiện được. Chỉ cần giáo viên cố gắng phát huy cái mà họcsinh đang có, tránh nói hộ, làm hộ học sinh. Việc phát huy tính chủ động, sángtạo, tính tự quản của học sinh rất phù hợp với mục đích của Thông tư 30/BGD –ĐT.3.2. Khả năng áp dụng của sáng kiến:- Vận dụng cho học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng.3.2. Lợi ích thiết thực của sáng kiến:Sáng kiến kinh nghiệm thực hiện góp phần hình thành tính tự giác, ý thức kỉluật, tinh thần tập thể cho học sinh. Từ đó có thể góp phần nâng cao chất lượnghọc tập cho học sinh. Đồng thời cũng giúp tạo quan hệ thân thiện giữa học sinhvới giáo viên và giữa học sinh với nhau.Việc thực hiện sáng kiến kinh nghiệm cũng là rèn kĩ năng sống cho học sinh,giúp các em biết điều chỉnh hành vi để thích nghi trong cuộc sống sau này.4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của kinh nghiệm:Qua một quá trình thực hiện theo những định hướng rèn nề nếp cho học sinhbằng cách áp dụng những biện pháp đã triển khai, tôi thấy lớp tôi đã chuyển biếnrõ rệt cả về nề nếp và kết quả học tập của học sinh[nêu ở Mục 5- Kết quả]. Bảnthân giáo viên, nhờ sự tiến bộ của các em mà cô giáo thấy say sưa, hứng thú tronggiảng dạy. Từ đó tạo điều kiện học tốt để phát triển các phong trào hoạt độnggiáo dục khác.5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng kinh nghiệm: Đểkinh nghiệm được áp dụng và mở rộng tôi có một số kiến nghị đề xuất như sau:- BGH nên tổ chức chuyên đề về: rèn nề nếp cho học sinh, về tiết sinh hoạt lớp,… để giáo viên nghiên cứu vận dụng.- Giáo viên chủ nhiệm lớp cần kết hợp với giáo viên dạy các bộ môn coi việc duytrì nề nếp học sinh là việc đầu tiên.3MÔ TẢ SÁNG KIẾN1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến :Chúng ta đã và đang bước vào thế kỷ XXI - thế kỷ của công nghiệp hóa, hiệnđại hóa, thế kỷ của những con người năng động sáng tạo, thông minh, giàu nghịlực và đặc biệt phải luôn đón nhận những cái mới và biến những cái đó thànhđộng lực phát triển của chính mình. Để đất nước thành công trong công cuộc côngnghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải có những con người phát triển toàn diện cảvề đức và tài.Nhiệm vụ của nhà trường là giáo dục học sinh phát triển toàn diện về cácmặt giáo dục. Để có được một con người, một nhân cách toàn diện thì chúng taphải bắt đầu rèn luyện con người ấy từ những cái nhỏ bé và sơ đẳng nhất trongtoàn bộ quá trình giáo dục. Phải có nền tảng vững chắc mới mong đạt được hiệuquả cao.Là một giáo viên giảng dạy đã nhiều năm, hơn ai hết bản thân tôi thấy đượctrọng trách của mình trong sự nghiệp trồng người. Đối tượng học sinh của chúngtôi là học sinh lớp 1 mà giai đoạn học lớp 1 là một bước ngoặt quan trọngtrong đời sống của trẻ. Làm sao cho trẻ yêu thích học tập cũng như hăng háitham gia các hoạt động tập thể, sao cho các em cảm thấy trường học là ngôi nhàthứ hai của mình và mỗi ngày đến trường của các em thực sự là một ngày vui.Để có được điều đó thì cần hình thành ở các em từ những cái đơn giản đếnphức tạp trong mọi hoạt động ở lớp, từ nề nếp học tập, ý thức kỷ luật, thái độgiao tiếp với thầy cô, bạn bè, trong gia đình và ngoài xã hội... rất nhiều điều cầnquan tâm mà học tập là một vấn đề lớn trong giai đoạn các em đang ngồi trên ghếnhà trường. Do bản thân chưa có định hướng cụ thể nên các em có rất nhiều saisót mà không hề nhận ra. Chính vì vậy, muốn cho các em có nề nếp trong học tậpcũng như trong sinh hoạt, biết gọn gàng, ngăn nắp, khoa học trong từng hoạtđộng, người giáo viên phải uốn nắn, rèn giũa cho các em ngay từ khi bước chânvào ngưỡng cửa nhà trường. Bởi vậy việc hình thành nề nếp cho học sinh hằng4ngày là việc làm không thể thiếu. Đặc biệt là học sinh lớp 1 đang độ tuổi hìnhthành những phẩm chất nhân cách quan trọng nhất. Đó cũng là lí do tôi chọn sángkiến này : “ Một số biện pháp rèn nề nếp cho học sinh lớp 1” .2. Cơ sở lý luận2.1. Cơ sở tâm lí học- Giai đoạn học lớp 1 là một bước ngoặt quan trọng trong đời sống của trẻ.Từ đây tâm sinh lí của trẻ có nhiều thay đổi lớn :Thứ nhất, chú ý có chủ định [tức chú ý có ý thức, chú ý vào việc học tập]của trẻ còn yếu, khả năng kiểm soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạnnày chú ý không chủ định [chú ý tự do] chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định. Việctập trung của trẻ vào một vấn đề còn yếu và thiếu tính bền vững, dễ bị phân tánbởi những sự kiện, âm thanh khác ngoài nội dung học tập. Trẻ thường có thóiquen quan tâm chú ý đến những giờ học, môn học có đồ dùng trực quan sinhđộng, hấp dẫn có nhiều tranh ảnh, trò chơi hoặc có cô giáo trẻ trung, xinh đẹp, dịudàng,…Thứ hai, tri giác các em mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và mang tínhkhông ổn định, tri giác thường gắn với hình ảnh trực quan.Thứ ba, tưởng tượng của học sinh lớp 1 đã phát triển phong phú hơn so vớitrẻ mầm non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng nhiều. Tuynhiên, tưởng tượng của các em vẫn còn đơn giản, chưa bền vững và dễ thay đổi.Thứ tư, trong giai đoạn lớp 1, 2 ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốtvà chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Đa số học sinh chưa biết tổ chứcviệc ghi nhớ có chủ định, chưa biết cách khái quát hóa vấn đề để ghi nhớ tài liệu,chưa biết dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ.Thứ năm, ở học sinh lớp 1, trẻ thường thực hiện hành vi theo yêu cầu củangười lớn [học để được bố cho đi ăn kem, học để được cô giáo khen, quét nhà đểđược ông cho tiền,…]. Khi đó, sự điều chỉnh ý chí đối với việc thực hiện hành vi5ở các em còn hạn chế. Đặc biệt khi gặp khó khăn các em không có nghị lực, ý chíđể thực hiện đến cùng mục đích đã đề ra.Nói tóm lại, 6 tuổi vào lớp 1 là bước ngoặt lớn của trẻ thơ. Môi trường họctập thay đổi một cách cơ bản: trẻ phải tập trung chú ý trong thời gian liên tục từ30 – 35 phút. Nhu cầu nhận thức chuyển từ hiếu kỳ, tò mò sang tính ham hiểubiết, hứng thú khám phá. Trẻ bắt đầu phải kiềm chế dần tính bột phát, tính hiếuđộng để chuyển thành tính kỷ luật, nền nếp, chấp hành nội quy học tập. Sức bềnvững, tính khéo léo của các thao tác khi đôi bàn tay tập viết được phát triểnnhanh. Tất cả những điều đó đều là thử thách đối với trẻ, muốn trẻ vượt qua đượctốt những thử thách đó thì phải cần có sự quan tâm giúp đỡ của gia đình, nhàtrường và xã hội dựa trên sự hiểu biết về tri thức khoa học.2.2. Cơ sở ngôn ngữ họcĐa số học sinh tiểu học có ngôn ngữ nói tương đối thành thạo. Giai đoạntrẻ vào lớp 1 bắt đầu xuất hiện ngôn ngữ viết. Nhờ có ngôn ngữ phát triển mà trẻcó khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự khám phá bảnthân thông qua các kênh thông tin khác nhau. Vai trò của ngôn ngữ là hết sứcquan trọng đối với quá trình nhận thức lý tính và cảm tính của trẻ, nhờ có ngônngữ mà tri giác, cảm giác, tư duy, tưởng tượng của trẻ phát triển dễ dàng và đượcbiểu hiện cụ thể thông qua ngôn ngữ nói và viết. Ta có thể đánh giá được trí tuệcủa trẻ thông qua ngôn ngữ . Như vậy ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng nêncác nhà giáo dục phải trau dồi vốn ngôn ngữ và hướng dẫn các em sử dụng ngônngữ thật tốt trong ứng xử giao tiếp.Học sinh lớp 1 là đối tượng học sinh bé nhất của cấp học đầu tiên, lớp họctạo nên nền móng tốt cho những năm học sau. Kinh nghiệm bản thân tôi cho thấynếu giáo viên chủ nhiệm làm tốt công tác xây dựng và rèn luyện ý thức tự giáctích cực, tự giác thực hiện tốt các nề nếp tốt và có ý thức tự quản tốt thì sẽ có tácdụng rất lớn cho việc thực hiện các chỉ tiêu giáo dục, góp phần quan trọng vàoviệc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh.63. Thực trạng của vấn đề:Năm học 2013 – 2014 tôi được nhà trường tiếp tục tin tưởng và phân cônggiảng dạy lớp 1. Với số lượng học sinh khá đông, việc duy trì tốt mọi nề nếp quảlà một bài toán khó. Qua một thời gian tìm hiểu tôi thấy thực trạng lớp tôi có mộtsố ưu điểm và hạn chế sau :3.1. Ưu điểm :Lớp 1H có tổng số 36 em, trong đó 13 em nữ. Tất cả đều chung một độ tuổi sinhnăm 2007.a. Về cơ sở vật chất:- Nhà trường và phụ huynh đã đầu tư phòng học thoáng mát về mùa hè, ấm, đủánh sáng về mùa đông. Cơ sở vật chất đầy đủ như bàn ghế hai chỗ ngồi đóng mới100% đúng quy cách, đảm bảo chất lượng, có tủ để chăn màn, sách vở, đồ dùnghọc tập,...b. Học sinh :Các em có chung một độ tuổi nên đặc điểm tâm sinh lí của các em có nhiều điểmgiống nhau, nhận thức của các em khá đồng đều.Các em ngoan ngoãn, lễ phép vâng lời thầy giáo, cô giáo, chấp hành tốt nội quycủa trường của lớp đề ra. Một số em có ý thức trong lao động, biết tự phục vụ vàbước đầu có khả năng tự quản tương đối tốt.c. Phụ huynh:Các em học sinh trong lớp đều được gia đình quan tâm về mọi mặt, có nhiều phụhuynh có ý thức, nhiệt tình chăm lo đến sự nghiệp giáo dục: nhiệt tình trong cáchoạt động của lớp và nhà trường, tích cực tham gia các phong trào do nhà trườngvà liên đội tổ chức,...3.2. Hạn chế :Do tình hình chung của nhà trường, biên chế lớp học tăng, sĩ số học sinhtrong một lớp đông, hơn nữa do đặc điểm tâm sinh lí của học sinh nên khâu tổchức và ổn định nề nếp lớp của khối lớp 1 còn gặp nhiều khó khăn, vất vả :7- Biểu hiện về chấp hành nội quy của trường, lớp :+ Giờ giấc : Còn nhiều học sinh đi học muộn, nghỉ học.+ Đồ dùng học tập : Học sinh còn quên đồ dùng ở nhà như : sách, vở, bút,….. vàchưa có ý thức giữ gìn đồ dùng học tập còn hay làm hỏng, đánh mất,…+ Trang phục : Trang phục của các em chưa gọn gàng, mặc trang phục chưa phùhợp khi đến trường. Ví dụ : Một số em còn mặc quần đùi, áo ba lỗ,… đến trường.+ Vệ sinh : Các em chưa biết cách giữ gìn vệ sinh trường, lớp như còn mang quàđến trường ăn rồi vứt rác bừa bãi, vệ sinh cá nhân chưa sạch sẽ ở một số em+ Hoạt động giữa giờ : Lớp còn nhiều học sinh chưa biết cách xếp hàng khi tậpthể dục, còn nói chuyện, nô đùa trong buổi tập.+ Một số quy định khác : Các em chưa có ý thức xếp hàng khi về, rải rác vẫncòn học sinh mua quà cổng trường gây ách tắc giao thông,….- Biểu hiện về nề nếp học tập : Các em chưa có thói quen tập trung vào học tập,ngồi trong lớp còn chưa chú ý nghe giảng, hay làm việc riêng. Khi lấy đồ dùngcòn lúng túng, chưa nhanh nhẹn làm kéo dài thời gian tiết học.- Biểu hiện về ứng xử đơn giản : Còn học sinh nói năng chưa lễ phép với thầy côgiáo, xưng hô với bạn bè chưa lịch sự.Sau đây là kết quả theo dõi việc thực hiện các nề nếp của lớp tôi qua hai tuầnhọc đầu tiên :Nề nếpSố HS thực hiện tốt nề nếpSố học sinh vi phạmGiờ giấcĐồ dùng học tậpTrang phụcVệ sinhHoạt động giữa giờMột số quy định khác2882511279201615211719Học tập2016Giao tiếp ứng xử1917Nhìn vào bảng theo dõi trên tôi thấy nề nếp lớp tôi vẫn còn rất nhiều em viChấp hành nội quiphạm nội qui trường lớp, nề nếp học tập chưa ngoan, giao tiếp chưa tốt đặc biệttập trung ở một số học sinh: Nguyễn Trung Anh, Phạm Đức Duy, Hà TrungQuyết, Phạm Tuấn Ngọc, Nguyễn Đức Hiếu, Đinh Danh Chí Dũng, Lê Thị Ngọc8Phương,.... Những hạn chế trên thể hiện rất rõ trên bảng theo dõi, cụ thể là : có 8em đến lớp không đúng giờ; 11 em quên đồ dùng ở nhà hoặc đánh gãy, làm rách,nát, đánh mất đồ dùng ở trên lớp; 9 em trang phục chưa sạch đẹp có em còn mặcváy ngủ, quần đùi áo ba lỗ đến lớp; 16 em chưa biết tự vệ sinh cá nhân như chưabiết rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh, không biết tự vệ sinh khi đi đại tiện;21 em xếp hàng chưa qui củ; 16 em còn vi phạm nề nếp học tập; 17 em chưa biếtứng xử, giao tiếp đủ câu đủ ý,.....Nguyên nhân của việc vi phạm trên là do các em được gia đình chiều chuộng.Từ bé các em quen với cách nói tự do, ăn, uống, ngủ, nghỉ không có qui củ. Ngoàira một số em do bố mẹ đi làm xa phải ở nhà với ông bà, chú, bác,... nên sự dạy dỗchưa được chu đáo, sát sao.Tóm lại qua một thời gian theo dõi lớp và qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy,nề nếp của học sinh trong lớp còn rất nhiều hạn chế, nhất là khi yêu cầu các em ápdụng vào thực hành. Các em còn thiếu tập trung trong học tập, còn vi phạm nềnếp: quên sách, quên vở, quên đồ dùng, đi học không đúng giờ,....Đó cũng là điềudễ hiểu. Chính vì vậy muốn rèn giũa các em theo một guồng nề nếp nhất định thìgiáo viên phải biết lựa chọn những phương pháp và hình thức tổ chức rèn luyệnsao cho phù hợp để các em luôn hứng thú tự rèn luyện để hoàn thiện bản thân màkhông cảm thấy bị áp đặt, bị bắt buộc. Có như vậy người giáo viên mới có thể làmtốt công tác chủ nhiệm lớp.4. Các biện pháp thực hiện4.1. Biện pháp 1: Rèn nề nếp cho học sinh bằng cách kết hợp với phụ huynh:Buổi họp phụ huynh đầu năm là buổi họp hết sức quan trọng. Trong buổi họpnày giáo viên không những có cơ hội làm quen, tìm hiểu tình hình gia đình, tínhcách của từng em trong lớp chủ nhiệm mà còn giúp giáo viên kết hợp với phụhuynh rèn nề nếp cho các em. Cụ thể, giáo viên cần nhắc nhở phụ huynh làm tốtcác công việc sau:9- Phụ huynh cần kiểm tra sách vở, đồ dùng học tập của con trước khi đến lớp.Dần dần tạo cho các em thói quen biết tự làm việc đó theo thời khóa biểu của lớpmà không cần đến bố mẹ.- Giáo dục con ý thức gọn gàng, ngăn nắp khi học tập, vui chơi.- Sinh hoạt điều độ, đúng thời gian biểu, giờ nào việc nấy, tránh tình trạng vừahọc vừa chơi vừa nói chuyện sẽ ảnh hưởng đến việc học tập- Thường xuyên trao đổi với giáo viên chủ nhiệm, qua trò chuyện trực tiếp,điện thoại hoặc qua sổ liên lạc để kịp thời nhắc nhở, đôn đốc học sinh nề nếp ởlớp cũng như ở nhà.4.2. Biện pháp 2: Rèn nề nếp cho học sinh bằng cách kết hợp với giáo viênbộ môn:Khác với lớp mầm non, các em chỉ tiếp xúc với một cô giáo. Bước vào lớp một,ngoài cô giáo chủ nhiệm lớp, các em còn được học các thầy, cô giáo bộ môn khácnhư: Âm nhạc, Tiếng Anh, Mĩ thuật, Thể dục, Tin học... nên việc rèn nếp cho họcsinh cần phải có sự thống nhất. Bản thân là một giáo viên chủ nhiệm để cho nềnếp của lớp tốt, tôi thường xuyên trao đổi với giáo viên bộ môn về tình hình lớp,những hạn chế, ưu điểm của lớp, những em học sinh cá biệt…. để các thầy cô kịpthời nắm bắt để cùng rèn nếp cho học sinh từ tư thế ngồi, cách cầm bút, cách phátbiểu...Nề nếp này phải được rèn luyện thường xuyên và liên tục để các em tạothói quen và trở thành điều kiện thuận lợi cho việc học tập ở những lớp trên.4.2.1. Nền nếp học tập trên lớp.Khi bắt đầu cắp sách đến trường, hầu hết các em đều chưa có ý thức về nềnnếp trong học tập, thói quen chưa tốt lời nói chưa rõ ràng, các em không diễn đạtđủ ý, trả lời chưa đầy đủ câu văn, còn lúng túng khi giơ tay phát biểu ý kiến, việcxếp hàng ra vào lớp chưa có quy củ...Đó là hạn chế mà hầu hết các em học sinhhay mắc phải. Vì vậy giáo viên ngay từ đầu phải hướng dẫn cụ thể, tỉ mỉ, uốn nắnlời nói của học sinh cho đầy đủ câu văn từ những câu trả lời đơn giản nhất. Khôngcần quá rập khuôn nhưng sửa ngay từ đầu rất dễ đối với lứa tuổi này và dần dần10sẽ trở thành kỹ năng của học sinh. Ngoài ra giáo viên có thể tổ chức cho các nhómhọc sinh tham đóng kịch, xử lí tình huống,….để các em có cơ hội học tập nhiềuhơn trong giao tiếp ứng xử.4.2.1.1. Tư thế ngồi, cách cầm bút :Ở lớp 1 các em bắt đầu được làm quen với hoạt động học. Ngoài mục tiêutrọng tâm là làm thế nào để học sinh đọc đúng, viết đúng, viết đẹp, tính toán tốtthì một kĩ năng không thể thiếu đối với học sinh lớp 1 là rèn tư thế ngồi, cách cầmbút cho các em. Nếu tư thế ngồi không đúng sẽ làm cho chữ viết không đẹp, viếtkhông được nhanh hơn nữa sẽ gây tổn hại cho sức khỏe như cong vẹo cột sống,mắt cận,….Chính vì vậy giáo viên cần rèn luyện nghiêm túc và tỉ mỉ nề nếp này.Trước tiên giáo viên cần làm mẫu cách cầm bút, cách di chuyển bút trênkhông để cổ tay khi viết thật mềm mại, uyển chuyển. Hướng dẫn học sinh tư thếngồi thẳng lưng, không tì ngực vào bàn, đầu hơi cúi, mắt cách vở 25- 30 cm; nêncầm bút bằng tay phải, tay trái tì nhẹ lên mép vở để trang viết không bị xê dịch;hai chân để song song, thoải mái. Hướng dẫn học sinh cầm bút bằng 3 ngón tay[ ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa ] với độ chắc vừa phải [ không cầm bút chặt quáhay lỏng quá ]: khi viết dùng 3 ngón tay di chuyển bút nhẹ nhàng, từ trái sangphải, cán bút nghiêng về bên phải; cổ tay, khuỷu tay và cánh tay cử động theo,mềm mại, thoải mái. Có hai kiểu chữ viết đó là chữ đứng và chữ nghiêng. Khihướng dẫn học sinh viết chữ đứng, giáo viên cần hướng dẫn các em để vở ngayngắn trước mặt. Còn khi tập viết chữ nghiêng cần nhắc các em để vở hơi nghiêngsao cho mép vở phía dưới cùng với mép bàn tạo thành một góc khoảng 15 độ. Khiviết độ nghiêng của nét chữ cùng với mép bàn tạo thành một góc vuông 90 độ.Như vậy, dù viết theo kiểu chữ đứng hay kiểu chữ nghiêng, nét chữ luôn phảiđúng mẫu và đẹp. Học sinh nhìn và viết đúng theo mẫu trong vở tập viết; viết theoyêu cầu được giáo viên hướng dẫn tránh viết dở dang chữ ghi tiếng hoặc viết chòira mép vở không có dòng kẻ li; khi viết sai chữ không được tẩy xóa mà cần đểcách một khoảng ngắn rồi viết lại.11Bằng cách hướng dẫn tỉ mỉ như trên tôi thấy lớp tôi không có hiện tượnghọc sinh cong xẹo cột sống, mắt cận mà chữ viết của các em trong lớp luôn sạchđẹp và đều nét.4.2.1.2.Cách trình bày câu trả lời :Nhiều học sinh lớp 1 lời nói chưa rõ ràng, các em không diễn đạt đủ ý, trảlời chưa đầy đủ câu văn còn lúng túng khi giơ tay phát biểu ý kiến. Nếu giáo viênngay từ đầu không rèn luyện tốt nề nếp này sẽ tạo cho học sinh thói quen xấu saunày. Chính vì vậy, dạy lớp 1 chúng ta phải thật kiên trì, phải coi học sinh như con,phải uốn nắn học sinh từ lời ăn tiếng nói ban đầu. Học sinh nào chưa làm được thìchúng ta cho học sinh tập đi tập lại nhiều lần bao giờ các em làm tốt thì thôi.Không nên nóng giận, quát mắng. Điều đó sẽ làm cho học sinh mất bình tĩnhkhông diễn đạt được thành lời mà thầy cô phải thật gần gũi, nhẹ nhàng và gợimở để học sinh từng bước trả lời được câu hỏi từ dễ đến khó. Có như vậy tiết họcmới trở nên hấp dẫn đối với học sinh4.2.1.3. Cách sắp xếp và sử dụng sách vở đồ dùng học tập:Quan sát trong quá trình học tập, tôi thấy học sinh còn lúng túng trong việcsử dụng sách vở, đồ dùng học tập của từng môn học, cách giơ tay, giơ bảng chưađi vào nề nếp. Chính vì vậy, giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách lấy đồ dùnghọc tập, cách mở sách giáo khoa đọc bài, cách mở vở viết bài, …. một cách tỉ mỉvà có hệ thống. Việc sắp xếp sách vở, đồ dùng học tập nên hướng dẫn học sinhthực hiện vào giờ truy bài. Những buổi học đầu tiên giáo viên cần hết sức nghiêmtúc trực tiếp kiểm tra nề nếp này. Sau một thời gian, khi học sinh đã tạo thành thóiquen trong nề nếp thì giáo viên cần phân công cho các em tự kiểm tra lẫn nhau đểhình thành cho các em tính tự quản tốt.4.2.1.4. Một số kí hiệu trong tiết học: Trong giờ học tôi thường quy ước một sốkí hiệu để các em thực hiện thành thói quen.12Ví dụ : Kí hiệu lấy sách : SKí hiệu lấy vở :Kí hiệu lấy bảng – phấn :Kí hiệu khoanh tay :Kí hiệu lấy que tính :Ngoài ra có thể dùng thêm một số kí hiệu khác như lấy thước, lấy bút,….đểtrong tiết học giáo viên luôn là người hướng dẫn và học sinh luôn chủ động tiếpthu kiến thức.Ví dụ: Mở sách vở: Để sách vở ngay ngắn lên bàn bộ đồ dùng để trên cùng,quyển vở ở dưới và cuối cùng là bảng con.Khi có hiệu lệnh lấy bảng một tay rút bảng, một tay giữ sách bên trên, tư thếthoải mái, nhẹ nhàng. Viết bảng xong cần cất đúng vị trí cũ. Do các em chưa họcsố nên khi đọc xong bài giáo viên hướng dẫn học sinh kẹp que tính vào trang bàivừa học rồi gập lại đến khi giáo viên yêu cầu mở sách thì lúc này học sinh có thểnhanh chóng mở được bài mà thầy cô yêu cầu không phải mất nhiều thời gian,gây tiếng động ồn ào cho lớp. Trong giờ học vần cũng vậy, tôi đưa ra các quyđịnh rõ ràng, cụ thể cho học sinh về cách phát âm, đánh vần, đọc trơn, phân tíchtiếng hay luyện nói,...- Khi đánh vần, đọc trơn, giáo viên chỉ từng chữ ghi âm hay cả tiếng, từ.- Khi phân tích, giáo viên đặt ngang thước dưới tiếng hay từ cần phân tích. Họcsinh thực hành theo dãy, theo nhóm v.v...Tất cả những việc ấy đều cần có một nề nếp tốt nếu không sẽ ảnh hưởng tớichất lượng học tập của một giờ học4.2.1.5. Rèn ý thức tự giác học tậpRèn cho học sinh có ý thức tự học là một phần rất quan trọng trong vấn đề hìnhthành nề nếp học tập cho học sinh lớp một. Hiện nay học sinh đều được học 2buổi/ngày nên toàn bộ bài học được giáo viên hướng dẫn và học sinh hoàn thànhngay trên lớp. Ngoài việc rèn cho các em nề nếp học tập ngoan ngoãn, chú ý nghe13giảng, hăng hái phát biểu ở trên lớp thì cần rèn cho các em có nền nếp học tậpbuổi tối ở nhà với sự hướng dẫn của bố mẹ như: biết tự soạn sách vở, đồ dùnghọc tập, đọc trước bài, …. cho ngày hôm sau. Bên cạnh đó việc ban cán sự củalớp kiểm tra sự chuẩn bị sách vở, đồ dùng học tập của từng bạn để báo cáo côgiáo kịp thời nhắc nhở những bạn còn vi phạm, thiếu đồ dùng học tập hay chưachuẩn bị tốt bài là rất cần thiết. Lâu dần các em sẽ có thói quen về nền nếp học tậpở nhà và sang học kỳ 2 các em có thể tự giác ngồi vào bàn học không cần sự nhắcnhở của bố mẹ cũng như tự soạn lấy sách vở và đồ dùng học tập cho mình. Nhưvậy ý thức tự giác và nền nếp học ở nhà rất cần thiết và có lợi cho các em khi họcở các lớp sau này.4.2.2.Nề nếp về chấp hành nội qui, qui định của trường, lớp.4.2.2.1.Giờ giấc : Cần rèn cho học sinh lớp 1 nề nếp đi học đúng giờ, đặc biệt lànhững hôm thời tiết rét. Giáo viên cần cử một đội tự quản luân phiên theo dõinhững bạn đi học đầy đủ, đúng giờ rồi ghi vào bảng theo dõi sĩ số của lớp đượcđính trên tường[ Bảng theo dõi sĩ số đính kèm ở phần phụ lục]. Nhìn vào bảngtheo dõi sĩ số này, giáo viên và học sinh sẽ theo dõi được cụ thể những bạn họcsinh đi học muộn[ đánh dấu x], những bạn nghỉ học[ ghi thành số: nghỉ 1 buổi cóphép kí hiệu là 1P, nghỉ 1 buổi không phép kí hiệu là 1KP]. Cuối tuần trong giờsinh hoạt giáo viên tích cực tuyên dương những bạn đi học đầy đủ, đúng giờ vàphê bình những bạn thường xuyên đi học muộn, nghỉ học không lí do, không xinphép. Nếu học sinh vi phạm nhiều lần mà không có sự thay đổi tôi sẽ gặp trực tiếpphụ huynh hoặc trao đổi qua điện thoại, sổ liên lạc để gia đình nhắc nhở, sắp xếpcho con mình có một kế hoạch giờ giấc hợp lí, khoa học. Với cách làm này tôithấy sau một thời gian lớp tôi không còn tình trạng học sinh đi học muộn và giảmhẳn số học sinh nghỉ học.4.2.2.2. Rèn nền nếp giữ gìn sách vở đồ dùng học tập.Ngoài các nề nếp nêu trên thì nếp nếp giữ gìn sách vở và đồ dùng học tập cũnglà một nội dung quan trọng trong việc dạy dỗ các em. Thói quen sắp xếp đồ dùng14ngăn nắp cũng là yếu tố giúp học sinh học tập nghiêm túc hơn. Tôi hướng dẫncác em cách lấy sách vở trong cặp nhanh không gây tiếng động, thực hiện đượctheo các ký hiệu của giáo viên yêu cầu, ví dụ::lấy bảng; STV: sách TiếngViệt… Em nào đã sắp xếp sách vở một cách khoa học thì lấy vở nhanh, tôi chocác em thi đua xem em nào, tổ nào làm nhanh [trong thời gian đầu] khi cô nói vàviết tên môn học trên bảng là lúc các em lấy sách vở của môn đó ra. Giữa giáoviên và học sinh có sự kết hợp nhịp nhàng.Trong giờ học vần khi gọi các em đọc bài sách giáo khoa tôi thường hướng dẫncác em tôi thường hướng dẫn các em cầm sách thật ngay ngắn, cầm làm sao đểquyển sách không bị bẻ gáy, quăn mép; hướng dẫn cách đứng, cách lấy hơi, cáchngắt nghỉ để làm sao các em đọc được to, rõ ràng. Khi hết tiết học hoặc kết thúcbuổi học tôi nhắc nhở học sinh cất sách vở, đồ dùng, …. thật gọn gàng, ngăn nắpđể đồ dùng không bị rơi, bị gãy, bị mất,…Làm được như vậy, học sinh không những giữ gìn được sách vở, đồ dùng họctập mà khi vào tiết học giáo viên không mất thời gian để giải quyết những việcbên ngoài tiết học[ như việc học sinh lấy lẫn đồ của nhau, mất đồ dùng,…].Tôithấy tiết học rất nhẹ nhàng và đảm bảo đủ thời gian cho các hoạt động học tập.4.2.2.3. Vệ sinhVệ sinh cá nhân, vệ sinh lớp học cũng là một nề nếp đáng quan tâm đối với cácthầy cô. Có vệ sinh sạch sẽ, học sinh mới có sức khỏe tốt để đến trường, giáo viênmới có thêm sự hứng thú trong công việc. Để học sinh có thói quen, biết cách vệsinh cá nhân hằng ngày thì trước tiên giáo viên cần nhắc nhở các em trước khi đếnlớp phải ăn mặc sạch sẽ, gọn gàng đồng thời nhắc nhở các em hằng ngày phải rửatay trước khi ăn cơm, sau khi dùng bảng phấn, sau khi đi vệ sinh…Nếu em nàotay chân bẩn thì cho đi rửa ngay và nhắc nhở phê bình trước lớp. Ngoài việc vệsinh cá nhân, giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách vệ sinh trường lớp sạch sẽbằng cách quán triệt học sinh vứt rác đúng nơi quy định, phân ra các nhóm họcsinh luân phiên nhau trực nhật lớp[ quét nhà, lau bảng,…]. Đến cuối tuần có phần15thưởng động viên khuyến khích cho những học sinh sạch sẽ, gọn gàng trong cảtuần và phê bình những học sinh chưa sạch sẽ. Nếu giáo viên hướng dấn học sinhlàm những công việc trên thường xuyên, liên tục thì các em sẽ luôn được hưởngmột môi trường học tập trong lành, sạch sẽ.4.2.2.4. An toàn cổng trường :Vì trường tôi ở gần đường quốc lộ, xe cộ đi lại rấ tấp nập. Trường lại có duynhất một cổng chính, với số lượng học sinh gần 1000 em và gần 1000 phụ huynhđưa đón nên giờ đưa và đón học sinh việc đi lại rất khó khăn. Tôi thường nhắcnhở tuyên truyền học sinh của lớp mình không nên mua quà, mua đồ dùng tạikhu vực cổng trường để tránh việc ách tắc giao thông và tai nạn giao thông. Đồngthời kết hợp với phụ huynh làm tốt công tác này ngay từ buổi họp phụ huynh đầunăm.4.2.3. Rèn nề nếp giao tiếp ứng xử:Từ xưa đến nay, việc xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh luôn đượccác nhà giáo dục quan tâm, thực hiện. Đó là một trong những điều kiện tiên quyếtđể đào tạo thế hệ trẻ trở thành những công dân tốt có đức độ, tài năng nhằm phụcvụ đất nước trong tương lai. Người xưa có câu :“Lời nói chẳng mất tiền muaLựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”chính là rất coi trọng vấn đề này. Nó không chỉ tạo dựng mối quan hệ với ngườixung quanh mà còn thể hiện tư cách, phẩm chất của cá nhân. Đối với lứa tuổi họcsinh, các em phải làm gì khi giao tiếp với người xung quanh để xứng đáng là conngoan, trò giỏi và trở thành một công dân văn minh, lịch sự, có văn hóa sau này.Xuất phát từ mục đích ý nghĩa đó, qua thực tế công tác, chúng tôi trình bày mộtvài suy nghĩ về việc xây dựng các mối quan hệ thân thiện trong nhà trường nhưsau:4.2.3.1. Giao tiếp với thầy cô: Hơn ai hết cách ứng xử của người thầy phải có tínhgiáo dục. Đứng trên bục giảng, người thầy không chỉ truyền dạy kiến thức cho16học sinh mà còn là tấm gương để các em noi theo: từ lời ăn, tiếng nói, cử chỉ đếnhành động...Vậy người thầy phải nói như thế nào? Phải ứng xử như thế nào? Phảiluôn cân nhắc lời ăn tiếng nói cũng như cử chỉ, hành động, phải ứng xử như thếnào? để học sinh kính trọng, nếu không, khó có thể dạy được các em. Bản thânthầy cô giáo là một tấm gương song phải luôn tích cực nhắc nhở các em làm tốtcác nghi thức giao tiếp như :- Khi gặp thầy cô phải chào hỏi niềm nở, đúng tư thế.- Khi giao tiếp với thầy cô phải luôn giữ lễ phép.- Luôn vâng lời dạy bảo, tuân theo sự hướng dẫn của thầy cô .- Khi lầm lỗi, được thầy cô chỉ bảo, hãy thành khẩn nhận lỗi và sửa chữa, điềuchỉnh hành vi của mình.-Trường hợp bị oan, đến gặp thầy cô lễ phép giải bày không nên về báo phụhuynh đến đôi co làm mất đi mối quan hệ tốt đẹp giữa gia đình và nhà trường.- Khi thầy cô vào hay rời lớp, hãy đứng dậy trong tư thế nghiêm trang để chào.4.2.3.2. Giao tiếp với mọi người: Trong các giờ giải lao, giờ sinh hoạt lớp, sinhhoạt ngoại khóa, tiết học đạo đức… giáo viên có thể nêu một số tình huống giaotiếp hoặc cho học sinh quan sát một số đoạn video có tình huống giao tiếp,… Họcsinh thảo luận tìm ra phương án ứng xử đúng. Thông qua những tình huống đógiáo viên giáo dục học sinh ý thức giao tiếp lịch sự với mọi người.4.2.3.3. Giao tiếp với bạn bè: Bản thân tôi thường quan sát học sinh trong tiết họchoặc trong giờ ra chơi giao tiếp ứng xử với nhau. Ngoài ra khuyến khích học sinhtự quan sát nhau rồi thông báo cho cô giáo. Giáo viên cần tuyên dương những emcó hành vi giao tiếp tốt với bạn bè và nhắc nhở phê bình những em giao tiếp chưatốt, chưa lịch sự và nhắc nhở các em luôn ôn hoà, nhã nhặn, đoàn kết tương thântương trợ khi có bất hoà hãy dùng lời nói để giải quyết, không dùng hành vi bạolực khiến sự việc càng thêm mâu thuẫn; Cùng nhau chia sẻ, giải quyết những trởngại trong cuộc sống, trong học tập; Tránh sự đố kị, đặt điều nói xấu nhau, chia bèkéo cánh.17Qua các biện pháp đã thực hiện, tôi nhận thấy muốn cho học sinh có nền nếptốt phải hướng dẫn học sinh một cách tỉ mỉ, từ việc chuẩn bị sách vở đồ dùng họctập ở nhà đến việc lấy vở, cất vở khi chuyển tiết, nếp giơ tay phát biểu, chú ýnghe giảng, giữ gìn sách vở đồ dùng học tập, làm bài, viết bài sao cho theo kịpcác bạn, đảm bảo thời gian học….. Thầy, cô giáo phải thực sự là người cha, ngườimẹ thứ hai của các em ở trường. Qua một thời gian thực hiện các biện pháp trêntôi thấy học sinh lớp mình có sự chuyển biến rõ rệt về nền nếp cũng như chấtlượng học tập và các em tiếp thu bài tốt, không khí học tập sôi nổi, thực sự tiếthọc trở thành niềm vui, niềm khao khát tìm tòi cái mới. Các em rất hứng thú saymê trong học tập. Như vậy rõ ràng việc rèn nếp học tập cho học sinh lớp mộtkhông những làm cho các em luôn có thói quen chuẩn bị tốt, đầy đủ đồ dùng họctập, có ý thức nề nếp trong từng môn học mà còn giúp các em chủ động sángtạo hơn học tập.Nói tóm lại, đối với học sinh thời gian đầu tôi trực tiếp kiểm tra mọi nề nếpcủa các em, sau một thời gian các em đã hình thành được thói quen tôi giao việckiểm tra theo dõi cho ban cán sự lớp. Tôi hướng dẫn các em tổ trưởng ghi lại kếtquả theo dõi của mình vào một quyển sổ tay riêng[ mẫu do giáo viên cung cấp].Cuối tuần nộp cho bạn lớp trưởng và bạn lớp trưởng tổng kết lại nêu nhận xéttrước lớp. Tổ nào, cá nhân nào thực hiện tốt mọi nề nếp sẽ được khen và nhậnphần thưởng. Còn em nào chưa thực hiện tốt nề nếp tôi đã phê bình và nhắc nhởtrước lớp. Trường hợp học sinh vi phạm nề nếp nhiều lần tôi sẽ kết hợp trao đổivới phụ huynh bằng gọi điện thoại hoặc trao đổi qua sổ liên lạc để khắc phục tìnhtrạng của học sinh.Bản thân tôi cùng các thầy giáo, cô giáo bộ môn cũng rất vui và hài lòngkhi các em đã thật sự vào nề nếp. Lúc này giáo viên chỉ việc giảng dạy mà khôngmất nhiều thời gian ổn định nề nếp của lớp.4.3. Biện pháp 3 : Rèn nề nếp cho học sinh thông qua khen thưởng, kỉ luật18Tâm lí của học sinh tiểu học là thích được khen, thích được động viên. Nắmđược tâm lí đó nên ngay từ đầu năm tôi đã bàn bạc với phụ huynh lập cho lớp 1bảng thi đua. Trong bảng thi đua ghi rõ nội dung vi phạm, nội dung khenthưởng .Trong một tuần, nếu học sinh được khen 4 nội dùng thì sẽ được dán hoađỏ, 3 nội dung sẽ được dán hoa vàng, 2 nội dung sẽ được dán hoa xanh vào mụcKhen thưởng[ Có ở bảng mẫu sau].TuầnThứ……2Họ và tênND vi phạmHọ và tênND khenKhenthưởngHoàng Văn BĐi học muộn, quênbút chì, …Trần Văn NChăm chỉ, ngoanngoãn, ….3456Với hình thức thi đua này sẽ giúp cho các em luôn phấn khởi và tích cực thiđua rèn luyện nề nếp.4.4. Biện pháp 4: Rèn nề nếp lớp thông qua đội ngũ cán bộ lớp[Hội đồng tựquản]Trong một lớp việc xây dựng đội ngũ cán bộ lớp là hết sức quan trọng và cầnthiết. Xây dựng được một đội ngũ cán bộ lớp tốt sẽ giúp cho giáo viên thực hiệntốt kế hoạch rèn luyện nề nếp cho toàn lớp. Chính vì vậy giáo viên nên chọnnhững học sinh gương mẫu về mọi mặt làm trọng trách cán sự lớp.Năm học 2013 – 2014, được sự quan tâm của Phòng giáo dục, giáo viên tiểuhọc chúng tôi được tham gia dự lớp bồi dưỡng hè tập huấn về mô hình trườngtrường tiểu học mới Việt Nam [ gọi tắt là VNEN] tại trường Tiểu học Bến Tắm.Sau khi được học tập bồi dưỡng, tôi đã mạnh dạn vận dụng nội dung tổ chức hoạtđộng giáo dục theo mô hình VNEN để rèn nề nếp cho học sinh lớp mình. Trongđó xây dựng được một hội đồng tự quản tốt sẽ thúc đẩy sự phát triển về đạo đức,tình cảm và ý thức xã hội của học sinh thông qua kinh nghiệm hoạt động thực tếcủa các em trong trường và mối quan hệ của các em với những người xung quanh;đảm bảo cho các em được tham gia một cách dân chủ, tích cực vào đời sống học19đường; tạo cơ chế khuyến khích các em tham gia một cách toàn diện vào các hoạtđộng của nhà trường và phát triển tính tự chủ, sự tôn trọng, bình đẳng, tinh thầnhợp tác và đoàn kết của học sinh; tổ chức HĐTQ là do các em học sinh tự tổ chứcthực hiện. Chính vì vậy giáo viên cùng với học sinh cả lớp nên chọn những họcsinh gương mẫu về mọi mặt để bầu vào Ban tự quản. Mô hình ban cán sự lớp củalớp tôi như sau :CTHĐTQNguyễn Bá VinhPCTHĐTQNg. Đức MinhBanhọc tậpBan sức khỏe– vệ sinhBan đốingoạiPCTHĐTQBùi Huy PhongBan thưviệnBanTDTTBan AT cổngtrườngMỗi ban được giao một nhiệm vụ riêng, hàng ngày, hàng tuần các ban thực hiệnnhiệm vụ của mình dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Cuối tuần trưởng ban sẽ báocáo lại kết quả theo dõi của mình cho giáo viên. Lúc này giáo viên là người độngviên, khuyến khích,tuyên dương khen thưởng những học sinh làm tốt và nhắc nhởphê bình những học sinh chưa tốt để làm gương cho tất cả học sinh trong lớp. Nóitóm lại để lớp học có nề nếp tốt, chất lượng học tập cao giáo viên không chỉ kếthợp với phụ huynh, kết hợp với giáo viên bộ môn thống nhất các hình thức rènluyện, kết hợp với các biện pháp nêu gương, kết hợp với hội đồng tự quản của lớp,… mà một yếu tố không thể thiếu là người giáo viên phải thật sự nghiêm khắc,phải luôn luôn sát sao với mọi hoạt động, phong trào của lớp, phải chú trọng việc20cho học sinh tự đánh giá, nhận xét hành vi, việc làm của bản thân mình, của bạntrước tập thể.5. Kết quả đạt đượcTừ việc áp dụng các biện pháp rèn luyện nề nếp cho học sinh lớp 1 đã nêuở trên . Tôi đã đạt được kết quả rất khả quan trong việc nâng cao mọi nề nếp củalớp mình trong năm học 2013 – 2014[ với 36 học sinh] như sau:Học lựcGiỏiSL%KháSL%TBSL%YếuSL%Đầu nămCuối HK1Cuối HK2Hạnh kiểmTHĐĐTHCĐĐSL%SL%15 41,7 11 30,5719,438,43020 55,6 11 30,5411,212,73225 70,1 10 27,212,70036Nhìn vào bảng thống kê 2 mặt giáo dục và văn hóa tôi thấy:83,388,810064016,711,20* Chất lượng học tập chuyển biến tích cực cụ thể như sau :Về học tập : Học sinh giỏi: Đã có ở bảng trên.Chất lượng mũi nhọn: Hội thi giải toán trên mạng: 1 học sinh đạt giải nhì, 1học sinh đạt gỉai ba, 4 học sinh đạt giải khuyến khích.Hội thi viết chữ đẹp: 1 học sinh đạt giải ba, 2 học sinh đạt giải khuyến khíchPhong trào văn hóa văn nghệ: Đạt giải khuyến khích hội thi văn nghệ, đạt giảikhuyến khích hội thi Lãnh đạo trẻ tương lai.Danh hiệu thi đua lớp: Lớp xuất sắc.* Học sinh biết tự điều chỉnh mình cũng như nhắc nhở nhau để giữ nề nếplớp. Lớp trở thành lớp tự quản tốt, đặc biệt công tác vệ sinh trực nhật cũng nhưsinh hoạt 15 phút đầu buổi.* Việc phê và tự phê trong học sinh cũng đã trở thành thói quen, em nàocũng cố gắng sửa đổi để được tuyên dương trước lớp.21* Các hoạt động học tập, sinh hoạt của lớp đã nhịp nhàng; trật tự, thể hiệntốt ở các giờ tự học. Giáo viên đã thấy nhẹ nhàng hơn trong các giờ dạy. Khôngkhí lớp học vui hơn, gần gũi thân thiện hơn.Sau một thời gian kiên trì nghiên cứu và giáo dục các em bằng nhiều biệnpháp, một số học sinh chậm tiến ở lớp tôi chủ nhiệm không còn. Số học sinhngoan, đạo đức tốt, học giỏi nhiều hơn, điều đó chứng tỏ một số biện pháp giáodục theo các nội dung được đề cập trong đề tài đã thành công.6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng:- Bản thân tôi chỉ dừng lại nghiên cứu tìm ra “Một số kinh nghiệm rèn nề nếp chohọc sinh lớp 1”. Đối tượng nghiên cứu còn hạn hẹp. Sau này có điều kiện tôi sẽtiếp tục nghiên cứu tìm ra “ Một số kinh nghiệm rèn nề nếp cho học sinh ở lớp2,3,…” để nâng cao nề nếp cho học sinh trong toàn trường.22KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ1. Kết luậnTrước thực trạng của lớp còn rất nhiều hạn chế nêu trên. Qua một thời gian ápdụng những giải pháp thiết thực và sâu sát kết hợp với việc quan sát, hướng dẫn,kiểm tra học sinh đồng thời tổ chức cho học sinh biết cách tự đánh giá. Tôi thấylớp tôi đã có sự tiến bộ rõ rệt trong việc duy trì mọi nề nếp như: nề nếp học tập,nề nếp chấp hành nội qui, qui định của trường lớp, nề nếp ứng xử giao tiếp,…Lớpđược thầy cô bộ môn, thầy cô trong ban giám hiệu đánh giá là một lớp có nề nếptốt.Kinh nghiệm: “ Một số biện pháp rèn nề nếp cho học sinh lớp 1” một lần nữakhẳng định việc hình thành cho học sinh tính tự giác trong học tập, tính kỉ luật vàtinh thần đoàn kết trong tập thể cho học sinh không những ở lớp 1 mà còn là nềntảng cho các lớp học trên.2. Khuyến nghị : Hướng dẫn học sinh lớp 1 rèn nề nếp là một vấn đề cần thiếttrong các nhà trường tiểu học hiện nay. Để đạt được kết quả mong muốn khôngthể thiếu sự quan tâm của nhà trường, gia đình, đoàn thể, các cấp, các ngành.2.1.Học sinh:- Có đầy đủ đồ dùng học tập.- Có ý thức tự giác trong học tập- Có ý thức chấp hành nội quy, quy định của nhà trường.2.2. Giáo viên:- Khi hướng dẫn học sinh rèn nề nếp, giáo viên cần coi trọng khâu thực hành củahọc sinh, phải sát sao với học sinh, rèn cho học sinh thực hiện được mục tiêu mớithôi, tránh kiểu nói xong để đấy rồi mặc cho học sinh muốn làm gì thì làm.- Chúng ta cần phải thực sự quan tâm yêu thương, gần gũi và tạo không khí vuitươi, phấn khởi trong các buổi học để giúp các em ham học, yêu thích môn họcvà tích cực rèn luyện để hoàn thiện mình.23- Mỗi giáo viên cần thận trọng giao tiếp trước lớp và không ngừng tu dưỡng, rènluyện bản thân để trở thành tấm gương sáng để các em noi theo.2.3. Nhà trường:- Cần tổ chức các chuyên đề về rèn nề nếp cho học sinh.2.4. Phòng giáo dục:- Nên mở các hội thi kể chuyện về những tấm gương có ý thức học tập, có ý thứckỉ luật cao. Để qua đó học sinh học tập được nhiều hơn những tấm gương ngườitốt việc tốt và là động lực để các em phấn đấu, rèn luyện mình.- Cần tổ chức chuyên đề phổ biến kinh nghiệm rèn nề nếp cho học sinh đặc biệt làhọc sinh lớp 1.Trên đây là một số biện pháp trong sáng kiến “ Một số biện pháp rèn nề nếpcho học sinh lớp 1” của tôi. Đó là những biện pháp mà tôi đã nghiên cứu và đúcrút được qua những năm dạy học tuy chưa phải là lớn nhưng tôi đã, đang làm vàthu được kết quả tương đối cao. Song để kinh nghiệm của tôi đầy đủ hơn nữa. Tôimong được sự tham gia góp ý của tổ chuyên môn, ban giám hiệu nhà trường,phòng giáo dục và bạn bè đồng nghiệp để tôi xây dựng được một kinh nghiệmđầy đủ và đạt hiệu quả tốt nhất.Tôi xin chân thành cảm ơn!24PHỤ LỤCNội dungPHẦN 1 - THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾNPHẦN 2 - TÓM TẮT SÁNG KIẾNPHẦN 3 - MÔ TẢ SÁNG KIẾN1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến2. Cơ sở lý luận:2.1. Cơ sở tâm lí học2.2. Cơ sở ngôn ngữ học3. Thực trạng của vấn đề4. Các biện pháp thực hiện:4.1. Rèn nề nếp cho học sinh bằng cách kết hợp với phụ huynh4.2. Rèn nề nếp cho học sinh bằng cách kết hợp với giáo viên bộ mônTrang1244556799104.3. Rèn nề nếp cho học sinh thông qua khen thưởng, kỉ luật184.4. Rèn nề nếp thông qua đội ngũ cán bộ lớp195. Kết quả đạt được6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộngPHẦN 4 – KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ1. Kết luận2. Khuyến nghị212223232325

Video liên quan

Chủ Đề