Chính sách bảo hộ là gì

Chính sách bảo hộ mậu dịch đối với nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [326.07 KB, 44 trang ]


LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách bảo hộ từ xưa tới nay luôn tồn tại như một chính sách thiết yếu và
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của mọi quốc gia bởi tất cả các quốc
gia dù mạnh hay yếu, dù phát triển hay đang phát triển đều muốn xây dựng và phát
triển các ngành sản xuất trong nước đồng đều và bền vững. Bước sang thế kỉ XXI,
khi mà tiến trình toàn cầu hoá và khu vực hoá cũng đã đi được một chặng đường
khá dài với sự ra đời của các tổ chức kinh tế như WTO, EU, AFTA, NAFTA tạo
ra một sân chơi chung và những quy tắc nhằm phát triển thương mại quốc tế, thì
vấn đề bảo hộ càng được quan tâm nhiều hơn. Bởi quá trình toàn cầu hóa kinh tế
đang đứng trước nguy cơ phá sản bởi các quốc gia trên thế giới đang gia tăng bảo
hộ mậu dịch sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu để bảo vệ sản phẩm trong
nước, hạn chế những hàng hóa nhập vào cũng như những nguồn vốn mà họ chọn
lựa để đổ vào hoặc chuyển ra khỏi đất nước. Sự ảnh hưởng của bảo hộ mậu dịch
đến nền kinh tế thế giới không hề nhỏ. Tổng giám đốc của tổ chức Thương mại thế
giới WTO - Pascal Lamy - đã cảnh báo rằng: Các quốc gia đừng nhân cơ hội này
để bảo hộ mậu dịch. Năm 2009, khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu lên tới
đỉnh điểm, Tổng thống Brazil, Lula da Silva đã có câu nói rất đáng chú ý tại Diễn
đàn Kinh tế Mỹ Latinh: "Chủ nghĩa bảo hộ chẳng khác nào một thứ ma túy, có thể
gây hưng phấn tức thì nhưng sau đó sẽ đẩy nạn nhân vào trạng thái trầm cảm kéo
dài". Theo báo cáo của Tổ chức Thương mại Thế giới [WTO], xu hướng bảo hộ
mậu dịch tại hầu hết các nước đang gia tăng, đi ngược lại với những cam kết do các
nền kinh tế công nghiệp hoá hàng đầu thế giới đưa ra. Số liệu thống kê mới đây của
Ngân hàng Thế giới [WB] đã chỉ ra rằng có tới 1.593 biện pháp bảo hộ mậu dịch đã
được áp dụng trên thế giới từ tháng 11/2008 đến tháng 11/2011, trong đó có 1.187
biện pháp phân biệt đối xử đối với các nhà cung cấp nước ngoài. Bảo hộ mậu dịch
giống như chất béo gây xơ cứng động mạch [cholesterol]: tích lũy chậm chạp các
biện pháp hạn chế thương mại từ năm 2008 và hiện nay đã tác động đến 3% tổng số
hàng hoá toàn cầu và 4% trao đổi thương mại của Nhóm các nền kinh tế phát triển
và đang phát triển hàng đầu [G-20], tạo ra thách thức không chỉ đối với WTO mà cả
nền kinh tế toàn cầu. Các quốc gia phát triển và đang phát triển, trong đó có Việt


Nam đang phải đứng trước những lựa chọn quan trọng khi xác định hướng đi cho
chính sách thương mại của họ, trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang thay đổi
nhanh chóng như hiện nay.


Chương 1: BẢO HỘ MẬU DỊCH
I. Khái niệm bảo hộ mậu dịch:
Bảo hộ mậu dịch là thuật ngữ trong kinh tế học quốc tế chỉ việc áp dụng nâng
cao một số tiêu chuẩn thuộc các lĩnh vực như chất lượng, vệ sinh, an toàn, lao động,
môi trường, xuất xứ,... hay việc áp đặt thuế xuất nhập khẩu cao đối với một số mặt
hàng nhập khẩu nào đó để bảo vệ ngành sản xuất các mặt hàng tương tự [hay dịch
vụ] trong một quốc gia nào đó.

II. Nguyên nhân các nước bảo hộ mậu dịch
1. Bảo vệ ngành công nghiệp non trẻ.
Chính phủ cần bảo vệ những ngành công nghiệp mới có tiềm năng của đất
nước để giúp chúng lớn mạnh và trưởng thành có được khả năng sáng tạo tự đổi
mới và sức cạnh tranh cao.
2. Tạo nên nguồn tài chính công cộng.
Việc đánh thuế với hàng hoá nhập khẩu sẽ giúp chính phủ có 1 khoản thu lớn
phục vụ cho tài chính công cộng
3. Khắc phục một phần tình trạng thất nghiệp
Thông qua việc thực hiện thuế quan bảo hộ, việc có những hàng rào bảo hộ
sẽ giúp cho sản phẩm nước ngoài giá cao hơn. Nhờ vậy mà hàng trong nước phần
nào có lợi thế hơn về giá so với hàng nhập khẩu. Chính vì vậy, sẽ thúc động hoạt
động sản xuất trong nước qua đó khắc phục một phần tình trạng thất nghiệp.
4. Thực hiện phân phối lại thu nhập
Phân phối lại thu nhập xã hội là sự can thiệp của Nhà nước thông qua các quy
định của pháp luật, của các chính sách để vận động, thuyết phục những người có thu
nhập cao đóng góp để cùng nhà nước giúp đỡ cộng đồng và những người có thu

nhập thấp.
5. Bảo vệ việc làm và ngành công nghiệp
Khi thương mại tự do phát triển thì sẽ ngày càng có nhiều hàng hóa được đi
vào thị trường nội địa của quốc gia đó. Điều này đã làm ảnh hưởng đến các nhà sản
xuất trong nước trong nước, làm cho hàng hóa trong nước phải cạnh tranh mạnh
hơn với hàng hóa nước ngoài. Nếu hàng hóa trong nước không đủ sức cạnh tranh và
bị thất bại dẫn đến sản xuất giảm sút dẫn đến người lao động trong nước mất việc
làm và dẫn đến tình trạng thất nghiệp cao.Việc có hàng rào bảo hộ sẽ giúp cho tăng
lợi thế sản phẩm nội địa, qua đó bảo vệ được ngành công nghiệp trong nước, việc
làm cũng được bảo vệ.
6. Bảo vệ an ninh quốc gia
Một số ngành công nghiệp đóng vai trò thiết yếu đối với quốc gia chúng ta
cũng phải ra sức bảo hộ. Để bảo vệ những công dân, các chính phủ đã ban hành luật
hạn chế những công ty có thể và không thể làm trong việc theo đuổi lợi nhuận. Ví
dụ như pháp luật liên quan đến: lao động trẻ em, thương lượng tập thể, cạnh


tranh[chống độc quyền], bảo vệ môi trường, cơ hội bình đẳng, sở hữu trí tuệ, lương
tối thiểu, an toàn lao động và sức khỏe...
7. Trả đũa
Để trả đũa dằn mặt hàng hoá các quốc gia cũng áp dụng các chính sách bảo
vệ mậu dịch với hàng hoá của mình. Đó là khi thực hiện thương mại tự do không
công bằng. Khi một nước cho nước khác được tự do vào nước mình nhưng mà
trong khi đó nước đó lại thực hiện chính sách bảo hộ hàng hóa của họ không cho
hàng hóa của mình vào nước họ thì dẫn đến nước đó cũng sẽ thực hiện chính
sách bảo hộ để nhằm bảo vệ ngành của nước họ.
8. Văn hóa
Các quốc gia hạn chế buôn bán hàng hóa và dịch vụ nhằm đạt được các mục
tiêu về văn hóa nhất là mục tiêu bảo vệ bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc.
Văn hóa và tự do hóa thương mại đan quyện và tác động qua lại với nhau.Văn hóa

mỗi quốc gia đều dần dần có sự thay đổi do có sự hiện diện của con người và sản
phẩm từ các nền văn hóa khác. Những tác động ngoài mong mốn của văn hóa buộc
Chính phủ phải ngăn cản việc nhập khẩu những sản phẩm được coi là có hại.
1.3.2. Tác động tiêu cực:

Khi đánh thuế nhập khẩu, người sản xuất hàng trong nước được lợi nhưng
người tiêu dùng bị thiệt hại vì nó làm tăng giá của hàng nhập khẩu từ mức giá thế
giới lên bằng với giá thế giới cộng với thuế nhập khẩu. Đồ thị này chỉ ra tác động
của thuế nhập khẩu:


Khi thực hiện thương mại tự do cân bằng thị trường như sau: người tiêu dùng
muốn mua một số lượng Qd hàng hoá ở mức giá thế giới trong khi những nhà sản
xuất trong nước chỉ sản xuất một số lượng Qs ở mức giá thế giới. Bằng cách nhập
khẩu phần thiếu hụt [chênh lệch giữa Qd và Qs] ở mức giá thế giới, người tiêu dùng
có thể thoả mãn toàn bộ nhu cầu ở mức giá này.
Khi có thuế nhập khẩu cân bằng thị trường như sau: giá hàng hoá trong nước
bị tăng lên đến mức bằng giá thế giới công với thuế nhập khẩu kích thích những nhà
sản xuất trong nước sản suất thêm, đẩy sản lượng sản xuất trong nước từ Qs lên Qs'.
Tuy nhiên do giá tăng nên cầu của người tiêu dùng bị kéo từ Qd xuống Qd'. Rõ ràng
việc giá bị đẩy lên cao đã làm cho người tiêu dùng phải trả thêm một khoản tiền
bằng diện tích của hình chữ nhật CEGH để mua số lượng hàng Qd'. Khoản trả thêm
này một phần [bằng diện tích hình BCEF] được chuyển cho chính phủ dưới dạng
thuế nhập khẩu thu được, một phần [bằng diện tích hình AFGH] được chuyển thành
lợi nhuận của nhà sản xuất trong nước do vậy hai phần này không làm thiệt hại lợi
ích tổng thể của quốc gia. Tuy nhiên phần diện tích hình ABF đã bị mất trắng, đây
chính là tổn thất của xã hội để chi phí cho sự yếu kém của những nhà sản xuất trong
nước. Diện tích hình ECD lại là một tổn thất nữa khi độ thoả dụng của người tiêu
dùng bị giảm sút: thay vì có thể tiêu thụ Qd hàng hoá, do có thuế nhập khẩu họ chỉ
có thể tiêu dùng Qd' mà thôi.

2. Phi thuế quan:
Có các công cụ như hạn ngạch xuất nhập khẩu, hạn ngạch thuế quan, cấm vận
thương mại, yêu cầu về tỷ lệ nội địa hóa, trợ cấp, rào cản kỹ thuật, thủ tục hành
chính, chống bán phá giá, phá giá tiền tệ.
2.1. Hạn ngạch xuất nhập khẩu:
Là biện pháp quy định số lượng hàng hóa được đưa vào hay đưa ra khỏi một
nước trong một quãng thời gian nhất định, thường là một năm.Có 2 hình thức đó là
hạn ngạch nhập khẩu và hạn ngạch xuất khẩu.
2.2. Cấm vận thương mại
Là biện pháp cấm hoàn toàn quan hệ thương mại đốivới một quốc gia nào đó.
Cấm vận có thể thực hiện đối với một mặt hoặc một vài hoặc thậm chí đối với tất cả
các mặt hàng.
2.3. Yêu cầu về tỷ lệ nội địa hóa:
Chính phủ quy định rằng một mặt hàng nào đó chỉ có thể được bán trên thị
trường trong nước nếu như một phần nhất định của mặt hàng đó được cung cấp bởi
các nhà sản xuất nội địa. Mục đích của quy định này là nhằm buộc các doanh
nghiệp nước ngoài phải sử dụng tới nguồn lực của nước sở tại trong quá trình sản
xuất.
2.4. Thủ tục hành chính:
Là quy định của chính phủ về thủ tục hải quan, thủ tục tham gia kinh doanh,
thủ tục thành lập doanh nghiệp để tại nên những cản trở thương mại. Một ví dụ
đơn giản về thủ tục hành chính là nếu thủ tục hải quan, lưu kho lưu bãi nhằm kéo


dài thời gian nhập khẩu vào thị trường nội địa, khi đó, hàng nhập khẩu sẽ phải mất
nhiều thời gian thậm chí là khó có thể tiếp cận thị trường trong nước đặc biệt là
hàng hóa nhanh hỏng như nông sản, thủy hải sản Điều đó góp phần hạn chế hàng
nhập khẩu, tạo điều kiện cho các nhà sản xuất trong nước.
Vì vậy, thủ tục hành chính ngày càng ít được sử dụng đặc biệt là trong bối
cảnh các nước đang kiện toàn hệ thống luật pháp nhằm đơn giản hóa thủ tục hành

chính một mặt tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước, một mặt góp phần thu
hút nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư trong nước.
2.5. Trợ cấp:
2.5.1. Khái niệm:
Trợ cấp là việc Chính phủ dành cho doanh nghiệp những lợi ích mà trong
điều kiện thông thường doanh nghiệp không có được. Những lợi ích đó có thể phát
sinh từ việc Chính phủ trực tiếp cấp tiền hay tạo điều kiện thuận lợi về mặt tài
chính, tín dụng, cho doanh nghiệp.
Có hai hình thức trợ cấp cơ bản: trợ cấp trong nước và trợ cấp xuất khẩu.
- Trợ cấp xuất khẩu: là loại trợ cấp nhằm mục đích đẩy, khuyến khích xuất
khẩu hàng hóa bán ra thị trường nước ngoài có giá có thể còn thấp hơn tại thị
trường trong nước. Điều này tạo sự cạnh tranh không lành mạnh trong thương
mại quốc tế.
- Trợ cấp trong nước: là loại trợ cấp dành cho các doanh nghiệp chủ yếu sản
xuất hàng hóa phục vụ thị trường nội địa, hàng hóa được trợ cấp là hàng hóa
tiêu dùng nội địa. Tuy nhiên khi hàng hóa này được người sản xuất xuất khẩu
thì nó lại trở thành trợ cấp xuất khẩu. Ảnh hưởng của nó khá giống với trợ
cấp xuất khẩu dù mục đích ban đầu khác nhau.
2.5.2. Tác động của trợ cấp:
Khi hàng hóa xuất khẩu được trợ cấp, nước xuất khẩu sẽ mở rộng được thị
trường ra nước ngoài do hàng xuất khẩu có lợi thế cạnh tranh về giá. Việc mở rộng
quy mô thị trường này lại gây sức ép khó khăn cho ngành sản xuất hàng hóa tương
tự của nước nhập khẩu: sự suy giảm sản lượng, doanh số bán, lợi nhuận
Về mặt kinh tế học, tác động của trợ cấp là ngược lại với thuế quan, đồng
thời cũng tạo ra phần mất mát không cho xã hội, làm giảm hiệu quả của tự do mậu
dịch. Chính vì thế nước nhập khẩu sẽ có thể áp dụng biện pháp đối kháng thuế
chống trợ cấp . Nó là khoản thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu được trợ cấp từ giá
Chính phủ nước nhập khẩu nhằm triệt tiêu những lợi thế do khoản tài trợ mang lại.
Mức thuế này được thông qua sau một quá trình điều tra xác định mức độ tài trợ và
mức độ thiệt hại gây ra của nước nhập khẩu.

2.6. Rào cản kỹ thuật:
Là việc Chình phủ áp dụng các điều kiện về tiêu chuẩn quy định kỹ thuật, an
toàn vệ sinh dịch tễ, chất lượng sản phẩm, quy định về hàm lượng các chất, các tiêu
chuẩn chế biến và sản xuất theo quy định môi trường, để tạo nên những cản trở
thương mại.


Ở các nước có nền kinh tế phát triển, Chính phủ sử dụng công cụ tiêu chuẩn
kỹ thuật như một biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế nhập khẩu bằng việc đưa ra các
quy định khắt khe đối với hàng hóa nhập khẩu.
Trái lại, các quy định này sẽ là rào cản lớn đối với hàng hóa xuất khẩu từ các
quốc gia có nền sản xuất hàng hóa chưa đạt trình độ cao. Trong những năm gần đây,
khi các công cụ mang tính cứng nhắc như thuế quan, hạn ngạch, dần được dỡ bỏ
thì công cụ tiêu chuẩn kỹ thuật trở thành một trong các công cụ mềm dẻo ngày càng
được các quốc gia sử dụng phổ biến.
2.7. Chống bán phá giá:
2.7.1. Bán phá giá:
Khái niệm: Bán phá giá hàng hóa là việc bán sản phẩm của một nước sang
một nước khác với giá thấp hơn giá bán thông thường của hàng hóa đó tại nước
xuất khẩu
Mục đích: Về cơ bản bán phá giá hàng hóa được thực hiện với 3 mục đích
chính:
- Gạt bỏ đối thủ cạnh tranh.
- Thu lợi nhuận độc quyền.
- Giải quyết hàng tồn kho.
2.7.2. Chống bán phá giá
a] Điều kiện áp dụng:
- Hàng hóa nhập khẩu có bán phá giá.
- Ngành sản xuất hàng hóa tương tự ở nước nhập khẩu bị thiệt hại đáng kể.
- Có mối quan hệ nhân quả giũa việc hàng hóa nhập khẩu bán phá giá và thiệt

hại nói trên.
b] Các biện pháp thực hiện:
Trước khi nước nhập khẩu đưa ra mức thuế chống bán phá giá các bên sẽ
thương lượng về việc thay đổi mức giá bán hay hạn chế nhập khẩu.
Thực hiện thuế chống bán phá giá: khoản thuế bổ sung ngoài thuế nhập khẩu
thông thường đánh vào sản phẩm của nước ngoài bán phá giá vào thị trường nước
nhập khẩu.
2.8. Phá giá tiền tệ:
Phá giá tiền tệ là việc giảm giá của đồng nội tệ so với các loại ngoại tệ so với
mức mà Chính phủ đã cam kết duy trì trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Về lý
thuyết, việc phá giá tiền tệ sẽ khiến cho hàng hóa sản xuất trong nước sẽ rẻ hơn một
cách tương đối so với hàng hóa sản xuất ở nước ngoài. Qua đó sẽ kích thích xuất
khẩu, hạn chế nhập khẩu.Tuy nhiên, đây là công cụ có tính hai mặt bởi nó sẽ góp
phần làm cho lạm phát tăng cao và nhiều tác dụng phụ khác. Vì vậy, phải xét trên
từng điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia để áp dụng cho phù hợp.

IV. Tác động tích cực và tác động tiêu cực


Bảo hộ mậu dịch giống như con dao hai lưỡi: nó bảo vệ nền kinh tế trong nước,
song đồng thời cũng đẩy những nỗ lực đấu tranh cho tự do thương mại vào ngõ cụt.
1.Tác động tích cực
Làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu, qua đó bảo vệ cho sản
xuất hàng hóa trong nước, đặc biệt là ngành công nghiệp non trẻ với năng lực cạnh
tranh còn kém. Giúp nhà sản xuất trong nước nâng cao sức cạnh tranh, có điều kiện
mở rộng sản xuất, thâm nhập sâu rộng vào thị trường nước ngoài do bảo hộ mậu
dịch tạo điều kiện cho nhà sản xuất trong nước sản xuất hàng hóa với số lượng lớn
làm cho chi phí bình quân mỗi sản phẩm sản xuất trong nước giảm đáng kể.
Thuế quan góp phần đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước.
Làm giảm thất nghiệp chung và làm tăng thu nhập. Khi được bảo hộ mậu

dịch, hàng hóa trong nước có lợi thế cạnh tranh hơn so với hàng hóa nhập khẩu,
người tiêu dùng trong nước chi tiêu ít cho hàng hóa nhập khẩu hơn. Thay vào đó họ
chi tiêu nhiều hơn cho hàng hóa sản xuất trong nước làm cho cầu hàng hóa của
ngành được bảo hộ tăng lên. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng, doanh nghiệp mở
rộng sản xuất và thuê thêm lao động làm giảm tỉ lệ thất nghiệp và thu nhập của
người lao động tăng lên.
Thuế quan góp phần giúp chống lại bán phá giá và trợ cấp của hàng hóa nhập
khẩu, qua đó tạo môi trường thương mại quốc tế lành mạnh, bình đẳng hơn.
Góp phần cải thiện cán cân thương mại vì bảo hộ mậu dịch góp phần thúc
đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu.
Bảo vệ văn hóa và truyền thống dân tộc: Văn hóa của mỗi quốc gia đều dần
dần có sự thay đổi bởi sự hiện diện của con người và sản phẩm tới từ các nền văn
hóa khác. Điều này có thể gây ra những tác động ngoài mong muốn đối với nền văn
hóa dân tộc, buộc Chính phủ phải có những biện pháp thích hợp, ngăn cản việc
nhập khẩu những hàng hóa có hại để bảo vệ văn hóa và truyền thống dân tộc.
2.Tác động tiêu cực
Chính phủ cần phân biệt rạch ròi giữa những ngành công nghiệp cần bảo hộ
và những ngành không cần bảo hộ. Đây là công việc rất khó thực hiện, nếu như
không muốn nói là không thể thực hiện được. Sự bảo hộ có thể làm cho các doanh
nghiệp trong nước trở nên trì trệ và không chịu đổi mới, từ đó dẫn tới sự tụt hậu so
với các doanh nghiệp, các đối thủ cạnh tranh quốc tế. Một khi bảo hộ được áp
đặt thì việc dỡ bỏ nó sẽ rất khó khăn.
Về mặt kinh tế thì bảo hộ có hại hơn có lợi, dân chúng sẽ phải hạn chế tiêu
dùng vì phải trả giá cao hơn cho những sản phẩm có chất lượng thấp, còn các doanh
nghiệp thì ngày càng phải dựa vào những cái ô bảo hộ của Chính phủ để tồn tại.
Hoạt động của thị trường vốn quốc tế ngày nay cho phép các doanh nghiệp có
thể tiếp cận được với nhiều nguồn vốn khác nhau, do vậy không nhất thiết phải tiếp
nhận từ phía Chính phủ. Sự hỗ trợ của Chính phủ với doanh nghiệp trong nước có
thể dẫn đến làm giảm hiệu quả và tăng chi phí với chính những doanh nghiệp đó.
Việc Chính phủ tăng hỗ trợ cho một ngành công nghiệp nào đó còn là kết quả của



của sự vận động chính trị của một số nhóm có quyền lợi đặc biệt. Nếu điều này xảy
ra thì những người tiêu dùng hoàn toàn không có lợi gì từ việc hỗ trợ của Chính phủ
và họ sẽ ngừng ngay việc mua những hàng hóa có chất lượng thấp do các doanh
nghiệp được bảo hộ sản xuất ra. Điều này có thể khuấy động tính cạnh tranh tiêu
cực, thậm chí có thể dẫn tới chiến tranh thương mại giữa các quốc gia. Nước áp
dụng chính sách này hoàn toàn có thể bị các nước khác trả đũa.
Cạnh tranh lớn nhất trong bất kỳ quốc gia nào không phải là cạnh tranh giữa
các công ty trong nước với các đối thủ nước ngoài mà là cạnh tranh giữa các công
ty trong nước với nhau nhằm tranh giành nguồn vốn và lao động khan hiếm trên
sân nhà. Các rào cản thương mại và các khoản trợ cấp có thể làm tăng sản lượng
đầu ra, tăng việc làm cho người lao động và mang lại mức lợi nhuận cao hơn cho
một số ngành công nghiệp trong nước, nhưng họ đạt được điều đó bằng cách gây
bất lợi cho các công ty nội địa khác không được trợ cấp hay được bảo hộ. Và nếu
nguồn lợi nhuận trong các ngành công nghiệp được chính phủ ưu đãi là giá trong
nước cao hơn chứ không phải là nhờ năng suất cao hơn, thì khoản lợi nhuận này
chẳng qua chính là thu nhập bị mất đi của một số người khác trong quốc gia này.
Do đó, khoản lợi nhuận này không làm tăng thu nhập quốc dân. Các chính sách này
gây thiệt hại cho người tiêu dùng trong nước cũng như cho các công ty sử dụng
nguyên liệu nhập khẩu, và đem lại lợi ích cho các nhà sản xuất có những mối quan
hệ chính trị rộng chuyên sản xuất những sản phẩm cạnh tranh với hàng nhập khẩu.
Vì các chính sách bảo hộ thường không rõ ràng và tiến trình thực hiện thường cũng
không công khai nên những công ty này luôn có điều kiện thuận lợi để tiến hành các
cuộc vận động hành lang phục vụ lợi ích riêng của họ. Xét về phúc lợi xã hội, việc
tìm mọi cách để làm tăng lợi nhuận của các ngành công nghiệp năng suất thấp
thường kéo theo tái phân phối thu nhập, làm giảm thu nhập của những người nghèo
nhất trong xã hội và đẩy các nguồn lực khan hiếm ra khỏi các khu vực kinh tế có
khả năng tạo ra mức độ tăng trưởng kinh tế cao.



Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO HỘ MẬU DỊCH CỦA
THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM HIỆN NAY
I. Thực trạng bảo hộ mậu dịch trên thế giới hiện nay
1. Thực trạng hiện nay
Năm 2011 kinh tế các nước đều trong tình trạng suy giảm, nhất là các nước
khủng hoảng nợ công làm mậu dịch thế giới cũng u ám và giảm sút. Báo cáo mới
nhất về tình hình buôn bán thế giới do Tổ chức mậu dịch thế giới [WTO] công bố
cuối tháng 12/2011 cho biết mức tăng trưởng mậu dịch thế giới năm 2011 chỉ đạt
5,8% thấp hơn so với mức dự kiến ban đầu 6,5%. Đây là mức tăng thấp nhất 18
năm qua, trong đó các nước phát triển chỉ tăng 3,7%, nước đang phát triển tăng
8,5%. Năm 2010, mức tăng trưởng mậu dịch thế giới đạt 14,5% cho dù vẫn bị tác
động tiêu cực của năm 2009 để lại. Đầu Quý 1/2011, mậu dịch thế giới có bước
khởi sắc đáng mừng với mức tăng tới 22%, nhưng sau đó cứ lùi dần và cả năm chỉ
tăng được 5,8%. Thương mại thế giới bắt đầu xu hướng đi xuống vào giữa năm
2008, khi nền kinh tế toàn cầu bắt đầu suy thoái.
Trước áp lực phục hồi kinh tế, các quốc gia đã buộc phải áp dụng một loạt
chính sách mang tính bảo hộ [như thuế quan, trợ giá và bảo lãnh tài chính] nhằm
bảo vệ sản xuất trong nước. Vấn đề bảo hộ mậu dịch đang ngày càng nóng lên sau
khi các nước đưa ra các gói kích thích kinh tế lớn và khuyến khích dùng hàng nội
để giảm bớt khó khăn cho các nhà sản xuất. Ngoài việc che chắn, bảo vệ cho nền
sản xuất trong nước trước sức tấn công của hàng hóa nhập khẩu, nhiều nước đang ra
sức nâng đỡ các ngành công nghiệp yếu kém trong nước. Những lo lắng về tình
trạng bảo hộ thương mại trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã trở thành
một trong những nội dung chính của các diễn đàn, hội nghị quốc tế trong năm 20082009, như: Hội nghị Bộ trưởng Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á Thái Bình
Dương [APEC, tháng 11/2008]; Hội nghị Nhóm 20 nền kinh tế phát triển và đang
nổi lên [G20, tháng 11/2008]; Hội nghị Bộ trưởng tài chính ASEAN+3 [tại Thái
Lan, tháng 2/2009]; Hội nghị Bộ trưởng Tài chính G7 [tại Italia, tháng 2/2009]
Tiêu biểu cho xu hướng bảo hộ mậu dịch là nước Mỹ với chương trình Buy
American, làm dấy lên lo ngại rằng các nước khác như Trung Quốc, cũng có thể

hành động tương tự - điều sẽ gây tổn hại thêm đối với thương mại toàn cầu trong
giai đoạn khủng hoảng hiện tại. Bên cạnh đó, quyết định tài trợ 17,4 tỷ USD của
Mỹ cho ngành xe hơi cũng đang bị giới phân tích đánh giá là một hành động trợ cấp
không công bằng, đặt các đối thủ cạnh tranh vào vị trí bất lợi. Nước Mỹ cũng gặp
phải nhiều chỉ trích gay gắt từ các thành viên của WTO khi Mỹ tái ban hành những
biện pháp trợ giá xuất khẩu đối với các sản phẩm sữa của nước này, bởi cảnh báo
rằng nó có thể là một tiền lệ nguy hiểm khiến thế giới quay lại chủ nghĩa bảo hộ,
đặc biệt có nguy cơ bùng nổ thành những cuộc chiến thương mại.
Trung Quốc cũng tuyên bố phương châm Buy Chinese của mình chỉ một
vài tháng sau chương trình Buy American. Sau nhiều chỉ trích với các kế hoạch
bảo hộ mậu dịch của Mỹ, đến lượt mình, Trung Quốc bị lên án đã đi ngược lại tinh
thần chống chủ nghĩa bảo hộ khi yêu cầu các cơ quan chính phủ mua hàng hóa sản


xuất trong nước nếu có thể cho các dự án sử dụng ngân sách nhà nước, nhằm đảm
bảo khoản tiền 585 tỷ USD trong gói kích thích kinh tế có lợi cho các doanh nghiệp
trong nước.
Ấn Độ đã tăng thuế suất nhập khẩu dầu đậu nành thêm 20% để bảo hộ nông
dân trong nước khi giá dầu ăn trên thị trường thế giới giảm mạnh trong khi
Indonesia bắt đầu hạn chế nhập khẩu ít nhất 500 mặt hàng với nhiều biện pháp hạn
chế khác như yêu cầu doanh nghiệp nhập khẩu phải có giấy phép đặc biệt và phải
nộp một khoản lệ phí mới. Nga sử dụng biện pháp tăng thuế suất nhập khẩu xe hơi
thêm 35%, đồng thời thuế thịt heo và thịt gia cầm cũng được điều chỉnh tăng.
Argentina và Brazil cũng đang tìm cách nâng thuế suất nhiều mặt hàng nhập khẩu,
từ rượu vang đến hàng dệt may, hàng da giày và trái cây vào các nước này.
Đối mặt với khủng hoảng tài chính và dòng sản phẩm giá rẻ từ bên ngoài,
chính phủ các quốc gia Nam Mỹ ngày càng không che giấu ý đồ ngăn chặn hàng
nhập khẩu. Ví dụ điển hình là việc các nước thuộc Khối thị trường chung Nam Mỹ
[MERCOSUR] đã quyết định tăng thuế đối với các mặt hàng nhập khẩu tại cuộc
họp cuối năm 2011. Tháng 2/2012 vừa rồi, Chính phủ Argentina quyết định hạn chế

hàng nhập khẩu từ Liên hiệp Anh, chỉ vài tháng sau quyết định tăng thuế đối với
một số sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc. Trong khi đó, Pháp và EU cũng không
thiếu kinh nghiệm trong việc bảo hộ thị trường của mình. Hàn Quốc tăng thuế hải
quan từ 1% tới 3% đối với xăng dầu nhập khẩu và Indonesia đã giảm nhập cảng đối
với các sản phẩm điện tử với cái cớ chống buôn lậu.
Trong cuộc khủng hoảng lần này, Mỹ cũng được coi là nước có thể sẽ châm
ngòi cho cuộc chiến tranh thương mại. Điều khoản Buy American được đưa ra
trong gói kích thích kinh tế trị giá 787 tỷ USD của Mỹ như là một thách thức đối
với các nước. Nó là cơ sở gây nên cuộc chiến tranh thương mại giữa Mỹ với các
nước, và sau nữa là cuộc chiến tranh thương mại trên toàn cầu. Để trả lời cho hành
động của Mỹ, Trung Quốc cũng đã đưa ra chương trình Buy Chinese như là một
thông điệp với nước Mỹ rằng, rào cản thương mại có thể gây tác động theo 2 chiều:
tích cực và tiêu cực. Tranh chấp Mỹ - Trung về việc tỷ giá hối đoái của đồng nhân
dân tệ cũng có thể là nguy cơ cho cuộc chiến tranh thương mại giữa hai nước khi
tháng 5/2009 vừa qua, Mỹ lại tiếp tục cáo buộc rằng Trung Quốc đã thao túng tỷ giá
đồng nhân dân tệ nhằm khuynh đảo mối quan hệ thương mại giữa hai nước theo
hướng có lợi cho Trung Quốc. Đó cũng là nguyên nhân khiến Quốc hội Mỹ đang
xem xét một đạo luật trả đũa những quốc gia bị coi là thao túng đồng tiền để giành
lợi thế trong thương mại quốc tế, và nó cũng có thể là khởi nguồn cho một cuộc
chiến tranh thương mại giữa Mỹ với Trung Quốc. Gần đây nhất việc Mỹ tăng thuế
với các loại lốp ôtô của Trung Quốc và Trung Quốc điều tra chống bán phá giá phụ
tùng ôtô, thịt là minh chứng rõ nhất cho tình hình này.
Căng thẳng quan hệ thương mại Mỹ - EU cũng phát sinh từ mâu thuẫn đối
với chế độ bảo hộ mậu dịch của mỗi bên. Những điều khoản hỗ trợ nền kinh tế nội
địa của Mỹ cũng là nguyên nhân gây nên nhiều chỉ trích từ các nước. Liên minh
châu Âu, trong đó tiêu biểu là Canada và Thụy Sỹ, cảnh báo sẽ áp dụng biện pháp


trả đũa nếu Mỹ thực thi điều khoản Buy American trong gói kích thích kinh tế
của mình.

2. Nguyên nhân các nước hiện nay gia tăng bảo hộ mậu dịch
Nguyên nhân đầu tiên là tình hình kinh tế thế giới suy giảm, nhất là khủng
hoảng nợ công của Châu Âu, bất ổn ở thế giới Arập, động đất và sóng thần ở Nhật
Bản, thiên tai ở nhiều nước trên khắp thế giới. Dẫn đến kim ngạch xuất nhập khẩu
của 7 nước công nghiệp phát triển và 5 nước Nhóm BRICS đang trỗi dậy trong Quí
2/2011 chỉ tăng 1,1%, thấp hơn rất nhiều so với Quí 1/2011. GDP của các nước phát
triển chỉ tăng 1,6%, của Mỹ chỉ tăng 1,5%, của Trung Quốc chỉ đạt 9%, của Ấn Độ
chỉ tăng 7,8%. Kinh tế thế giới suy giảm làm giao dịch buôn bán trên thị trường tính
từ đầu năm tới tháng 5/2011 giảm tới gần 3.300 tỉ USD.
Khủng hoảng kinh tế làm tình trạng thất nghiệp gia tăng ở các nước đang trở
thành vấn đề đáng lo ngại. Khi hàng triệu người mất việc làm hoặc không thể tìm
được việc làm sẽ khiến họ mất đi khả năng tự cứu lấy bản thân, lòng tự trọng và hy
vọng. Hậu quả có thể bao gồm cả sự bất ổn về xã hội và chính trị. Tại khắp các
nước ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, Châu Mỹ và Châu Âu, các chính phủ
đang nỗ lực tìm cách để giảm bớt tình trạng suy thoái kinh tế, tối thiểu hóa số người
bị mất việc làm và khôi phục tăng trưởng kinh tế nhanh nhất có thể.
Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch tăng lên đáng kể trở thành rào cản trao đổi buôn
bán giữa các nước. Nguyên nhân là do các nước đều muốn bảo vệ kinh tế trong
nước, bảo hộ người dân của mình nên đã dựng lên các dinh lũy ngăn chặn lưu thông
buôn bán với thế giới bên ngoài.
3. Các chính sách và công cụ các nước áp dụng để bảo hộ mậu dịch.
3.1. Chính sách
Hiện nay hầu hết các nước trên thế giới vẫn áp dụng chính sách bảo hộ mậu
dịch để bảo vệ các nhà sản xuất trong nước cũng như an ninh quốc gia. Thực tế thì
các quốc gia áp dụng chính sách bảo hộ mậu dịch được thể hiện như sau:
Đối với các quốc gia đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới [WTO] thì
việc áp đặt này chỉ được phép đối với một hay nhiều thành viên khác của WTO khi
và chỉ khi phán quyết của WTO cho phép quốc gia này làm điều đó [với các chứng
cứ cho thấy các thành viên kia đang thực hiện việc bán phá giá hay hỗ trợ bất
hợp pháp cho ngành sản xuất của mình v.v].

Đối với các quốc gia chưa gia nhập WTO hoặc quốc gia là thành viên của
WTO áp đặt đối với các quốc gia chưa là thành viên WTO hay ngược lại.
Việc áp đặt này hoàn toàn nằm trong ý chí chủ quan của từng quốc gia hoặc
sau khi nhận được đơn kiện của các [nhóm, hiệp hội] công ty tại quốc gia đó về việc
bán phá giá. Các vụ kiện tôm hay cá tra, cá ba sa tại Mỹ vừa qua đối với các quốc
gia xuất khẩu các mặt hàng này là một ví dụ cho thấy việc áp đặt bảo hộ mậu dịch.


3.2. Các công cụ
Hiện nay các nước sử dụng các công cụ như gia tăng mức thuế được lựa
chọn, sự giảm giá tiền tệ để làm cho giá các mặt hàng xuất khẩu rẻ hơn và giá các
mặt hàng nhập khẩu đắt hơn, sự trợ cấp xuất khẩu cho nhiều loại mặt hàng, điều
khoản mua hoặc thuê ở địa phương và các biện pháp chống bán phá giá mà có thể
giúp cho các nhà sản xuất trong nước chống lại các đối tác thương mại bị buộc tội là
bán hàng hóa với mức giá thấp hơn chi phí sản xuất,để bảo hộ mậu dịch.
Ví dụ như Malaysia cấm việc thuê các công nhân từ nước ngoài ở các nhà
máy, cửa hàng bách hóa và các nhà hàng để bảo vệ các công dân của họ tránh khỏi
sự thất nghiệp. Chính phủ này cũng yêu cầu các công ty sa thải những nhân viên là
người nước ngoài nếu các công ty này buộc phải cắt giảm nhân viên. Hơn 3 triệu
công nhân nước ngoài hợp pháp và bất hợp pháp, trong đó chủ yếu là có xuất xứ từ
Indonesia và Philippines sẽ bị buộc thôi việc.
Theo báo cáo năm 2012 của WTO, hiện nay các nước cũng đang có xu hướng
sử dụng các biện pháp phi thuế quan để bảo hộ mậu dịch. Báo cáo công bố ngày
20/7 nêu rõ các biện pháp phi thuế quan [NTM] như : các tiêu chuẩn, quy chế đối
với hàng công nghiệp và nông sản - tác động đến hoạt động thương mại thậm chí
còn lớn hơn cả thuế quan, làm nảy sinh các thách thức mới và rắc rối lớn hơn trong
hợp tác quốc tế trong thế kỷ 21. Các biện pháp phi thuế quan phản ánh các mục tiêu
chính sách công như đảm bảo về y tế, an toàn và quyền lợi của người tiêu dùng ,
nhưng cũng nhằm mục đích tăng bảo hộ mậu dịch và gây thất bại trong buôn
bán. Báo cáo của WTO nêu bật các biện pháp phi thuế quan như hàng rào kỹ thuật

đối với thương mại [TBT], các biện pháp quy chế về vệ sinh và vệ sinh thực vật
[SPS] và các quy chế trong nước về dịch vụ.
4. Đánh giá và giải pháp
4.1. Đánh giá
Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch lan tràn và nguy cơ xảy ra các chiến tranh thương
mại sẽ càng khiến cho tự do hóa thương mại toàn cầu đi vào bế tắc, và kết quả là tất
cả các nền kinh tế sẽ cùng bị tổn thương. Đây sẽ là cuộc chiến không có người
thắng mà chỉ có kẻ thua, bởi tất cả sẽ cùng phải gánh chịu thiệt hại. Đó cũng chính
là bước thoái lui của kinh tế toàn cầu trong bối cảnh khủng hoảng tài chính.
Những hạn chế thương mại nhằm bảo vệ thị trường nội địa mà nhiều nước áp
dụng năm 1930 là một minh chứng điển hình khi những biện pháp đó đã leo thang
thành một cuộc chiến tranh thương mại, khiến cho cuộc Đại Suy thoái 1929-1933 bị
kéo dài và nghiêm trọng hơn. Để đối phó lại với cuộc khủng hoảng tài chính năm
1929, Quốc hội Hoa Kỳ đã tăng thuế suất lên mức cao nhất trong lịch sử của nước
này. Trong vòng một năm, hơn 24 đối tác thương mại của Hoa Kỳ đã trả đũa bằng
cách hạn chế nhập khẩu các sản phẩm của Hoa Kỳ. Những biện pháp trả đũa này
làm ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ quốc tế, và theo quan điểm của các nhà sử học
thì nó góp phần làm bùng nổ Chiến tranh Thế giới lần thứ II.


WTO dự báo triển vọng mậu dịch thế giới năm 2012 chưa có gì sáng sủa, lạc
quan mà vẫn bao trùm màu xám. Bởi vì kinh tế toàn cầu vẫn trong tình trạng suy
giảm kể cả các nước có nền kinh tế năng động nhất như Trung Quốc, Ấn Độ,
Braxin và không loại trừ bị rơi vào khủng hoảng đợt 2, tình hình này tác động
không nhỏ tới mậu dịch thế giới. WTO dự đoán năm 2012 mậu dịch thế giới vẫn
dẫm chân tại chỗ, tức là vẫn ở số 0. Đánh giá chung về tình hình buôn bán thế
giới, WTO cho rằng Châu Á vẫn là đầu tàu lôi kéo mậu dịch toàn cầu, nhất là Trung
Quốc, nước hiện có kim ngạch buôn bán lớn nhất thế giới và Ấn Độ năm 2011 đã
gia nhập Câu lạc bộ Top-10 nước có kim ngạch buôn bán hàng đầu thế giới.
Chính phủ Trung Quốc tuyên bố do tăng cường nội nhu, nên tới năm 2025 kim

ngạch buôn bán hàng hóa đạt 6.300 tỉ USD, tăng 1,5 lần so với năm 2011, đây là
nhân tố kích thích mậu dịch thế giới.
Theo Chủ tịch Hội đồng Xúc tiến thương mại quốc tế Trung Quốc, ông Wan
Jifei, việc chủ nghĩa bảo hộ gia tăng đang gây tác động tiêu cực cho nền kinh tế thế
giới. "Bảo hộ thương mại là hành động thiển cận và hẹp hòi. Nó không thể giải
quyết được những vấn đề như thất nghiệp hay tăng trưởng kinh tế toàn cầu".
Theo WTO, thương mại và tự do hóa thương mại thậm chí có thể còn là
những công cụ hữu hiệu hơn để xóa đói, giảm nghèo và giúp cho các quốc gia có
nguồn lực kinh tế để đáp ứng các nhu cầu cấp thiết nhất của họ. Tổng giám đốc
WTO Pascal Lamy nhấn mạnh rằng chính sách tăng trưởng dựa vào thương mại đã
đưa Hàn Quốc từ một nước có thu nhập bình quân đầu người cách đây 50 năm thấp
hơn Senegal hay Bolivia nay đã trở thành nhà đóng tàu lớn nhất thế giới và nhà sản
xuất xe hơi lớn thứ 5 thế giới.
Các quốc gia phát triển và đang phát triển đang phải đứng trước những lựa
chọn quan trọng khi xác định hướng đi cho chính sách thương mại của họ, trong bối
cảnh nền kinh tế toàn cầu đang thay đổi nhanh chóng như hiện nay. Về lý thuyết,
việc áp đặt các biện pháp bảo hộ mậu dịch có thể đem lại lợi ích nhất thời cho các
nhà sản xuất trong nước, đảm bảo được mục tiêu xã hội cho riêng quốc gia sử dụng
các hàng rào kỹ thuật này, bao gồm việc đảm bảo được công ăn việc làm cho một số
nhóm người lao động. Tuy nhiên, mặt trái của nó là làm cho các nhà sản xuất trong
nước có cơ hội đầu cơ trên giá bán hàng [hay dịch vụ] ở mức có lợi nhất cho họ mà
không cần đưa ra các biện pháp nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, gây
thiệt hại cho người tiêu dùng. Trong khi đó, cả lý thuyết và thực tiễn đều chỉ ra rằng
tiến trình toàn cầu hóa và mở cửa thương mại đã, đang và sẽ là nền tảng cho tăng
trưởng kinh tế, ổn định việc làm và cải thiện cuộc sống cho hàng triệu người trên
toàn thế giới.
4.2. Giải pháp
Phòng Thương mại Quốc tế [ICC] đề xuất 4 giải pháp để hạn chế khuynh
hướng bảo hộ, gồm:



-

Nhanh chóng khép lại Vòng đàm phán Doha về tự do hóa thương mại toàn
cầu

-

Thành lập nhóm chuyên gia thương mại G20 chịu trách nhiệm chống bảo hộ
mậu dịch

-

Đẩy nhanh tiến trình giải quyết các tranh chấp thương mại trong khuôn khổ
WTO

-

Tổ chức thường kỳ Hội nghị Bộ trưởng Thương mại G 20.

II. Thực trạng bảo hộ mậu dịch ở Việt Nam.
1. Lộ trình hội nhập của Việt Nam từ sau khi gia nhập WTO
1.1. Các quy tắc của WTO
Không phân biệt đối xử: Mỗi thành viên sẽ dành cho sản phẩm của một thành
viên khác đối xử không kém ưu đãi hơn đối xử mà thành viên đó dành cho sản
phẩm của một nước thứ 3 [Đãi ngộ Tối huệ quốc - MFN]. Tuy nhiên, vẫn có một số
ngoại lệ trong nguyên tắc này. Chẳng hạn, các nước có thể thiết lập một hiệp định
thương mại tự do áp dụng đối với những hàng hoá giao dịch trong một nhóm quốc
gia, phân biệt với hàng từ bên ngoài nhóm.
Thương mại ngày càng được tự do hơn thông qua đàm phán: Các hàng rào

cản trở thương mại dần dần được loại bỏ, cho phép các nhà sản xuất hoạch định
chiến lược kinh doanh dài hạn có thời gian điều chỉnh, nâng cao sức cạnh tranh
hoặc chuyển đổi cơ cấu. Mức độ cắt giảm các hàng rào bảo hộ được thoả thuận
thông qua các cuộc đàm phán song phương và đa phương. Đến nay đã có 8 vòng
đàm phán kể từ khi GATT được hình thành vào năm 1947.
Dễ dự đoán: Đôi khi cam kết không tăng một cách tuỳ tiện các hàng rào
thương mại [thuế quan và phi thuế quan khác] đem lại sự an tâm rất lớn cho các nhà
đầu tư. Với sự ổn định, dễ dự đoán, thì việc đầu tư sẽ được khuyến khích, việc làm
sẽ được tạo ra nhiều hơn và khách hàng sẽ được hưởng lợi từ sự cạnh tranh lành
mạnh trên thị trường. Hệ thống thương mại đa phương là một nỗ lực lớn của các
chính phủ để tạo ra một môi trường thương mại ổn định và có thể dự đoán.
Hệ thống thương mại này cũng cố gắng cải thiện khả năng dễ dự đoán và sự
ổn định theo những cách khác. Một trong những cách làm phổ biến là ngăn chặn
việc sử dụng hạn ngạch và các biện pháp khác của các nước hạn chế số lượng hàng
nhập khẩu. Bên cạnh đó, WTO cũng giúp các nguyên tắc thương mại của các nước
trở nên rõ ràng và minh bạch hơn. Rất nhiều hiệp định của WTO yêu cầu chính phủ
các nước thành viên phải công khai chính sách.
Tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng: WTO đôi khi được miêu
tả như là một hệ thống "thương mại tự do", tuy nhiên điều đó không hoàn toàn


chính xác. Hệ thống này vẫn cho phép có sự tồn tại của thuế quan và trong một số
trường hợp nhất định, vẫn cho phép có các biện pháp bảo hộ. Như vậy, nói một
cách chính xác hơn thì WTO đem lại một sự cạnh tranh lành mạnh và công bằng
hơn.
WTO cũng có thể hạn chế tác động tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh không
bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp hay dành các đặc quyền cho một số doanh
nghiệp nhất định.
Dành cho các thành viên đang phát triển một số ưu đãi: Các ưu đãi này được
thể hiện thông qua việc cho phép các thành viên đang phát triển một số quyền và

không phải thực hiện một số quyền và không phải thực hiện một số nghĩa vụ hay
thời gian quá độ dài hơn để điều chỉnh chính sách.

1.2. Lộ trình hội nhập của Việt Nam
Năm 2006: Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới
[WTO]. Việt Nam đã ký kết các điều khoản liên quan đến bảo hộ mậu dịch như:
-

Việt Nam cam kết từ thời điểm gia nhập WTO không áp dụng mới và không
áp dụng thêm các biện pháp hạn chế số lượng nhập khẩu không phù hợp quy
đinh của WTO. Cụ thể:



Bãi bỏ các biện pháp hạn ngạch trước thời điểm gia nhập:

Bãi bỏ hạn ngạch xuất khẩu từ thời điểm gia nhập.
Bãi bỏ tất cả các hạn ngạch nhập khẩu trừ hạn ngạch thuế quan đối với thuốc

lá nguyên liệu, trứng gia cầm, đường thô, đường tinh luyện, muối.


Bãi bỏ các biên pháp cấm nhập khẩu đang được áp dụng tại thời điểm gia
nhập như đối với: thuốc lá điếu và xì gà, ô tô cũ không quá 5 năm, xe máy có
dung tích 175 cm3 trở lên.

-

Việt Nam cũng tham gia đàm phán để đạt được thỏa thuận về cắt giảm thuế
quan:




Mức giảm thuế bình quân toàn biểu thuế: khoảng 23% [từ mức 17,4% năm
2006 xuống còn 13,4% , thực hiện dần trong 5-7 năm].



Số dòng thuế cam kết giảm: khoảng 3800 dòng thuế [chiếm khoảng 35,5% số
dòng của biểu thuế]. Nhóm mặt hàng có cam kết giảm nhiều nhất gồm: dệt
may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, máy móc thiết bị điện-điện tử, thịt lợnbò, phụ phẩm.



Số dòng thuế ràng buộc theo mức thuế trần : 3170 dòng thuế [305 số dòng
biểu thuế], chủ yếu đối với các nhóm hàng như: xăng dầu, kim loại, hóa chất,
một số phương tiện vận tải.


2. Các biện pháp bảo hộ mà Việt Nam đã áp dụng:
Việt Nam là nước đang phát triển, xuất phát điểm thấp, nước ta phụ thuộc
nhiều vào xuất khẩu và kêu gọi đầu tư, nên có rất ít các hình thức "hạn chế mậu
dịch phi thuế quan " [đúng nghĩa] được áp dụng ở Việt Nam mà chủ yếu chúng ta
áp dụng hàng rào thuế quan [đánh thuế cao các mặt hàng cần hạn chế như ô tô
chẳng hạn].
Về thuế quan: cùng với việc hội nhập ngày càng sâu và rộng và tham gia
tích cực vào các tổ chức, diễn đàn mang tầm khu vực và quốc tế như: ASEAN,
AFTA, WTO, APEC... Việt Nam đã cam "kết cắt giảm đáng kể thuế quan nhằm tạo
sự bình đẳng giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa sản xuất ở nước ngoài.
Nó thực sự đặt ra một thử thách vô cùng to lớn đối với nhà sản xuất trong nước đặc

biệt là những hàng hóa có trình độ sản xuất chưa cao, chưa có nhiều kinh nghiệm
trong tham gia thương mại quốc tế trước sự tấn công ồ ạt của hàng hóa nhập khẩu.
Tuy nhiên, nó lại tạo sự cạnh tranh gay gắt, góp phần thanh lọc những nhà sản xuất
làm ăn kém hiệu quả và quan trọng hơn cả là mang lại lợi ích to lớn cho người tiêu
dùng trong nước. Dưới đây là bảng số liệu về cắt giảm thuế theo một số nhóm hàng
chính khi gia nhập WTO [bảng 1] và các cam kết thực hiện Hiệp định tự do hoá
theo ngành trong WTO [bảng 2].
Bảng 1 - Cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu theo một số nhóm hàng chính

STT

Mặt hàng

[1]

[2]

1

Thuế suất Thuế suất
Thuế suất khi gia
cuối cùng Thời hạn
MFN [%] nhập[%] [%]
thực hiện
[3]

[4]

[5]


1 số sản phẩm nông
nghiệp
-Thịt bò

20

20

14

5 năm

- Thịt lợn

30

30

15

5 năm

- Sữa nguyên liệu

20

20

18


2 năm

- Sữa thành phẩm

30

30

25

5 năm

- Thịt chế biến

50

40

22

-Bánh kẹo [t/s bình quân]

39,3

34,4

25,3

3-5 năm


-Bia

80

65

35

5 năm

65

65

45-50

5-6 năm

- Thuốc lá điếu

100

150

135

3 năm

-Xì gà


100

150

100

5 năm

-Rượu


- Thức ăn gia súc
2

10

10

7

2 năm

- Xăng dầu [thuế suất bình
quân]
- Sắt thép [t/s bình quân]

0-10

38,7


38,7

17,7

13

5-7 năm

- Xi măng

40

40

32

4 năm

6,5

6,4

2 năm

1 số sản phẩm công nghiệp

- Phân hóa học [t/s bình quân]
- Giấy [t/s bình quân]

22,3


20,7

15,1

5 năm

- Tivi

50

40

25

5 năm

- Điều hòa

50

40

25

3 năm

- Máy giặt

40


38

25

4 năm

- Dệt may [t/s bình quân]

37,3

13,7

13,7

- Giày dép

50

40

30

Thực hiện
ngay khi gia
nhập [theo
HĐ dệt may
đã có với
EU, US]
5 năm


- Xe Ôtô con
Bảng 2: Các cam kết thực hiện Hiệp định tự do hóa theo ngành trong WTO
Hiệp định tự do hóa
theo ngành

Số dòng thuế

Thuết suất MFN
[%]

Thuế suất cam kết
cuối cùng [%]

1.HĐ công nghệ thông 330
tin ITA-tham gia 100%

5,2%

0%

2.HĐ hài hòa hóa chất
CH-tham gia 81%

1.300/1.600

6,8%

4.4%


3.HĐ thiết bị máy bay
dân dụng CA-tham gia
hầu hết

89

4.2%

2,6%

4.HĐ dệt may TXTtham gia 100%

1.170

37,2%

13,2%

5.HĐ thiết bị y tế MEtham gia 100%

81

2,6%

0%


Việt Nam mới thoát khỏi nhóm nước có thu nhập thấp nhất thế giới để trở
thành quốc gia có thu nhập trung bình. Vì vậy, việc tiêu thụ những hàng hóa xa xỉ
phẩm: ô tô, mỹ phẩm, trang sức... hay những hàng hóa có hại cho sức khỏe: rượu,

thuốc lá... không được nhà nước khuyến khích bởi nó gây ra sự lãng phí nguồn lực.
Vì lý do đó mà nhà nước ban hành thuế tiêu thụ đặc biệt một mặt hạn chế hàng hóa
này nhập khẩu vào thị trong nước giảm lãng phí trong tiêu dùng của dân chúng, một
mặt nhằm bảo hộ cho sản xuất hàng hóa này ở trong nước tạo điều kiện cho sản
xuất hàng hóa này có cơ hội phát triển, mở ra triển vọng xuất khẩu.
Về trợ cấp: Nhằm góp phần thúc đẩy xuất khẩu,Việt Nam đã áp dụng trợ cấp
theo các hình thức khác nhau cho những mặt hàng còn gặp khó khăn chưa tự đứng
vững trên thị trường trong nước cùng như thị trường quốc tế. Các biện pháp trợ cấp
cụ thể là:
- Đối với sản phẩm gạo: Hỗ trợ lãi suất thu mua lúa gạo trong vụ thu hoạch, hỗ
trợ lãi suất cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo, hỗ trợ lãi suất xuất khẩu gạo trả
chậm, bù lỗ cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo, thường xuất khẩu.
- Đối với mặt hàng cà phê: Hoàn phụ thu, bù lỗ cho tạm trữ cà phê xuất khẩu,
bù lỗ cho doanh nghiệp xuất khẩu cà phê, hỗ trợ lãi suất tạm trữ, thường xuất
khẩu.
- Đối với rau quả hộp: Hỗ trợ xuất khẩu cho dưa chuột, dứa hộp, thường xuất
khẩu.
- Đối với thịt lợn: hỗ trợ lãi suất mua thịt lợn, bù lỗ xuất khẩu thịt lợn, thường
xuất khẩu.
- Đường: Hỗ trợ giá, hỗ trợ giống mía, giảm thuế VAT 50%, hỗ trợ lãi suất
sau đầu tư, bù chênh lệch tỷ giá , hỗ trợ lãi suất thu mua mía trong vụ thu
hoạch, hỗ trợ phát triển vùng mía nguyên liệu.
- Chè, lạc nhân, thịt gia súc gia cầm các loại, hạt tiêu, hạt điều: Thưởng theo
kim ngạch xuất khẩu.
- Sản phẩm, phụ tùng xe hai bánh gắn máy: Thuế suất nhập khẩu ưu đãi theo tỷ
lệ nội địa hoá.
- Xe đạp, quạt điện: Ưu đãi vế tín dụng, miễn giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp, miễn thuế xuất khẩu, miễn thuế nhập khẩu linh kiện, phụ tùng, vật tư,
thiết bị lẻ, hỗ trợ lãi suất, vay vốn ngân hàng.
- Tàu biển 11,500 tấn, động cơ đốt trong dưới 30 CV, máy thu hình màu, máy

vi tính: Miễn thuế nhập khẩu, Ưu đãi về thuế suất thuế thu nhập doanh
nghiệp, ưu đãi vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, giảm tiền
thuê đất.
- Sản phẩm phần mềm; ưu đãi về thuế suất thu nhập doanh nghiệp, miễn thuế
thu nhập doanh nghiệp, ưu đãi về thuế giá trị gia tăng, miễn thuế xuất khẩu,
miễn thuế nhập khẩu nguyên vật liệu, ưu đãi về tín dụng, ưu đãi về sử dụng
đất và thuê đất.
- Sản phẩm cơ khí: Ưu đãi vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
- Sản phẩm dệt may: Vốn tín dụng ưu đãi, ưu đãi đầu tư, bào lãnh của chính
phủ, cấp lại tiền sử dụng vốn để tái đầu tư, hỗ trợ kinh phí xúc tiến thương
mại.


- Gốm sứ, đồ gỗ mỹ nghệ, mây tre lá: thưởng theo kim ngạch xuất khẩu.
- Hỗ trợ bằng tín dụng giúp cho nhà sản xuất có đủ điều kiện tài chính để mua
hàng hóa phục vụ sản xuất xuất khẩu.
Về rào cản kỹ thuật:
Việt Nam cho tới nay chưa áp dụng được biện pháp này trong bảo hộ mậu
dịch của mình bởi thực tế nhiều chỉ tiêu kỹ thuật của Việt Nam vẫn còn thấp hơn
nhiều so với mức chuẩn quốc tế nên hàng hóa nhập khẩu dễ dàng đáp ứng được các
tiêu chuẩn kỹ thuật Việt Nam để ra do được sản xuất với trình độ công nghệ cao đặc
biệt là hàng hóa có xuất xứ từ những nước phát triển như: Mỹ, Nhật.... Rào cản kỹ
thuật của Việt Nam chủ yếu dùng để ngăn chận những hàng hóa đã gây nguv hiếm
và bị phát hiện từ nước ngoài như: sữa nhiễm chất melamine gây nguy hiểm cho
thận hay rau quả của Nhật có nhiễm phóng xạ do động đất vừa qua,
Một thực trạng đáng buồn là tuy đi gia nhập WTO được gần 5 năm nhưng số lần
Việt Nam sử dụng quyền của mình để kiện các doanh nghiệp xuất khẩu nước ngoài
là rất ít.
3. Các biện pháp bảo hộ mậu dịch Việt Nam gặp phải:
Theo Ban quản lí chương trình xúc tiến thương mại quốc gia, tình hình xuất

khẩu của nước ta đang gặp nhiều khó khăn hơn do các quốc gia nhập khẩu gia tăng
bảo hộ mậu dịch, gây cản trở cho hàng xuất khẩu của Việt Nam. Ban quản lý này
cho biết, trong năm 2011, các quốc gia nhập khẩu đã đưa ra 339 biện pháp hạn chế
thương mại mới, trong đó có nhiều biện pháp hạn chế mạnh hoặc làm biến dạng
thương mại, đã được ghi nhận trong buôn bán quốc tế, tăng 53% so với năm 2010.
Đáng chú ý là các biện pháp mới về hạn chế xuất khẩu tăng nhanh nhất, tuy chỉ
chiếm 19% trong tổng số các biện pháp hạn chế thương mại [WTO, 2011].
Một chuyên gia về thương mại của Bộ Công Thương cho biết, xu hướng này
được dự báo sẽ tiếp tục tăng trong năm 2012 và 2013, sẽ gây khó cho các mặt hàng
xuất khẩu của Việt Nam. Các lĩnh vực thương mại bị tác động lớn nhất bởi các biện
pháp mới hạn chế buôn bán là thép và các sản phẩm thép cơ bản, máy móc và thiết
bị, hoá chất hữu cơ, sản phẩm thịt, các sản phẩm từ nhựa, thiết bị vận tải, ngũ cốc,
sản phẩm gỗ các loại. Không những bị các rào cản thương mại mà những lợi thế
cạnh tranh về giá của Việt Nam đang dần mất đi khi các quốc gia khác cũng đang
cố gắng cạnh tranh bằng việc cung cấp lao động giá rẻ hơn hoặc thông qua các biện
pháp nâng cao năng suất tích cực hơn.
Chống bán phá giá và chống trợ cấp:
Một trong số những khó khăn cho việc xuất khẩu của Việt Nam qua các nước
khác là bởi hàng rào chống bán phá giá và chống trợ cấp. Trong năm 2009, các
doanh nghiệp Việt Nam đã phải đối diện với con số kỷ lục các vụ kiện phòng vệ
thương mại, trong đó có 7 vụ ở 6 thị trường khác nhau. Theo VCCI, năm 2009 là
năm bận rộn và nhức đầu cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Cơ quan này cho biết
khi kinh tế thế giới rơi vào suy giảm không chỉ thị trường Âu- Mỹ mà bây giờ còn
bị các thị trường Ấn Độ, Braxin cũng kiện bán phá giá hàng xuất khẩu từ Việt


Nam, trong đó, Ấn Độ kiện các doanh nghiệp thép Việt Nam; Braxin kiện các
doanh nghiệp giày dép, dù hai nước này đều xuất siêu sang Việt Nam. Trong năm
2010, Việt Nam đang phải đối mặt với nguy cơ kiện chống bán phá giá tăng từ thị
trường Âu Mỹ từ giày dép, cá ba sa sẽ có thể đang lan sang các mặt hàng như dệt

may, đồ gỗ, thép và đinh. Ngoài ra một số mặt hàng có thể cũng sẽ bị điều tra như
túi nhựa, và một số mặt hàng mới như hóa chất, sản phẩm cơ khí, điện, nhựa. Trong
10 năm qua , số vụ kiện chống bán phá giá nhắm vào hàng Việt Nam đã lên đến con
số 42, và các chuyên gia dự đoán, thời gian tới sẽ còn thêm nhiều vụ kiện tụng do
kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu.
Ngày 15/11/2011, Bộ Thương mại Hoa Kỳ [DOC] đã ra quyết định khởi xướng
điều tra chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với sản phẩm ống thép cac-bon tiêu
chuẩn nhập khẩu từ Việt Nam. Ngày 18/01/2012, Bộ Thương mại Hoa Kỳ [DOC]
đã ra quyết định khởi xướng điều tra chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với sản
phẩm mắc áo bằng thép [steel wire garment hangers] nhập khẩu từ Việt Nam.
Biện pháp tự vệ:

Số liệu các vụ kiện tự vệ ở nước ngoài đối với hàng hóa Việt Nam.
Năm

Mặt hàng

Nước điều

Kết quả

tra
Thép
09/04/2009

2006

cuộn/tấm/xẻ băng Ấn Độ
cán nóng
Hoa chất STPP


Vụ kiện chấm dứt, không áp dụng
biền pháp tự vệ [08/12/2009]

Philippines

Vụ kiện chấm dứt do không có
thiệt hại nghiêm trọng đối với
ngành sản xuất nội địa

2005

Xe đạp

Canada

Vụ kiện chấm dứt do không có
thiệt hại nghiêm trọng đối với
ngành sản xuất nội địa

2004

Tinh bột sắn

Ấn Độ

Thuế bổ sung 33%

2003


Kính nổi

Philippines

Kính nổi không màu:
3,971peso/MT Kính nổi phủ màu:
5,016peso/MT


2001

Gạch ốp lát

Philippines

2,15 peso/kg

Ngoài ra, hàng hóa xuất khẩu Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn do vướng
phải các rào cản về kỹ thuật như: Các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật, an toàn vệ sinh
dịch tễ, các tiêu chuẩn chế biến và sản xuất theo quy định môi trường, dư lượng
thuốc bảo vệ thực vật, chất kháng sinh. Một ví dụ điển hình là vụ tôm Việt Nam
xuất khẩu sang Nhật Bản bị phát hiện nhiễm dư lượng kháng sinh vượt mức cho
phép. Theo thông tin cảnh báo mới nhất tại thị ữường Nhật, trong 2 tháng đầu năm
2011, vẫn có đến 16 lô tôm của Việt Nam bị phát hiện nhiễm dư lượng kháng sinh
vượt mức cho phép [tháng 1/2011 có lô; tháng 2/2011 có 5 lô], trong đó phần lớn là
Trifluralin, Chloramphenicol... Điều này khiến hoạt động xuất khẩu tôm Việt Nam
sang thị trường Nhật Bản ngày tiếp tục khó khăn.
Qua bảng tổng hợp số liệu trên ta thấy, hàng xuất khẩu Việt Nam ra thị
trường thế giới vẫn còn gặp vô số khó khăn đặc biệt khi xuất khẩu vào các thị
trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, EU và cũng bị ảnh hưởng trực tiếp từ các nhân

tố khách quan khác như chính trị, kinh tế.... Có rất nhiều lý do để giải thích cho việc
các nước nhập khẩu áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hóa xuất khẩu
Việt Nam. Trước hết, ta cần hiểu:" Bán phá giá trong thương mại quốc tế là hiện
tượng xảy ra khi một loại hàng hóa được xuất khẩu [bán sang thị trường nước khác]
với giá thấp hơn giá bán của mặt hàng đó tại thị trường nước xuất khẩu.".
Nguyên nhân đầu tiên giải thích cho điều này là Việt Nam chưa được công
nhận rộng rãi là nền kinh tế thị trường trong đó có các nước lớn như Mỹ và liên
minh châu Âu, EU... Do đó khi điều tra về bán phá giá với hàng xuất khẩu Việt
Nam, cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu có quyền tự do lựa chọn một
nước thứ ba thay thế và giá cả ở nước này có thể khác xa giá cả tại Việt Nam do có
các điều kiện, hoàn cảnh thương mại khác nhau. Rất có thể các nhà sản xuất sản
phẩm tương tự tại nước thứ ba được lựa chọn là những đối thủ cạnh tranh của các
nhà sản xuất Việt Nam đang bị điều tra và vì thế họ có thể khai báo mức giá khiến
kết quả so sánh giá xuất khẩu với giá TT [biên độ phá giá] bất lợi cho những nhà
sản xuất Việt Nam.
Một nguyên nhân khác nữa là do chi phí nhân công ở Việt Nam rẻ hơn rất
nhiều so với ở các nước phát triển khác. Bên cạnh đó, do hệ thống luật pháp còn
chưa đầy đủ, vừa yếu vừa thiếu nên các doanh nghiệp VN không phải chịu nhiều
khoản thuế và chi phí khác như các doanh nghiệp cùng ngành ở các quốc gia phát
triển như thuế môi trường, chi phí xử lí khi sản phẩm bị hỏng hoặc dể dàng lách luật
để trốn tránh trách nhiệm nộp các khoản thuế này.
Tiếp đến, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phần lớn là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, hoạt động mang tính độc lập, không đoàn kết, kiến thức về luật
pháp quốc tế còn mơ hồ cộng với sự liên kết lỏng lẻo giữa cơ quan quản lý nhà
nước với các đơn vị xuất khẩu nên dẫn đến tình trạng vi phàm các quy định về
chống bán phá giá và kết cục là bị các nước nhập khẩu kiện chống bán phá giá.


Rào cản về kỹ thuật cũng là một
vấn đề rất đáng quan tâm đối với

xuất khẩu Việt Nam. Tuy số
lượng các hàng hóa bị trả lại con
ít nhưng những quy định về tiêu
chuẩn chất lượng rất khắt khe và
ngày càng gia tăng đang trở
thành một rào cản rất lớn đối với
hàng hóa xuất khẩu Việt Nam
khi vươn ra thị trường thế giới
đặc biệt là khi tiếp cận với thị
trường khó tính như Nhật Bản,
Mỹ... Lấy ví dụ trong ngành xuất
khẩu thủy hải sản nước ta, các
doanh nghiệp xuất khẩu Việt
Nam chủ yếu lấy nguồn cung từ
các hộ nuôi trồng nhỏ lẻ và đóng
vai trò là đầu mối thu mua. Các
hộ nuôi trồng nhỏ lẻ không có sự
quản lý tập trung dẫn đến thiếu
kiến thức về nuôi trồng đạt tiêu
chuẩn, ít có sự gặp gỡ trao đổi
kinh nghiệm cũng như không có
bất kỳ sự kiểm soát chặt chẽ nào
dẫn đến làm sai kỹ thuật, nghĩ
tới lợi ích trước mắt nên đã đốt
cháy giai đoạn và hậu quả là
hàng xuất khẩu chất lượng
không đều, không đạt tiêu chuẩn
mà nước nhập khẩu đưa ra



Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY
PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI CHO VIỆT NAM VÀ
THẾ GIỚI
I. Định hướng cho Việt Nam
1. Cần thực hiện chính sách bảo hộ hợp lí
1.1. Chính sách bảo hộ hợp lí là gì?
Như đă đề cập ở trên, bảo hộ là những biện pháp của chính phủ nhằm hỗ trợ
sản xuất trong nước và giảm tính cạnh tranh của hàng hoá nước ngoài trên thị
trường nội địa. Hầu hết các quốc gia đều áp dụng các chính sách bảo hộ và coi đó là
một bộ phận không thể thiếu trong chính sách phát triển kinh tế đất nước bởi nó
mang lại rất nhiều lợi ích như giúp bảo vệ các ngành sản xuất còn non kém trong
nước, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo công ăn việc làm. Tuy nhiên, không phải lúc nào
chính sách bảo hộ cũng đưa lại những kết quả như ý muốn. Chính sách bảo hộ đơn
phương gây ra những mất mát về kinh tế xă hội và ảnh hưởng trực tiếp đến người
tiêu dùng và các ngành nghề khác trong nền kinh tế. Nếu chính phủ thực hiện một
chế độ bảo hộ không hợp lí, bảo hộ tràn lan, tuỳ tiện, bảo hộ quá mức trong thời
gian quá dài thì không những không đạt được mục đích mà còn gây ra các tác động
tiêu cực. Các ngành sản xuất được bảo hộ sẽ không dần lớn mạnh lên mà trái lại, rất
có thể rơi vào trạng thái trì trệ, giảm sức cạnh tranh, sản xuất không hiệu quả, làm
sai lệch lợi thế so sánh cuả đối tác tham gia trên thị trường. Bảo hộ còn dẫn đến việc
phân bổ sai nguồn lực, chi phí cơ hội lớn và làm thiệt hại cho giới tiêu dùng trong
nước. Tương tự như thế, một chính sách bảo hộ thiên về tạo công ăn việc làm mà
không tính toán đến các yếu tố khác sẽ làm cho tình trạng thất nghiệp của đất nước
ngày một gia tăng.
Tuy nhiên, chúng ta có nên loại bỏ hoàn toàn chính sách bảo hộ? Câu trả lời
là không hoàn toàn như vậy. Tất cả các nước trên thế giới, thậm chí những nước
được coi là phát triển nhất như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Trung Quốcvẫn áp dụng
những chính sách bảo hộ nhất định đối với một số ngành hàng của mình. Mặt khác,
các quy định của WTO vẫn chấp nhận việc các nước thành viên sử dụng các biện
pháp phi thuế quan để hạn chế nhập khẩu trong những trường hợp cần thiết để bảo

đảm an ninh quốc gia, văn hoá truyền thống, môi trường và sức khoẻ con người
Vậy điều mà các quốc gia cần làm để bảo vệ các ngành sản xuất trong nước
một cách hữu hiệu nhất là gì? Đó chính là xây dựng và thực hiện một chính sách
bảo hộ hợp lí, tức là bảo hộ nhằm tăng tính cạnh tranh, thúc đẩy phát triển chứ
không phải để nuông chiều các ngành sản xuất trong nước. Bảo hộ hợp lí không
phải chỉ là tạo ra những rào cản ngăn chặn sự xâm nhập của hàng hoá nước ngoài
vào nước mình, hoặc trợ cấp dưới mọi hình thức cho sản xuất nội địa, mà quan
trọng hơn là những biện pháp bảo hộ đó phải đạt được mục tiêu phân bổ nguồn lực
hợp lí, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm nội địa trên thị trường trong
24


nước lẫn quốc tế. Điều này cũng có nghĩa là không nên bảo hộ những ngành sản
xuất ốm yếu, không có tiền đồ phát triển và không có khả năng cạnh tranh trên thị
trường. Tuy nhiên, với các ngành sản xuất non trẻ, khi mới bước vào thị trường,
nhất là thị trường thế giới, thường gặp không ít những khó khăn và rất cần sự hỗ trợ
của nhà nước dưới các hình thức khác nhau để nâng cao khả năng cạnh tranh cho
sản phẩm của mình. Kinh nghiệm cho thấy không quốc gia nào trên thế giới tăng
trưởng nhanh nhờ vào bảo hộ. Chính vì thế, bảo hộ phải tạo đà cho tự do hoá
thương mại, là cơ sở để phát triển bền vững trong tự do hoá thương mại.
Tóm lại, chính sách bảo hộ hợp lí theo quy định của WTO là chính sách bảo
hộ mang lại lợi ích và hiệu quả kinh tế cho đất nước, đồng thời tuân thủ đầy đủ các
quy định của WTO cũng như các cam kết mà các quốc gia đă kí kết.
2. Các biện pháp bảo hộ hợp lí nền sản xuất trong nước:
2.1.Hàng rào kỹ thuật thương mại và các biện pháp vệ sinh dịch tễ
2.1.1. Hàng rào kỹ thuật thương mại [Technical Barriers to Trade]
Là các biện pháp đề cập đến các yêu cầu, tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật đối
với hàng nhập khẩu vào nước mình. Các tiêu chuẩn này tạo thuận lợi cho thương
mại quốc tế bằng cách giúp người mua nước ngoài đánh giá được quy cách, chất
lượng sản phẩm và cũng gián tiếp trở thành rào cản thương mại trong trường hợp

những tiêu chuẩn, quy định đặt ra quá khác biệt giữa các nước.
- Các yêu cầu về nhãn mác, bao bì, đóng gói hàng hoá: tập trung chủ yếu vào
chuẩn hoá quy cách của sản phẩm chế tạo, như nhãn mác, bao bì, đóng gói
- Các yêu cầu về quy trình và sản xuất, thu hoạch và chế biến
- Các yêu cầu về vệ sinh kiểm dịch động thực vật [SPS]: nhằm bảo vệ cuộc
sống hoặc sức khoẻ con người và động thực vật thông qua việc bảo đảm an
toàn thực phẩm và ngăn chặn sự xâm nhập của các dịch bệnh có nguồn gốc từ
động thực vật.
2.1.2. Các biện pháp vệ sinh dịch tễ [Sanitary and Phytosanitary Measures]
Các nước thành viên WTO có quyền đưa ra các biện pháp về kiểm dịch động
vật và thực vật cần thiết với điều kiện phải tuân theo các quy định của hiệp định
SPS [ Agreement on Sanitary and Phytosanitary Measures]
Theo hiệp định SPS của WTO, các nước thành viên có quyền sử dụng các biện
pháp kiểm dịch động - thực vật cần thiết để bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ của con người
nhưng chỉ được áp dụng ở mức độ cần thiết để bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ con người,
động vật và thực vật, dựa trên các nguyên tắc khoa học không được duy trì thiếu căn
cứ khoa học xác đáng và đặc biệt là không được áp dụng theo cách thức tạo ra sự
phân biệt đối xử không hợp lí và tuỳ tiện hay hạn chế một cách vô lí tới thương mại
quốc tế.
2.2. Trợ cấp và chống trợ cấp
25


Video liên quan

Chủ Đề