Cô phàm dịch nghĩa là gì

Câu 2 trang 144 - SGK Ngữ Văn 10 tập 1: Sông Trường Giang là huyết mạch giao thông chính của miền Nam Trung Quốc. Mùa xuân trên sông Trường Gian hẳn có nhiều thuyền bè xuôi ngược, vì sao Lí Bạch chỉ thấy “cánh buồn lẻ loi” [cô phàm] của “cố nhân”?

Trả lời: 

Sông Trường Giang là một huyết mạch giao thông chính của miền Nam Trung Quốc. Vào mùa xuân hẳn phải có rất nhiều thuyền bè xuôi ngược. Vậy mà người đưa tiễn chỉ thấy có một cánh buồm đơn chiếc [cô phàm] của cố nhân cứ dần dần lùi sâu vào nước xanh mênh mang thăm thẳm. Cái tình của Lí Bạch sâu sắc cũng là ở chỗ ấy. Tiễn bạn mà cứ nhìn đau đáu vào bóng thuyền của bạn cho đến khi khuất hẳn, ấy là tấm lòng đã định hướng cho đôi mắt. Người ra đi cô đơn, người đưa tiễn cũng cô đơn, bịn rịn, lưu luyến. 

 

Câu 3 trang 144 - SGK Ngữ Văn 10 tập 1: Anh [chị] hãy đặt mình vào vị trí của người đưa tiễn nhìn theo cánh buồm dần xa và dòng sông chảy vào cõi trời để cảm nhận tâm tình của thi nhân dòng sông chảy vào cõi trời để cảm nhận tâm tình của thi nhân.

 

Trả lời: 

Người đi thì đã đi xa. Vậy mà người đưa tiễn vẫn đứng lặng mãi trên lầu Hoàng Hạc. Bởi chỉ có bằng cách ấy, nhà thơ mới có thể dõi theo bóng bạn. Thời gian mà người tiễn đưa đứng lặng hẳn phải rất lâu thì mới nhìn thấy cả một quá trình biến đổi: con thuyền – bóng buồm – cột buồm – điểm chấm nhỏ rồi cuối cùng mất hẳn. Bài thơ tuy không nói lời nào về tình bạn mà sao tình cảm lại chan hòa cả vào trời mây sóng nước bao la.

 

GHI NHỚ

Với ngôn ngữ giản dị, hình ảnh gợi cảm, bài thơ thể hiện tình bạn sâu sắc, chân thành của hai nhà thơ lớn thời Thịnh, Đường. Thời đại nào tình bạn cũng rất đáng trân trọng. 

 

LUYỆN TẬP

Câu 1 - Luyện tập trang 144 - SGK Ngữ Văn 10 tập 1: Người ta thường cho rằng: cái hay của thơ Đường là ở chỗ thể hiện được "ý tại ngôn ngoại" [ý ở ngoài lời]. Hãy tìm "ý tại ngôn ngoại" qua bài thơ này.

 

Trả lời: 

Cái hay của thơ Đường là thể hiện được những ý ở ngoài lời. Bài thơ của Lí Bạch cũng sắc sảo và tài hoa như thế:

Trước hết các địa danh được nói đến trong bài [Hoàng Hạc, Dương Châu] đều là những địa danh giàu sức gợi. Nói đến lầu Hoàng Hạc, người ta có thể liên tưởng ngay đến nỗi sầu li biệt. Cũng vậy, ở trong bài thơ này, sự xuất hiện của địa danh Hoàng Hạc làm cho cuộc chia li của tác giả với bạn thêm xúc động và da diết hơn. Địa danh Dương Châu cũng gợi ra nỗi buồn vì nó giúp ta liên tưởng đến cảnh tượng đối lập: người đi đến chốn phồn hoa đô hội >< người ở lại buồn bã cô đơn.

-Hình ảnh cánh buồm càng lúc càng xa thực chất là để gợi lên cái tình của nàh thơ: có yêu quý bạn mới đứng ngẩn lâu như vậy để dõi theo “bóng buồm” của bạn cho đến lúc không còn nhìn thấy nữa.

-Toàn thể bài thơ thực chất cũng đã làm nên một tín hiệu nghệ thuật theo “ý ở ngoài lời”. bởi ẩn giấu đằng sau bức tranh phong cảnh là cái tình lai láng của nhà thơ [cái không được đề cập trực tiếp trong phần lời của bài thơ]

 

Câu 2 - Luyện tập trang 144 - SGK Ngữ Văn 10 tập 1: Các nhà thơ thời Đường rất trân trọng tình bạn. Anh [chị] hãy suy ngẫm về vị trí, ý nghĩa của tình bạn trong cuộc sống ngày nay.

 

Trả lời: 

Các nhà thơ Đường xưa rất trọng tình bạn:

Quả thật như vậy, bạn bè dù là ai, dù ở bất cứ đâu, bất cứ thời đại nào đi chăng nữa cũng vô cùng quan trọng và đáng quý đối với mỗi người chúng ta. Có bạn bè giúp cho cuộc sống của chúng ta thêm đáng yêu, đáng sống. Ở bất kì một thời đại nào cũng vậy, bạn ai cũng có người tốt người xấu. Nhưng không vì thế mà ta chán nản, khép mình không giao lưu với một ai. Điều quan trọng ở đây là ta biết chọn bạn mà chơi. Người bạn tốt cũng giống như ngọn đèn sáng trong đêm, không chỉ chiếu sáng cho người mà còn soi đường chỉ lối cho ta, giúp ta tiếp tục tiến về phía trước. 

Dàn ý

1. Mở bài

- Giới thiệu sơ qua vài nét về tác giả Lí Bạch: Là nhà thơ nổi tiếng thời Đường [Trung Quốc], được người đời mệnh danh là "thi tiên"

- Giới thiệu khái quát tác phẩm Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng.

2. Thân bài

* Cảm nhận hai câu thơ đầu: "Cố nhân... Dương Châu" [Bạn từ lầu Hạc... xuôi dòng]

- Nội dung chính: Khái quát khung cảnh chia tay giữa người đi - Mạnh Hạo Nhiên [bạn thân chí cốt của tác giả] lên đường đi Quảng Lăng thuộc Dương Châu để làm quan và người đi tiễn - nhà thơ Lí Bạch 

- Thời gian: Vào mùa hoa khói, mùa xuân

- Địa điểm của cuộc chia li: Tại lầu Hoàng Hạc ở phía Tây 

- "Cố nhân": Hạo Nhiên là người bạn đã thân thiết từ rất lâu, người bạn tri âm, tri kỉ của tác giả

=> Người đi, kẻ ở lại khiến con người ta có gì bứt rứt trong lòng.

* Cảm nhận hai câu thơ cuối: "Cô phàm... thiên kế lưu" [Bóng buồm... trên trời]

- Được coi là linh hồn của bài thơ đồng thời là tâm trạng của tác giả

- Các hình ảnh đặc sắc:"bóng buồm, dòng sông, bầu trời"...

+ Cánh buồm: Nhỏ bé, xa dần, mờ dần rồi mất hút, khiến tác giả trông theo mà chỉ thấy "dòng sông trên trời"

+ Dòng sông, bầu trời: Rộng lớn, bao la

=> Cánh buồm cô đơn, lẻ loi hay cũng như tâm trạng của Hạo Nhiên, của tác giả khi đó

- Lí Bạch đứng đó trông theo rất lâu từ khi con thuyền xuôi dòng cho đến khi biến mất xa tít tắp, không còn một dấu chấm nhỏ nhoi

=> Tình cảm sâu nặng của ông dành cho người bạn cố nhân của mình

* Khái quát lại giá trị nghệ thuật bài thơ: 

+ Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật vẻn vẹn trong 28 chữ nhưng cô đọng, hàm súc

+ Hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc

+ Cả bài thơ không có từ ngữ nào miêu tả trực tiếp cảm xúc, tâm trạng buồn bã, cô đơn nhưng lại giúp người đọc cảm nhận rõ sự trống vắng, hụt hẫng của tác giả.

3. Kết bài

- Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm

- Nêu suy nghĩ, cảm xúc của bản thân. 

Bài mẫu

      Lý Bạch [701-762] là một trong ba nhà thơ cự phách đời Đường, được người đời ca ngợi là “Thi tiên” và đã để lại hơn một nghìn bài thơ tuyệt tác. Là một kiếm khách – thi sĩ, ông coi thường danh lợi, thích ngao du sơn thuỷ, cầu tiên phỏng đạo. Trăng, rượu, hoa, cảnh núi sông tráng lệ, tình bằng hữu, tình quê hương lòng khao khát tự do… chứa chan trong những vần thơ lãng mạn tràn đầy hùng tâm tráng chí. Ông có làm quan khoảng 3 năm ở kinh đô Tràng An nhưng đã vứt bỏ áo mũ, với thanh gươm túi thơ lại lên đường… “Vọng Lư Sơn bộc bố”, “Hành lộ nan”, “Tĩnh dạ tư”, "Hoàng hạc lâu tống Mạnh Hạo nhiên chi Quảng lăng", ”Tảo phát Bạch Đế thành”… là những bài thơ nổi tiếng của “Thi tiên” cho thấy một hồn thơ tuyệt đẹp.

     Bài thơ Hoàng hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng ghi lại một kỷ niệm sâu sắc tại lầu Hoàng Hạc, Lí Bạch tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi về Quảng Lăng, qua đó nói lên tình lưu luyến, thương nhớ bạn.

     Nơi Lý Bạch đưa tiễn bạn lên đường đi xa về phía tây là lầu Hoàng Hạc, một thắng cảnh thuộc Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc. Lầu Hoàng Hạc gắn liền với huyền thoại Phí Văn Vi đắc đạo thành tiên, đã từ đây cưỡi hạc ra đi. Bạn là Mạnh Hạo Nhiên [689-740] một nhà thơ nổi tiếng, bạn vong niên của Lý Bạch một kẻ sĩ hào hiệp hào hoa, phóng khoáng, ưa ngao du, rất tâm đầu ý hợp với Lý Bạch Hai chữ “Cố nhân” [bạn cũ, người xưa] trong câu đầu nói lên mối quan hệ sâu sắc, lâu bền về tình bạn đẹp giữa hai nhà thơ. Đó là bạn tao nhân mặc khách:

“Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu”
[Bạn từ lầu Hoàng Hạc lên đường]

      Câu thơ dịch rất hay và thanh thoát, nhưng chữ “tây” chưa dịch được để nói lên hướng đi của bạn. Chữ “bạn” chưa lột tả hết ý và cảm xúc của từ “cố nhân”. Trong thơ cổ, mỗi lần từ “cố nhân” xuất hiện, gợi tả bao tình nghĩa làm rung động hồn người:

“Dạng chu tầm thuỷ tiện
Nhân phỏng cố nhân cư”
Mạnh Hạo Nhiên
[Thuật dòng đủng đỉnh thuyền bơi
Cố nhân gần đó, qua chơi thăm nhà]

“Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân”
[câu 2330- “Truyện Kiều”]

     Câu hai phát triển và hoàn thiện câu thơ thứ nhất, nói rõ thời gian bạn lên đường và nơi bạn sẽ đến. Mạnh Hạo Nhiên lên đường vào một ngày tháng ba [tam nguyệt] mùa hoa khói [yên hoa], xuôi về nơi phồn hoa đô hội, Dương Châu – một trong những đô thị đẹp nổi tiếng thời Đường:

“Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”
[Giữa mùa hoa khói Châu Dương xuôi dòng ]

      Chữ “há” có bản phiên âm là “hạ”, được Ngô Tất Tố dịch thành “xuôi dòng”, thật là sáng tạo. “Yên hoa” là một thi liệu, một ẩn dụ giàu chất thơ mà ta gặp nhiều trong Đường thi. Câu thơ không chỉ xác định thời gian và không gian đi, đến mà còn diễn tả nỗi niềm của kẻ ở người đi. Lầu Hoàng Hạc và Dương Châu cách xa hàng nghìn dặm như hiện lên qua vần thơ. Đằng sau hai địa danh mà nhà thơ nói đến là cả một nỗi niềm, một không gian trống vắng vô bờ, một trời thương nhớ biệt ly của đôi bạn tri âm. Có một bản dịch khác đọc lên nghe rất thú vị:

“Bạn từ lầu Hạc ra đi
Dương Châu Hoa khói giữa kỳ tháng ba”
                                         [Nhữ Thành]

      Có thể nói trong hai câu “Khai thừa”, yếu tố tự sự chỉ là bề nổi của câu chữ: nỗi niềm của một tâm sự thầm kín mới là tầng sâu hàm ẩn. Nơi “thi hội tao nhân” cũng là nơi ly biệt, đó là Hoàng Hạc Lâu. Lý Bạch đứng trên lầu cao hay trên một cao điểm nào đó trên bến sông, dõi theo chiếc thuyền đưa Mạnh Hạo Nhiên đến chân trời xa? Cấu trúc không gian hai điểm mút “cận – viễn” là một thủ pháp trong hội hoạ, ta thường bắt gặp trong Đường thi, trong các bức hoạ cổ Trung Hoa. Lý Bạch đã vận dụng thành công thủ pháp ấy tạo nên điểm nối giữa câu 1, 2 với câu 3, 4 thành một chỉnh thể nghệ thuật hoàn hảo.

      Hai câu cuối là linh hồn của bài thơ, giãi bày những tình cảm sâu sắc, đẹp đẽ, cảm động của Lý Bạch đối với Mạnh Hạo Nhiên. ẩn hiện sau ba hình ảnh được miêu tả trực tiếp: dòng sông, cánh buồm, bầu trời là hình ảnh của Lý Bạch đứng mãi nhìn hoài con thuyền đưa bạn cũ đi xa…

     Cánh buồm đơn côi, lẻ loi [cô phàm] xa dần, mờ dần [viễn ảnh] rồi mất hút vào trời xanh, vào cuối chân trời xa [bích không tận]. Hay tầm lòng “Thi tiên” với bao ái ngại, lưu luyến, nhớ thương… như những con sóng gối lên nhau, đưa tiễn con thuyền của bạn, mất hút dần, mờ dần trên dòng sông Trường Giang? “Con sông sẽ trở nên rộng bao la khi cái hữu hạn của nó đồng nhất với cái vô hạn của bầu trời. Chiếc thuyền buồm lẻ loi chở Mạnh Hạo Nhiên đã tan biến trong dòng sông bao la đó mang đi tình bạn của Lý Bạch. Dòng sông càng rộng, chiếc thuyền buồm càng nhỏ mất hút vào khoảng không gian vô tận. Rõ ràng, sau khi tiễn bạn lên đường, Lí Bạch dừng lại khá lâu dõi mắt nhìn theo chiếc thuyền buồm lẻ loi đến tận chân trời xa tít. Lí Bạch mượn cái khung cảnh thiên nhiên sau buổi tiễn đưa để nói lên tình cảm nhớ bạn da diết….
      Lí Bạch tả về cái buồn của sự li biệt, nhưng vẫn giữ được phong cách phóng khoáng khi ông miêu tả cái hùng vĩ của thiên nhiên”. [Trần Xuân Đề]

“Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu”
[Bóng buồm đã khuất bầu không
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời].

     Cái tiêu điểm đầy ám ảnh của bài thơ là “cô phàm viễn ảnh”. Cái tâm cảnh của Lí Bạch được diễn tả bằng hai chữ “duy kiến” – chỉ nhìn thấy. Ta đã biết Lí Bạch sống trong thời Thịnh Đường. Lúc bấy giờ kinh tế phát triển mạnh, thương nghiệp mở mang, nhiều đô thị sầm uất mọc lên: Tràng An, Dương Châu, Thành Đô v.v… Trên con sông Trường Giang suốt đêm ngày thuyền bè ngược xuôi như mắc cửi. Thế mà trong muôn ngàn cánh buồm ở trên sông, Lý Bạch ”duy kiến” chiếc “cô phàm” của bạn, nhìn mãi cho đến lúc nó mất hút trong “bầu trời xanh biết”. Chỉ sống với một tình bạn tri âm, thắm thiết thì mới có cái nhìn “duy kiến” ấy.
Mặc dầu chưa dịch được hai chữ “cô” [cô phàm], “bích” [bích không tận] nhưng Ngô Tất Tố đã lột tả được “điệu Đường”, “hồn Đường” của nguyên tác, đọc lên rất thấm thía về nỗi buồn thương, lưu luyến bạn của nhà thơ Lý Bạch

     Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo nhiên chi Quảng Lăng là một trong những tuyệt tác về thơ thất ngôn tứ tuyệt của Lý Bạch Vừa cụ thể vừa phổ quát cho muôn đời về nỗi buồn tống biệt và ức hữu. Cấu trúc không gian xa – gần [cận – viễn], lấy ngoại cảnh để biểu hiện nội tâm, ngôn ngữ, trang nhã, gợi cảm, hàm súc… đó là những yếu tố nghệ thuật tạo nên vẻ đẹp văn chương và cốt cách của bài thơ này. Bài thơ đã phản ánh một tâm hồn đẹp, một tình bạn đẹp của Lý Bạch, cũng là của những tao nhân mặc khách đời Đường.

Loigiaihay.com

Chủ Đề