Đặc điểm nào sau đây không phải là đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp?

ĐẶC TRƯNG CỦA VĂN HÓA GỐC NÔNG NGHIỆP

đặc trưng của văn hóa gốc nông nghiệp môn cơ sở văn hóa Việt Nam
  • UniversityTrường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

  • CourseGiáo dục tiểu học (okila123)

  • Academic year
    2021/2022
Helpful?111
Share

Comments

  • Please sign in or register to post comments.

Students also viewed

  • Tài liệu giải tích 3 - Tài liệu tham khảo - Tài liệu thu thập - Tài liệu chia sẻ
  • Thiết kế website hay xây dựng một cửa hàng cũng gần như nhau về mặt
  • N1 - CÁC NHÓM PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC
  • Tuyen chon 150 tinh huong su pham thuong gap va cach giai quyet
  • Tuần 5 - Lecture notes 1
  • Bài-tập-lớn - Bài tập chỉ mang tính tham khảo, chưa qua giảng viên sửa
  • Đất nước - Lecture notes e
  • 16 Chuyên đề toán 5 - Ôn tập cho học sinh lớp 5 giúp các em tiếp thu kiến thức
  • ôn tập cuối kì triết 1 - Grade: b
  • 14 - Giáo án dạy trẻ chậm phát triển

Preview text

ĐẶC TRƯNG CỦA VĂN HÓA GỐC NÔNG

NGHIỆP

Việt Nam ta từ xưa tới nay luôn được biết tới là một quốc gia có nên văn hóa vô cùng phong phú và đa dạng trên tất cả các khía cạnh. Sự khác biệt về cấu trúc địa hình, khí hậu, phân bố dân tộc, dân cư và sự khác nhau về lối sống, lối sản xuất đã tạo ra nhiều vùng văn hóa có những nét đặc trưng riêng tại Việt Namà đó cũng là nguyên do hình thành nên loại hình văn hóa gốc nông nghiệp mà hôm nay chúng ta sẽ cùng đi tìm hiểu. Việt Nam là quốc gia nằm ở khu vực Đông Nam Á - khu vực điển hình của vùng văn hóa Phương Đông. Môi trường sống của cư dân phương Đông là xứ nóng sinh ra mưa nhiều (ẩm) tạo nên các con sông lớn với những vùng đồng bằng trú phú nên đã hình thành nghề trồng trọt. Chính vì vậy mà chúng ta có những đặc trưng của nền văn hóa gốc nông nghiệp: Trong cách ứng xử với môi trường tự nhiên , nghề trồng trọt buộc ngươi dân phải sống định cư để chờ cây cối lớn lên, ra hoa kêt trái và thu hoạch. Do sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên dân nông nghiệp có ý thức tôn trọng và ươc vọng sống hòa hợp vời thiên nhiên. Người Việt Nam mở miệng là nói lạy trời, nhờ trời, ơn trời... Người nông dân Việt trong tâm thức luôn coi trời là chỗ dựa cho nên có những câu ca dao rất gần gũi như: Lạy trời mưa xuống Lấy nước tôi uống Lấy ruộng tôi cày Lấy đầy bát cơm Lấy rơm đun bếp Hay như: Ơn trời mưa nắng phải thì Nơi thì bừa cạn nơi thì cày sâu

Trong tư duy : Vì nghề nông, nhât là nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ thuộc vào tất cả mọi hiện tượng thiên nhiên: đất, nước, mưa, nắng..ắng, mưa nhiều quá hoặc không nắng, không mưa đều nguy hiểm cả. Nên Người Việt có câu: Trông trời, trông đất, trông mây Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm. Hay: Trông cho chân cứng đá mềm Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng Cho nên trong nhận thức của người dân dần hình thành lối tư duy tổng hợp, bao quát thiên về kinh nghiệm, trực giác, cảm tính và duy linh (linh cảm).Tổng hợp kéo theo hiện chứng cái mà người nông nghiệp quan tâm không phải là các yếu tố riêng rẽ, mà là những mối quan hệ qua lại

giữa chúng. Tổng hợp là bao quát được mọi yếu tố, còn biện chứng là chú trọng đến các mối quan hệ giữa chúng. Người nông dân ta quan sát từng yếu tố, hiện tượng của tự nhiên để đúc kết ra kinh nghiệm trong sản xuất, trồng trọt. Và để có thể nhớ một cách dễ dàng, có thể truyền lại cho nhiều đời, cha ông ta đã chuyển thể những kinh nghiệm khô khan đó thành những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ gần gũi, giản dị, và xúc tích. Ví dụ như: Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa

Cơn đằng Đông vừa trông vừa trông vừa chạy Cơn đằng Nam vừa làm vừa chơi. Cơn đằng Bắc, đổ thóc ra phơi Cơn đằng Tây, mưa ngu bão ngáo.

Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng Ngày tháng mười chưa cười đã tối. Đó chính là đặc trưng tư duy của văn hóa gốc nông nghiệp mà nông nghiệp lúa nước là điển hình.

Trong tổ chức cộng đồng , con người nông nghiệp ưa tổ chức xã hội theo nguyên tắc trọng tình, chuộng sự hòa thuận, tương trợ, quan tâm đến những láng giềng. Hàng xóm sống cố định lâu dài với nhau phải tạo ra một cuộc sống hòa thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu. Điều này cũng đã được đề cập rất nhiều trong ca dao, tục ngữ Việt Nam như:

Bán anh em xa, mua láng giềng gần

Hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau

Không chỉ là tình làng nghĩa xóm, dân ta còn luôn ưa chuộng hòa bình, luôn có thái độ sống hòa thuận, tương trợ nước láng giềng. Từ xưa, khi đất nước còn nghèo khó, vừa thoát khỏi chiến tranh, dân ta, bộ đội ta đã không ngại ngần giúp đỡ nước bạn khi họ cần. Điển hình là sự kiện: Tháng 12/1978, trước lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, quân và dân Việt Nam đã phối hợp với các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia tiến hành các cuộc tấn công Khmer Đỏ, giải phóng hoàn toàn Campuchia. Hay như đến hiện tại, Việt Nam vẫn luôn giữ thái độ thân thiện, hòa đồng không chỉ với các nước anh em láng giềng mà còn với tất cả các quốc gia trên thế giới.

tình làm cho thói tùy tiện càng trở nên trầm trọng hơn: Một bồ cái lí không bằng một tí cái tình... Nó dẫn đến tệ đi cửa sau trong giải quyết công việc: Nhất quen, nhì thân, tam thần, tứ thế..í dụ như người Việt chúng ta thường có thói quen vi phạm các quy tắc giao thông như vượt đèn đỏ, không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông hay gian lận điểm thi THPTQG ở tỉnh Hà Giang

Trong lối ứng xử với môi trường xã hội: Tư duy tổng hợp và phong cách linh hoạt của văn hóa nông nghiệp còn quy định thái độ dung hợp trong tiếp nhận các yếu tố: ở Việt Nam không những không có chiến tranh tôn giáo mà, ngược lại, mọi tôn giáo thế giới (Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Thiên chúa giáo...) đều được tiếp nhận và đều bình đẳng giữa các tôn giáo. Việt Nam là một nước đa tông giáo với khoảng 13 đạo khác nhau. Tất cả các tôn giáo được Nhà nước công nhận thì đều bình đẳng trước pháp luật và điều này đã được ghi lại tại điền 24 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

(Đạo Phật) (Đạo Hồi)

Đối phó với các cuộc chiến tranh xâm lược, người Việt Nam luôn hết sức mềm dẻo, hiếu hòa. Ngày xưa, trong kháng chiến chống ngoại xâm, mỗi khi thế thắng đã thuộc về ta một cách rõ ràng, cha ông ta thường dừng lại chủ động cầu hòa, trải chiếu hoa cho giặc về, mở đường cho chúng rút lui trong danh dự.

=> Trên đây là những đặc trưng của nền văn hóa gốc nông nghiệp. Tuy nhiên văn minh nông nghiệp kéo dài đã làm chậm sự phát triển của tiến trình lịch sử Việt Nam, không tạo ra được những tiền đề và điều kiện để bức ra khỏi cái khung phong kiến phương Đông, làm hạn chế tính năng động, sáng tạo của con người Việt Nam và dẫn đến sự trì trệ của xã hội Việt Nam. Vậy nên bên cạnh sự giữ gìn nên văn hóa đặc trưng của dân tộc, ta còn cần biết sáng tạo, vận dụng những thành quả tiến bộ của nền văn minh thế giới.

*Chứng minh văn hóa Việt Nam thuộc loại hình văn hóa nông nghiệp trồng trọt điển hình:

Do Việt Nam là một nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, với điều kiện vị trí địa lí, tự nhiên thuận lợi, nằm ở góc tận cùng phía Đông Nam Châu Á, khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có nhiều con sông lớn như sông Hồng, sông Mekong... nhiều vùng đồng bằng phù sa màu mỡ là điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp lúa nước nên văn hóa Việt Nam thuộc loại hình văn hóa nông nghiệp điển hình.

Người Việt thích cuộc sống định cư, ổn định, không thích sự di chuyển, thay đổi, tình cảm gắn bó với quê hương xứ sở, với làng, nước... nên hình thành lối sống tự trị, kép kín, hướng nội.

Do cư dân Việt Nam sống bằng nghề nông nghiệp nên rất sùng bái tự nhiên, luôn mong muốn mưa thuận gió hòa để có cuộc sống no đủ Lạy trời, ơn trời..., có nhiều tín ngưỡng, lễ hội sùng bái tự nhiên vì vậy phổ biến ở các tộc người trên khắp mọi miền đất nước.

Cuộc sống định cư tạo cho người Việt có tiinh2 gắn kết cộng đồng cao, xem nhẹ vai trò cá nhân: Bán anh em xa mua láng giềng gần, Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ

Lối sống trọng tình nghĩa, các quan hệ ứng xử thường đặt tình cao hơn lí, ứng xử nhiều hóa, nhân ái, không thích sức mạnh, bạo lực.