Em hiệu thế nào là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước rất cần đội ngũ nhân lực chất lượng cao. Bởi vậy, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, xây dựng đội ngũ cán bộ đủ tài, đủ đức để đảm đương nhiệm vụ là công việc hàng đầu được Đảng ta coi trọng.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ cách mạng, coi đó là công việc hệ trọng của Đảng. Ngay từ khi Đảng chưa ra đời, năm 1925, trong Thư gửi Thanh niên An Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trăn trở về lớp thế hệ kế cận cùng những phân tích, nhận định về nguồn lực con người của nước ta và các nước bạn.

Công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực, nhân tài nói chung và đội ngũ cán bộ nói riêng là một quá trình với nhiều bước, nhiều nội dung. Hay nói cách khác đó là một hệ thống có mối liên hệ mật thiết, ràng buộc, quy định lẫn nhau, bắt đầu từ việc tạo nguồn, đánh giá, kiểm tra thông qua tuyển dụng. Tiếp đó là quá trình thử thách, rèn luyện trong môi trường thực tiễn, rồi tổng hợp, đúc rút kinh nghiệm và kết thúc ở quá trình tổng kết, khái quát hóa thành lý luận, làm tài liệu học tập, đào tạo, bồi dưỡng cho quá trình mới, thế hệ mới. Những nội dung cụ thể cần lưu ý trong quá trình đó như sau:

Em hiệu thế nào là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài
Ảnh minh họa

Chú trọng giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng trong giai đoạn tạo nguồn. Có thể nói ở giai đoạn này, giáo dục nhà trường đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành ý thức đạo đức, lối sống, tình cảm, phong cách, tri thức khoa học của những thế hệ tương lai của đất nước. Đây cũng là giai đoạn giáo dục nền tảng, quan trọng nhất, quyết định đến nhân cách người học. Sản phẩm của giáo dục phổ thông là tiền đề quan trọng quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực sau này.

Công cuộc đổi mới giáo dục, đào tạo ở nước ta thời gian qua đã đạt được một số thành tựu. Tuy nhiên, nền giáo dục vẫn bộc lộ nhiều hạn chế, chậm được khắc phục như: chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội; cơ cấu giáo dục, đào tạo giữa các ngành nghề, lĩnh vực chưa hợp lý; chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lạc hậu, chậm đổi mới. Sự mất cân đối trong giáo dục, đào tạo dẫn đến tình trạng nguồn nhân lực vừa thừa, vừa thiếu, vừa yếu. Thêm vào đó, công tác quản lý, tổ chức thi, kiểm tra, đánh giá bộc lộ nhiều yếu kém dẫn đến chất lượng đào tạo chưa theo sát với thực tế, còn nặng bệnh thành tích. Các mô hình học tập quốc tế được áp dụng nhưng thiếu sự đánh giá, vận dụng rập khuôn, máy móc. Việc mở và cho phép mở rất nhiều chương trình đào tạo với nhiều loại hình sở hữu, ngành nghề đào tạo nhưng không quản lý được dẫn đến chất lượng giáo dục, đào tạo nói chung còn kém. Bằng cấp mang tính hình thức, không đánh giá đúng năng lực người học…

Những hạn chế nếu trên cần phải được chấn chỉnh ngay từ giai đoạn đào tạo, bồi dưỡng cơ bản, giai đoạn tạo nguồn cán bộ. Nếu không, những hạn chế này sẽ trở thành “mầm bệnh” len lỏi sâu vào hệ thống giáo dục, đào tạo và sản phẩm của nó sẽ là nguồn nhân lực yếu kém, những cán bộ không đủ tài, không đủ đức. Từ đó đặt ra yêu cầu cần phải xây dựng chiến lược đào tạo với kế hoạch, lộ trình cụ thể; chương trình đào tạo, bồi dưỡng đổi mới; phương pháp giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học tiến bộ, bố trí các nguồn lực hợp lý và có tính liên thông, liên kết.  

Đổi mới công tác tuyển dụng, lựa chọn được những người thực đức, thực tài. Thi tuyển là một cách thức tốt để lựa chọn được người tài tham gia vào tổ chức, bộ máy nào đó. Tuy nhiên, cách thức thi tuyển như thế nào, tiến hành các bước ra sao để việc thi tuyển có hiệu quả không phải là dễ. Quá trình thi với nhiều giai đoạn từ việc ra điều kiện dự tuyển đến ra đề, tổ chức thi, chấm thi là một tiến trình các công việc khó khăn, phức tạp, yêu cầu trí tuệ, bản lĩnh và trách nhiệm của những người tham gia. Công khai, minh bạch trong thi tuyển sẽ giúp chọn ra người có đủ năng lực, trình độ, đáp ứng yêu cầu công việc. Ngược lại, nếu bất kỳ khâu nào trong quá trình thi tuyển thiếu minh bạch, bị làm sai lệch vì lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, thì việc thi tuyển coi như thất bại.

Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, tuy hệ thống giáo dục chưa toàn diện, rộng khắp, nhưng thông qua thi tuyển đã lựa chọn được rất nhiều người tài giỏi, lưu danh sử sách. Ngày nay, với hệ thống giáo dục rộng khắp, toàn diện, cần phải xây dựng hệ thống thi tuyển một cách bài bản, khoa học để lựa chọn những “hạt giống đỏ” cho đất nước. Việc tổ chức thi tuyển cần có sự thống nhất giữa các cơ quan, đơn vị để đảm bảo công bằng giữa các ứng viên với cùng yêu cầu về trình độ, vị trí việc làm. Nội dung đề thi cần sát thực tế để khai thác tối đa trí tuệ, kỹ năng giải quyết vấn đề của ứng viên. Một đề thi mang tính khoa học không chỉ đánh giá năng lực người học mà còn là cơ sở điều chỉnh quá trình dạy và học. Việc kiểm tra, giám sát trong quá trình thi tuyển cũng cần được lưu ý để tránh những gian lận trong quá trình thi tuyển, đảm bảo dân chủ, công khai, minh bạch. Chỉ khi có đủ tính cạnh tranh và công khai, minh bạch mới có được sự sàng lọc giữa các ứng viên, thông qua đó phát hiện và chọn được cán bộ phù hợp. 

Xây dựng môi trường làm việc, lao động sáng tạo có nền nếp, kỷ luật, tôn trọng cá nhân, đồng thời chống chủ nghĩa cá nhân. Sau khi tuyển dụng được người tài, cần tạo môi trường làm việc năng động, sáng tạo, dân chủ để họ yên tâm công tác, phát triển và cống hiến. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất khéo dùng người tài, tạo mọi điều kiện để nhân tài phát triển và cống hiến, nhất là trong bối cảnh đất nước vô cùng khó khăn về kinh tế, thù trong giặc ngoài. Người còn có phương pháp rèn luyện, bồi dưỡng nhân tài để họ ngày càng hoàn thiện nhân cách. Để dùng được nhân tài, Người luôn nhắc nhở những người làm cán bộ lãnh đạo, quản lý phải dân chủ, nêu gương. Một môi trường dân chủ là môi trường để người tài được trọng dụng và cống hiến. Môi trường thiếu dân chủ sẽ là mảnh đất cho chủ nghĩa cá nhân sinh sôi nảy nở với những hành vi tham ô, lãng phí… 

Thực tế trong xã hội hiện nay, nhiều người tài giỏi không lựa chọn hoặc rời bỏ khu vực công, “đầu quân” cho những tập đoàn, những cơ sở nghiên cứu, giảng dạy khu vực tư nhân. Nguyên nhân chính là bởi môi trường làm việc của khu vực công còn nhiều hạn chế. Nhiều ràng buộc trong cơ chế, chính sách ở khu vực này không kích thích được lao động sáng tạo, không tạo động lực phát triển, tiến bộ cho đội ngũ cán bộ.

Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng trong quá trình làm việc của cán bộ. Vừa làm việc vừa đào tạo, bồi dưỡng giúp cán bộ cập nhật kiến thức, bổ sung kỹ năng, nâng cao trình độ chuyên môn và phương pháp công tác. Đào tạo, bồi dưỡng trong giai đoạn này mang tính thường xuyên, liên tục và đòi hỏi sự chủ động, tự giác của cán bộ. Các lớp học, khóa đào tạo chỉ mang tính hệ thống, gợi mở, cung cấp thông tin, phương pháp để người học tiếp cận và tự học tốt hơn. 

Trong bối cảnh hiện nay, cần chú trọng đào tạo vừa học, vừa làm đối với các đối tượng nghiên cứu chuyên sâu, hướng tới hình thành đội ngũ cán bộ là chuyên gia trong các lĩnh vực, tránh tình trạng không có chuyên gia hoặc khó tìm chuyên gia. Giai đoạn đào tạo, bồi dưỡng này không tách rời các giai đoạn trước đó mà là sự bổ sung, tiếp nối các thành quả giáo dục, đào tạo trước đó đã hình thành. Đào tạo, bồi dưỡng mang tính chất hệ thống hơn, chương trình chuyên sâu hơn để hướng tới mục tiêu giáo dục, đào tạo suốt đời. Việc nâng cao trình độ nghiên cứu khoa học, nâng cao tay nghề, mong muốn sự chuyên nghiệp, đẳng cấp phải là một nhu cầu thiết yếu của mỗi người chứ không phải sự bắt buộc, gò ép theo các tiêu chuẩn. Từ đó cũng hình thành lối sống văn minh, tích cực, hình thành lớp thế hệ nhân lực, nhân tài có tầm nhìn xa, có chiến lược, bản lĩnh, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm, có khát vọng xây dựng đất nước hùng cường.

Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, nhân tài, xây dựng đội ngũ cán bộ là công việc quan trọng hàng đầu tạo ra nguồn sức mạnh nội sinh to lớn cho đất nước, dân tộc. Gắn liền công tác giáo dục, đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực, nhân tài, xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực làm việc trong bối cảnh hội nhập chính là việc tác động tổng thể vào các nhân tố, các giai đoạn của quá trình nêu trên. Các giải pháp độc lập, thiếu tính liên kết chỉ làm tăng thêm chi phí đầu tư, lãng phí nguồn lực và hiệu quả thấp./.

ThS Nguyễn Đức Bảo - Vụ Công tác đại biểu, Ban Công tác đại biểu Quốc hội

Theo: xaydungdang.org.vn

YBĐT - 55 năm qua, ngành giáo dục và đào tạo huyện Mù Cang Chải (Yên Bái) đã góp phần cơ bản vào nhiệm vụ nâng cao trình độ dân trí, tăng cường nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo cán bộ nguồn và góp phần to lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo ở địa phương.

Đảng và Nhà nước ta luôn xác định, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực của sự phát triển. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển; coi sự nghiệp “trồng người” là nhiệm vụ cơ bản của ngành giáo dục và đào tạo. Chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo là nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước, của tất cả các lực lượng xã hội và của mọi gia đình.

Mù Cang Chải là một huyện vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh Yên Bái và là một trong số 62 huyện nghèo của cả nước. Với trên 91% dân số là đồng bào dân tộc Mông, từ những ngày đầu thành lập năm 1957 với 100% dân số mù chữ, cuộc sống đói nghèo, tập quán lạc hậu, kinh tế - xã hội chậm phát triển thì đến nay, với sự cố gắng của các cấp ủy Đảng, chính quyền, nhân dân các dân tộc huyện Mù Cang Chải, kinh tế - xã hội ngày càng phát triển và có những chuyển biến rõ rệt trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, an ninh chính trị và an toàn xã hội luôn được giữ vững, ổn định. Năm 2000, huyện được Nhà nước phong tặng danh hiệu "Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới".

Góp phần vào sự phát triển chung của huyện là đóng góp to lớn của ngành giáo dục và đào tạo. Năm 1959, ngành giáo dục và đào tạo huyện được thành lập với mục tiêu chủ yếu là thanh toán nạn mù chữ cho cán bộ chủ chốt. Qua 55 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền các cấp và sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân, ngành giáo dục và đào tạo Mù Cang Chải không ngừng được củng cố và phát triển. Quy mô mạng lưới trường lớp được mở rộng, trường học đã được mở ra ở 14 xã, thị trấn với các cấp học từ mầm non, tiểu học, trung học cơ sở (THCS) đến trung học phổ thông (THPT).

Tính đến năm học 2014 - 2015, toàn huyện có 38 trường và 01 trung tâm dạy nghề - giáo dục thường xuyên, trong đó: mầm non 13 trường, tiểu học 09 trường, THCS 09 trường (01 trường phổ thông dân tộc nội trú THCS), tiểu học và THCS 06 trường, THPT 01 trường, hệ thống các trường phổ thông dân tộc bán trú (PTDTBT) được quan tâm và ngày càng mở rộng, đến nay đã có 14 trường. Từ 300 học sinh vỡ lòng và 350 học viên bổ túc, đến nay, huyện có 17.049 học sinh, học viên, trong đó: 4.071 học sinh mầm non, 7.778 học sinh tiểu học, 3.879 học sinh THCS, 849 học sinh THPT, 245 học viên bổ túc từ lớp 6 đến lớp 12 và 227 học viên xóa mù chữ. Có 12 đơn vị xã, thị trấn được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi; 14/14 đơn vị được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học - xóa mù chữ, trong đó 11 đơn vị được công nhận phổ cập đúng độ tuổi. Phấn đấu cuối năm 2014 công nhận mới 02 đơn vị đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi (PCGDTHĐĐT); nâng lên tổng số 13/14 đơn vị đạt chuẩn PCGDTHĐĐT và huyện đạt chuẩn PCGDTHĐĐT năm 2014. Tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi từ 15 - 60 là 72,64%.

Năm 2007, Mù Cang Chải đã được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS. Tính đến năm 2014, có 13/14 xã, thị trấn được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS, 03 đơn vị trường được công nhận đạt chuẩn quốc gia. Tỷ lệ học sinh ra lớp ngày một tăng, tỷ lệ học sinh chuyển lớp, chuyển cấp hàng năm đạt từ 98% trở lên.

Trong 55 năm qua, đã có rất nhiều tập thể và cá nhân trong ngành giáo dục và đào tạo được Nhà nước tặng thưởng các danh hiệu thi đua. Tiêu biểu như Trường Phổ thông dân tộc nội trú THCS huyện được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba, hạng Nhì; Trường Tiểu học Kim Đồng, Trường Tiểu học La Pán Tẩn được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba, được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen... Về cá nhân, có 02 nhà giáo được phong tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú, 01 nhà giáo được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen; 05 cá nhân được Bộ Giáo dục và Đào tạo tặng bằng khen; 01 giáo viên đạt giáo viên dạy giỏi cấp quốc gia... Có trên 770 lượt cán bộ, giáo viên, nhân viên đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua các cấp; trên 1.000 lượt giáo viên dạy giỏi cấp huyện; trên 30 lượt giáo viên đạt giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh và trên 8.000 lượt cán bộ, giáo viên, nhân viên đạt danh hiệu lao động tiên tiến; hơn 40 lượt học sinh đạt học sinh giỏi cấp tỉnh... Chất lượng giáo dục được các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương hết sức quan tâm và là mục tiêu hàng đầu của ngành nhằm xóa dần khoảng cách về mọi mặt giữa vùng sâu, vùng xa với vùng đồng bằng.

Có thể nói, trong 55 năm qua, ngành giáo dục và đào tạo huyện Mù Cang Chải đã góp phần cơ bản vào nhiệm vụ nâng cao trình độ dân trí, tăng cường nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo cán bộ nguồn và góp phần to lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo ở địa phương.

Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển, đổi mới toàn diện sự nghiệp giáo dục và đào tạo thì ngành giáo dục và đào tạo Mù Cang Chải vẫn còn những hạn chế. Đó là giáo dục và đào tạo trên địa bàn phát triển chưa vững chắc; nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học đã được đổi mới song chất lượng, hiệu quả chưa cao; tình trạng học sinh bỏ học còn nhiều, nhất là cấp THCS; cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy và học còn thiếu, không đồng bộ; đội ngũ giáo viên chưa đồng bộ về cơ cấu, chất lượng một bộ phận giáo viên và năng lực, trách nhiệm của một số cán bộ quản lý giáo dục ở các cấp học còn hạn chế; đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ thật sự chưa đáp ứng yêu cầu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của huyện.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đặt ra mục tiêu về giáo dục và đào tạo là "Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực; phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức". Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã có Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Tỉnh ủy Yên Bái đã xây dựng Chương trình số 70/CTr/TU, ngày 20/01/2014 trong đó mục tiêu tổng quát là "Thực hiện đồng bộ, quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp nhằm đưa giáo dục - đào tạo Yên Bái ổn định về quy mô và nâng cao về chất lượng. Phấn đấu đến năm 2030, tỉnh Yên Bái có nguồn nhân lực phát triển với trình độ chuyên môn, khả năng sáng tạo và thực hành đáp ứng nhu cầu thị trường lao động, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và đất nước...".

 

Em hiệu thế nào là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài

Đồng chí Giàng A Tông - Chủ tịch UBND huyện Mù Cang Chải tặng giấy khen cho các thầy, cô giáo Trường THCS Dế Xu Phình nhân khai giảng năm học 2014 - 2015.

Với quan điểm, mục tiêu phát triển giáo dục và đào tạo của Đảng và Nhà nước, xuất phát từ điều kiện thực tế của huyện, Mù Cang Chải tiếp tục kế thừa, phát huy những kết quả đã đạt được sau 55 năm xây dựng và trưởng thành của ngành giáo dục và đào tạo. Huyện chú trọng đẩy mạnh phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, tạo sự chuyển biến đồng bộ, vững chắc, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền giáo dục "chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa", tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, từng bước đưa Mù Cang Chải thoát khỏi diện đặc biệt khó khăn, rút dần khoảng cách so với các huyện, thị vùng thấp trong tỉnh. Trong những năm tới, các cấp ủy Đảng, chính quyền, cơ quan đơn vị, các trường học cần tiếp tục thực hiện tốt các nội dung sau:

Tiếp tục quán triệt sâu sắc và toàn diện các quan điểm, mục tiêu giáo dục của Đảng; đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo, vận động quần chúng trong việc thực hiện đẩy mạnh phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo theo hướng bền vững; nâng cao nhận thức về vai trò, nhiệm vụ của giáo dục, tăng cường đầu tư cả về nguồn nhân lực, đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho giáo dục và đào tạo; tăng cường chỉ đạo các tổ chức đoàn thể vận động nhân dân cùng chăm lo, tạo điều kiện tốt nhất để con em các dân tộc trong huyện được đến trường tham gia học tập và phát triển một cách toàn diện, làm cho từng gia đình, cộng đồng dân cư và toàn xã hội nhận thức rõ trách nhiệm đối với giáo dục; thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng trong quản lý, sử dụng các nguồn ngân sách, nguồn huy động đóng góp đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo; thực hiện tốt chính sách về giáo dục và đào tạo.

Chỉ đạo thực hiện có hiệu quả công tác phối hợp giữa nhà trường với gia đình và xã hội, làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục và đào tạo; tổ chức tốt các cuộc vận động quyên góp, ủng hộ về mọi mặt cho học sinh; tiếp tục thực hiện việc luân chuyển, luân chuyển cán bộ quản lý và giáo viên đã công tác lâu năm ở những xã, thôn bản khó khăn về những nơi có điều kiện thuận lợi hơn và ngược lại, bảo đảm công bằng trong giáo dục và đào tạo; chú trọng công tác khuyến học, khuyến tài.

Chú trọng phát triển nâng cao chất lượng, năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng trong trường học; tăng cường công tác phát triển Đảng, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục đạo đức và nhân cách trong đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên; quan tâm, có định hướng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông, trong đó cần chú trọng giáo dục phẩm chất đạo đức, kỹ năng và năng lực cho học sinh; cấp ủy, chính quyền địa phương, cơ sở phải có trách nhiệm cao trong việc vận động học sinh trong các độ tuổi đến lớp, có giải pháp cụ thể giúp đỡ học sinh con em người dân tộc có hoàn cảnh khó khăn được đến trường. Đồng thời đổi mới, nâng cao công tác quản lý Nhà nước về giáo dục và đào tạo, nâng cao năng lực, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý giáo dục; thực hiện đầy đủ, kịp thời, đồng bộ các cơ chế, chính sách phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là các cơ chế, chính sách đặc thù áp dụng cho các huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ.

Kịp thời khuyến khích, khen thưởng, động viên học sinh, giáo viên có thành tích cao trong học tập và giảng dạy; sàng lọc, đưa ra khỏi ngành những giáo viên, cán bộ quản lý thoái hóa, biến chất, vi phạm đạo đức nghề nghiệp và mắc các tệ nạn xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên trường học, nhất là người dân tộc thiểu số, đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, có tâm huyết với sự nghiệp giáo dục vùng cao; đẩy mạnh việc "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực", thực hiện tốt quy chế dân chủ trong trường học.

Mặt khác quan tâm xây dựng mô hình "Gia đình học tập", "Dòng họ học tập", "Cộng đồng học tập", "Đơn vị học tập"; đẩy mạnh phát triển quy mô, mạng lưới trường lớp một cách hợp lý, vừa bảo đảm nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo vừa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; tiếp tục thực hiện có hiệu quả quy hoạch phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2009 - 2015, định hướng đến năm 2020; thực hiện duy trì và tiếp tục phát triển có hiệu quả mô hình trường phổ thông dân tộc bán trú, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh; đẩy mạnh phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 1, mức độ 2, nâng cao chất lượng phổ cập trung học cơ sở; chống tái mù chữ theo hướng bền vững.

Phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo chính là nền tảng vững chắc, là động lực cho sự phát triển chung của huyện trong hiện tại và tương lai. Trước mắt, nhiệm vụ đẩy mạnh phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo còn hết sức nặng nề và không ít khó khăn, thách thức. Song dưới ánh sáng nghị quyết đại hội Đảng các cấp và với quyết tâm của đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên cũng như với trách nhiệm cao của cả hệ thống chính trị, các lực lượng xã hội, sự nghiệp giáo dục và đào tạo của huyện Mù Cang Chải sẽ ngày càng phát triển, đáp ứng hơn nữa yêu cầu "nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài", ươm trồng những thế hệ tương lai, chủ nhân của đất nước là những con người có phẩm chất đạo đức tốt, sống có lý tưởng, có hoài bão, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn miền núi và vì mục tiêu dân giàu, huyện mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Giàng A Tông (Phó bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện Mù Cang Chải)