Giải pháp để ngân hàng thương mại giảm thiểu rủi ro trong giao dịch tài chính

Quản lý rủi ro tài chính luôn cần thiết đối với sự vận hành của bất kì doanh nghiệp nào. Quản lý rủi ro hợp lý sẽ giúp giảm thiểu thiệt hại về tài chính, tối ưu hóa lợi nhuận, đảm bảo hoạt động kinh doanh hàng ngày được suôn sẻ và tránh được những tổn hại về danh tiếng cho doanh nghiệp.

Một kế hoạch quản lý rủi ro toàn diện có thể giúp dự đoán trước các vấn đề trong tương lai như những khoản thanh toán trễ hay vỡ nợ, cùng với những biến động lên xuống thường thấy trong một chu kì kinh doanh.

Doanh nghiệm SME không cần phải chạy theo các tập đoàn lớn lập ra cả một bộ phận quản lý rủi ro hay dồn phần lớn tài nguyên công ty cho công việc này; hoạt động quản lý rủi ro sẽ lớn dần tỷ lệ thuận với tầm cỡ của doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp nhỏ, ta có thể quản lý rủi ro một cách đơn giản thông qua việc quản lý bốn hình thức rủi ro chính: 

  • Rủi ro thị trường
  • Rủi ro tín dụng
  • Rủi ro thanh khoản
  • Rủi ro hoạt động

1. Rủi ro thị trường

Rủi ro thị trường là rủi ro đến từ thị trường kinh doanh nói chung. Chẳng hạn khi khu vực ASEAN phát triển hội nhập hơn, những doanh nghiệp nội địa sẽ thấy thị phần của họ bị đe dọa bởi những đối thủ cạnh tranh bằng các sản phẩm rẻ hơn và tân tiến hơn.

Ngoài sự xuất hiện của các đối thủ cạnh tranh mới, các doanh nghiệp sẽ đối mặt với những hệ quả thường thấy gây ra bởi các thay đổi trong chu kì kinh doanh. Sản lượng sản xuất ra có thể sẽ giảm do các tranh chấp về chính trị, hay sự can thiệp chính sách của Chính phủ lên một loại hàng hóa hoặc dịch vụ; những trường hợp này ngoài tầm kiểm soát của các doanh nghiệp SME.

Trên mức độ kinh tế vĩ mô, các doanh nghiệp SME sẽ chịu tác động của suy thoái kinh tế hoặc gián đoạn thương mại.

Những giải pháp quản lý rủi ro tiềm năng

Khi nói về giảm thiểu rủi ro thị trường, việc theo dõi thị trường thông qua tin tức và phản hồi từ các bên liên quan là vô cùng quan trọng. Trong khi các doanh nghiệp SME thường không có “hầu bao” lớn, họ vẫn nên có khả năng linh hoạt cao bằng cách thực hiện các thay đổi có tính định hướng, hay điều chỉnh các sản phẩm và dịch vụ khi cần thiết.

Dưới hình thức giảm thiểu rủi ro, doanh nghiệp nên liên tục thử nghiệm và nâng cấp các sản phẩm và dịch vụ. Họ có thể hướng tới đa dạng hóa và không chỉ phụ thuộc vào 1 dòng sản phẩm hay 1 loại hình dịch vụ. Điều này cũng có thể đồng nghĩa với việc thiết kế lại hoặc điều chỉnh các sản phẩm hiện có dựa trên phản hồi của khách hàng.

Doanh nghiệp cũng có thể tập trung vào xây dựng các mối quan hệ thân thiết với khách hàng để giảm thiểu tác động của những thay đổi của thị trường. Một thương hiệu được xây dựng lên từ việc cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ cao cấp sẽ tạo nên sự trung thành từ khách hàng. Từ đó, khách hàng của họ sẽ không mua hàng từ bất kì công ty nào khác dù có tiện lợi hay chi phí thấp hơn.

Các doanh nghiệp SME trong nước cũng có thể tận dụng việc rào cản thương mại được hạ thấp để tìm kiếm các thị trường rộng lớn hơn ở nước ngoài và đa dạng hóa hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp nên phấn đấu mở rộng và vượt qua những giới hạn hiện tại thay vì đứng yên chờ đợi bị các công ty nước ngoài xâm chiếm thị phần. Điều này có thể giúp họ vượt qua suy thoái kinh tế bởi vì hoạt động kinh doanh không chỉ phụ thuộc vào một thị trường.

2. Rủi ro tín dụng

Đây là rủi ro mà các doanh nghiệp SME thường đối mặt nhất – khách hàng không phải lúc nào cũng thanh toán đúng hạn và điều này làm gián đoạn dòng tiền của doanh nghiệp. Rủi ro này không thể được dễ dàng giải quyến thông qua những khoản vay từ ngân hàng: Các tổ chức tài chính truyền thống đề ra những yêu cầu về tín dụng mà các doanh nghiệp SME khó có thể đáp ứng.

Ví du, các ngân hàng có thể sẽ đòi một hồ sơ dài chứng minh khả năng sinh lời, tài sản thế chấp dưới dạng bất động sản hoặc máy móc, hay những khoản tiền gửi cố định với thời gian đáo hạn dài. Tuy nhiên, việc cầm cố hoặc sở hữu những tài sản như vậy có thể tạo ra rủi ro thanh khoản [xem bên dưới], khiến cho doanh nghiệp giảm thiểu một loại rủi ro nhưng lại có nguy cơ nhận về loại rủi ro khác.

Những giải pháp quản lý rủi ro tiềm năng

Các doanh nghiệp SME có thể sử dụng bảo hiểm tín dụng thương mại để tránh được rủi ro này. Những chính sách bảo hiểm này bù đắp cho rủi ro vỡ nợ và các khách hàng không thanh toán, đặc biệt hữu ích trong trường hợp các khách hàng đặt mua số lượng lớn hàng hóa. Bằng cách bảo hiểm giao dịch, doanh nghiệp giảm đáng kể rủi ro nợ xấu. Những khoản nợ xấu này theo thời gian có thể trở thành mất trắng, vì vậy cần phải giải quyết loại rủi ro này. Cụ thể, bảo hiểm thương mại rất hữu ích khi giao dịch với khách hàng mới, chưa biết rõ độ đáng tin cậy thanh toán.

Các doanh nghiệp SME cũng nên cân nhắc các nguồn tài trợ thay thế. Một nguồn tài trợ có thể kể đến là bao thanh toán, các nhà đầu tư có thể tài trợ cho nhiều doanh nghiệp thông qua một nền tảng bao thanh toán đổi lại với một mức lãi suất có sự tương quan thấp với thị trường tài chính. Thậm chí những nền tảng này thường bao gồm cả bảo hiểm tín dụng thương mại.

Để nhận được vốn thông qua nền tảng bao thanh toán, doanh nghiệp đưa những khoản phải thu cho các nền tảng bao thanh toán, và nhận được nguồn vốn tương đương 80% giá trị hóa đơn. Một khi bên mua thanh toán cho nền tảng bao than toán, họ sẽ chuyển nốt phần vốn còn lại cho doanh nghiệp, sau khi đã trừ chi phí tài trợ.

3. Rủi ro thanh khoản

Rủi ro thanh khoản xảy ra khi tiền mặt mắc kẹt ở một công đoạn nào đó của hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp không có khả năng thanh toán nợ ngắn hạn.

Một minh họa đơn giản là khi một doanh nghiệp nhận được thông báo trước từ khách hàng sẽ đặt một số lượng hàng lớn, dẫn đến hàng tồn kho của một loại sản phẩm tăng lên. Đơn hàng sau đó bị hủy do khách hàng vỡ nợ khiến cho một lượng tiền mặt nhỏ bị kẹt dưới dạng hàng tồn kho chưa bán được. Cùng lúc đó, doanh nghiệp cần phải trả các khoản nợ ngắn hạn thì cách duy nhất để thoát khỏi tình thế này là bán sản phẩm ở một mức chiết khấu cao, gây ra thua lỗ.

Một ví dụ khác liên quan tới rủi ro tín dụng và làm giảm chuỗi tiền tệ cung ứng là nợ xấu sinh ra từ việc quản lý tín dụng yếu kém. Nếu doanh nghiệp có dòng tiền thấp và phụ thuộc vào khoản thanh toán từ khách hàng để trả nợ ngắn hạn, doanh nghiệp sẽ không có khả năng thanh toán, dẫn đến việc kinh doanh bị đặt và trạng thái nguy hiểm.

Những giải pháp quản lý rủi ro tiềm năng

Các hoạt động thâm dụng tiền mặt và hệ quả của chúng cần được cân nhắc 1 cách kĩ càng trước khi đưa ra quyết định. Doanh nghiệp phải tập quản lý dòng tiền một cách hợp lí và có tính chiến lược. Điều này sẽ ngăn giúp doanh nghiệp khỏi bị rơi vào những tình thế bất lợi, khó khăn để trả nợ ngắn hạn.

Theo dõi tình trạng thanh khoản của doanh nghiệp là bước đầu. Các công cụ như hệ số tài chính so sánh tài sản ngắn hạn với nợ phải trả ngắn hạn cần được đưa vào sử dụng và theo dõi thường xuyên.

4. Rủi ro hoạt động

Rủi ro hoạt động gắn liền với những mối đe dọa và nguy hiểm tiềm ẩn mà có thể xảy ra trong quá trình hoạt động kinh doanh. Nó liên quan tới các hoạt động thường ngày và sự thiết lập của các quy trình giúp doanh nghiệp có thể cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ. Các ngành khác nhau thì có rủi ro hoạt động khác nhau.

 Ví dụ, trong ngành công nghiệp sản xuất, công ty cần duy trì hoạt động hai máy móc nhưng lại chỉ có khả năng chọn một trong hai. Việc đưa ra quyết định phù hợp nhất vô cùng quan trong đối với việc duy trì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Trong các ngành khác, rủi ro lớn nhất có thể xem là rủi ro pháp lý, như là vô tình vi phạm bản quyền hoặc luật thương hiệu. Hơn nữa, sai sót trong hoạt động kế toán và thuế cũng được coi là rủi ro hoạt động.

Những giải pháp quản lý rủi ro tiềm năng

Các doanh nghiệp cần cởi mở trong việc tham khảo ý kiến từ các chuyên gia bên thứ 3 để giảm thiểu một vài rủi ro hoạt động. Cố vấn tài chính, thư ký công ty, luật sư là một vài những chuyên gia có thể giúp đỡ trong việc thương lượng. Ví dụ, dịch vụ tư vấn pháp lý sẽ rẻ hơn bị kiện.

Tập trung giảm thiểu rủi ro

Cơ sở căn bản thì rất đơn giản: Khi doanh nghiệp đối phó với rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản, họ nên bắt đầu với việc quản lý vốn lưu động và dòng tiền hợp lí. Tiền mặt là huyết mạch của doanh nghiệp và vô cùng quan trọng đối với các hình thức quản lý rủi ro khác.

Nếu một doanh nghiệp muốn có nguồn lực để đổi mới hay mở rộng thị trường sang nước ngoài, điều đầu tiên họ cần là đảm bảo nguồn tài chính cần thiết. Một doanh nghiệp có nguồn lực tiền tệ phù hợp sẽ bảo vệ bản thân tốt hơn khỏi rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động – họ có thể linh hoạt, duy trì tất cả máy móc cần thiết, mua số lượng bảo hiểm thích hợp và thuê các chuyên gia như luật sư hay kế toán viên, để đưa ra những lời khuyên và chỉ dẫn quan trọng.

Giới thiệu về cuốn sách này

Page 2

Giới thiệu về cuốn sách này

Giải pháp pháp luật về hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại

01/08/2011

ThS. NGUYỄN THỊ MAI HOA

Biên tập viên Báo Pháp luật Việt Nam.

Từ viết tắt In trang Gửi tới bạn

Lợi nhuận và rủi ro là hai vấn đề luôn song hành với nhau, lợi nhuận càng lớn thì rủi ro càng cao; đó là một nguyên tắc luôn đúng với hoạt động của mọi chủ thể kinh doanh, trong đó có ngân hàng thương mại [NHTM]. Phát triển hoạt động kinh doanh và hạn chế rủi ro là yêu cầu tối quan trọng đối với NHTM, đặc biệt trong hoạt động cho vay, chỉ khi hạn chế được rủi ro NHTM mới thực sự phát triển và tạo sự ổn định cho nền kinh tế.

Ảnh minh họa: nguồn internet

1. Thực trạng hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại

Hiện nay, ở Việt Nam nguồn vốn huy động được sử dụng để cấp tín dụng bao gồm: tiền gửi của cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn; tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức [trừ Kho bạc Nhà nước], bao gồm cả tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức tín dụng [TCTD] khác và chi nhánh ngân hàng nước ngoài; tiền vay của tổ chức trong nước [trừ Kho bạc, tiền vay của TCTD khác trong nước] và tiền vay của TCTD nước ngoài; vốn huy động từ tổ chức, cá nhân dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá. Nhưng theo Luật các TCTD năm 2010, Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các TCTD, nguồn vốn huy động để sử dụng cấp tín dụng không bao gồm: tiền gửi có kỳ hạn của Kho bạc, tiền vay của Kho bạc và các TCTD trong nước. Quy định không được sử dụng các nguồn vốn huy động của các đối tượng nói trên để cấp tín dụng là bất hợp lý vì theo Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam [VNBA], nguồn vốn huy động của các đối tượng trên chiếm từ 15% - 20% trong tổng số vốn huy động của các TCTD và đây là nguồn vốn có tính ổn định cao. NHTM chỉ được cấp tín dụng trên nguồn vốn huy động bằng 80%, còn lại 20% nguồn vốn huy động và 15% nguồn vốn huy động từ Kho bạc và TCTD trong nước dùng để đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng là quá cao và không hợp lý theo ý kiến của Hiệp hội ngân hàng Việt Nam gửi lên Thủ tướng Chính phủ

Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, năm 2002, tổng số nợ xấu của các NHTM và TCTD là hơn 20.000 tỷ đồng, chiếm 7,2% tổng dư nợ. Đến năm 2004, tổng nợ xấu giảm xuống còn trên 13.000 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ dưới 4%, thấp hơn tỷ lệ an toàn cho phép theo thông lệ quốc tế là 5%. Đến hết năm 2005, tổng tỷ lệ nợ xấu lại tăng lên con số 17.500 tỷ đồng, nhưng lại chỉ chiếm 3,18% tổng dư nợ, riêng khối NHTM nhà nước thì tỷ lệ này trên 5%. Đến tháng 9/2006, thực trạng nợ quá hạn của các NHTM và TCTD là bao nhiêu, chưa có con số công bố từ Ngân hàng Nhà nước, nhưng nhiều chuyên gia ngân hàng cho rằng, con số tuyệt đối là hơn 20.000 tỷ đồng, tỷ lệ này không biến đổi nhiều, vẫn dưới mức 5% do tổng dư nợ cho vay và đầu tư cũng tăng nhanh, nhưng không phải là đáng quan tâm. Song, một số chuyên gia của một số tổ chức tiền tệ quốc tế và chuyên gia NHTM trong nước cho rằng, tỷ lệ nợ xấu của NHTM thực tế luôn cao gấp khoảng hai lần số liệu do Ngân hàng Nhà nước công bố hiện nay đang ở mức 7- 8%, riêng các ngân hàng.

Năm 2010, Ngân hàng Nhà nước thông tin, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống Ngân hàng Việt Nam tính đến cuối năm 2010 vào khoảng 2,5%. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cũng cho biết, toàn bộ dư nợ của hệ thống ngân hàng đối với Tập đoàn Công nghiệp và Tàu thủy Việt Nam [Vinshin] chỉ dưới 26 nghìn tỷ đồng và hiện đang cơ cấu lại 16 nghìn tỷ đồng. Số này chưa đưa vào nợ xấu, và nếu tính vào cũng chỉ tăng 0,7%.

Tính đến tháng 6/2011, Ngân hàng Nhà nước thông báo nợ xấu toàn hệ thống ngân hàng hiện chiếm 2,72% tổng dư nợ, tăng 0,55% so với cuối năm 2010. Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cho rằng dù nợ xấu đang tăng từ mức 2,17% cuối năm 2010 lên 2,72% vào 10.6, nhưng mức tăng trên không nghiêm trọng. Riêng TP. Hồ Chí Minh, nợ xấu của các TCTD trên địa bàn TP.Hồ Chí Minh đến hết tháng 4/2011 ở mức 4,2% tổng dư nợ, tăng từ mức 3,9% của tháng 3/2011, trong đó các công ty cho thuê tài chính có nợ xấu lên đến 26,3%, nợ xấu của khối quốc doanh là 5,6% và cổ phần là 2,9%. Đây là thống kê của chi nhánh Ngân hàng Nhà nước thành phố được Cục Thống kê công bố lại. Tổng dư nợ đến cuối tháng 5-2011 của các ngân hàng ở thành phố là 748.900 tỉ đồng, tính ra nợ xấu tới 31.290 tỉ đồng, tương đương gần 1,52 tỉ đô la Mỹ. Với cả nước, con số tuyệt đối nợ xấu sẽ lớn hơn nhiều.

Hậu quả rủi ro trong hoạt động cho vay của NHTM tác động đến cả nền kinh tế - xã hội và các ngân hàng. Đối với ngân hàng, khi gặp rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được vốn đã cấp và lãi cho vay, ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi. Không thu được nợ thì vòng quay vốn tín dụng giảm làm ngân hàng kinh doanh không có hiệu quả. Khi gặp phải rủi ro tín dụng, ngân hàng thường rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, làm mất lòng tin của người gửi tiền, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Trong nội bộ ngân hàng, do gặp phải rủi ro tín dụng nên không có lương trả cho nhân viên vì thế những người có năng lực sẽ thuyên chuyển công tác, gây khó khăn cho ngân hàng.

2. Quy định về cấm cho vay và hạn chế cho vay

Thứ nhất, những trường hợp không được cấp tín dụng: Điều 126 Luật các TCTD năm 2010 quy định TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cấp tín dụng đối với những tổ chức, cá nhân sau đây: thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng thành viên, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc [Giám đốc], Phó Tổng giám đốc [Phó giám đốc] và các chức danh tương đương của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, pháp nhân là cổ đông có người đại diện phần vốn góp là thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát của TCTD là công ty cổ phần, pháp nhân là thành viên góp vốn, chủ sở hữu của TCTD là công ty trách nhiệm hữu hạn; cha, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng thành viên, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc [Giám đốc], Phó Tổng giám đốc [Phó giám đốc] và các chức danh tương đương. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô. TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cấp tín dụng cho khách hàng trên cơ sở bảo đảm của đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này. TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được bảo đảm dưới bất kỳ hình thức nào để TCTD khác cấp tín dụng cho đối tượng quy định tại Khoản 1 Điều này. TCTD không được cấp tín dụng cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán mà TCTD nắm quyền kiểm soát. TCTD không được cấp tín dụng trên cơ sở nhận bảo đảm bằng cổ phiếu của chính TCTD hoặc công ty con của TCTD. TCTD không được cho vay để góp vốn vào một TCTD khác trên cơ sở nhận tài sản bảo đảm bằng cổ phiếu của chính TCTD nhận vốn góp

Thứ hai, theo Luật các TCTD năm 2010, Thông tư số 19/2010/TT-NHNN ngày 27/9/2010 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 13 và các văn bản pháp luật của Ngân hàng Nhà nước thì pháp luật cấm cho vay và hạn chế cho vay đối với các cá nhân có liên quan trong quá trình cho vay hoặc có trách nhiệm chính trong hoạt động quản trị rủi ro tín dụng hoặc công ty chứng khoán trực thuộc TCTD. Quy định trên là hợp lý và có cơ sở. Bởi nếu pháp luật cho phép các đối tượng trên được vay vốn họ sẽ có quyền lực hoặc có khả năng tạo áp lực đối với người có quyền vì lợi ích riêng và có thể tạo ra giao dịch tư lợi hoặc để đầu tư vào lĩnh vực có nguy cơ rủi ro cao làm ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh của ngân hàng, gây rủi ro tín dụng.

Ngoài ra, pháp luật còn cấm cho vay đối với những trường hợp không đáp ứng được các điều kiện vay vốn. Ngân hàng không cấp tín dụng cho những khoản vay không đáp ứng đủ các điều kiện vay vốn như: mục đích sử dụng vốn vay là bất hợp pháp hoặc không có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả hoặc không có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định pháp luật chẳng hạn như đi vay trả nợ thuế…

Thứ ba, bên cạnh quy định về đối tượng bị cấm cho vay, pháp luật quy định các đối tượng hạn chế cấp tín dụng. Theo Điều 127 Luật các TCTD năm 2010, TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được cấp tín dụng không có bảo đảm, cấp tín dụng với điều kiện ưu đãi cho những đối tượng sau đây: tổ chức kiểm toán, kiểm toán viên đang kiểm toán tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; thanh tra viên đang thanh tra tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; kế toán trưởng của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; cổ đông lớn, cổ đông sáng lập; doanh nghiệp có một trong những đối tượng quy định tại Khoản 1 Điều 126 của Luật này sở hữu trên 10% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó; người thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng; các công ty con, công ty liên kết của TCTD hoặc doanh nghiệp mà TCTD nắm quyền kiểm soát. Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với các đối tượng quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 1 Điều này không được vượt quá 5% vốn tự có của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Việc cấp tín dụng đối với những đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này phải được Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên của TCTD thông qua và công khai trong TCTD. Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một đối tượng quy định tại điểm e khoản 1 Điều này không được vượt quá 10% vốn tự có của TCTD; đối với tất cả các đối tượng quy định tại điểm e khoản 1 Điều này không được vượt quá 20% vốn tự có của TCTD…. Những quy định này nhằm hạn chế sự ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ của ngân hàng. Ngoài ra, hiện nay các NHTM hạn chế vay đối với kinh doanh chứng khoán và bất động sản do hai lĩnh vực này hệ số rủi ro là 250%.

3. Giải pháp pháp luật hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại

Các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của NHTM thường chi tiết hóa trong Quy chế hoạt động cũng như Điều lệ hoạt động. Các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay cụ thể bao gồm:

Thứ nhất, tuân thủ các quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt động của NHTM. Các quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt động của các TCTD bao gồm tổng thể các quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, giới hạn cho vay, tỷ lệ khả năng chi trả, tỷ lệ cấp tín dụng. Đây là một trong những biện pháp hạn chế rủi ro có ý nghĩa rất quan trọng không những bảo đảm an toàn trong hoạt động của từng NHTM, mà còn đảm bảo an toàn hệ thống thanh toán, nâng cao sức cạnh tranh của các NHTM trong nước, góp phần phát triển kinh tế- xã hội. Đó cũng là điều kiện cần để hệ thống ngân hàng Việt Nam thực hiện lộ trình cam kết gia nhập WTO về mở cửa thị trường tài chính. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu được tính theo tỷ lệ % của tổng vốn cấp một và vốn cấp hai so với tổng tài sản đã điều chỉnh rủi ro của ngân hàng. Tỷ lệ này không những được dùng để xác định khả năng tài chính của ngân hàng trong việc thanh toán các khoản nợ có thời hạn mà còn là thước đo dùng để bảo vệ người gửi tiền trước những rủi ro của ngân hàng và tăng tính ổn định và hiệu quả của hệ thống tài chính. Xuất phát từ ý nghĩa đó, NHNN yêu cầu các NHTM phải duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 9%. Giới hạn cho vay của ngân hàng đối với một nhóm khách hàng có liên quan không vượt quá 50% vốn tự có của ngân hàng. Giới hạn cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ của ngân hàng.

Thứ hai, cấm cho vay hoặc hạn chế cho vay đối với các cá nhân có liên quan đến quá trình cho vay hoặc những người có trách nhiệm chính trong hoạt động quản trị của NHTM. Song hành, ngân hàng cũng hạn chế cho vay đối với một số lĩnh vực đầu tư nhất định mà ngân hàng đánh giá có nguy cơ rủi ro cao và khả năng rủi ro đối với khách hàng là điều khó tránh khỏi.

Thứ ba, sử dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay. Đảm bảo tiền vay là một trong những công cụ quan trọng để hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay. Các biện pháp bảo đảm tiền vay hữu hiệu chính là sử dụng tài sản thế chấp, cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Trong trường hợp khách hàng không hoàn trả được vốn vay và lãi, ngân hàng có thể bán tài sản bảo đảm bù đắp cho các tổn thất của mình do món vay gây lên. Ngoài ra, ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng mình và gửi một khoản vay tối thiểu bằng, chẳng hạn bằng 10% giá trị của món vay để dự phòng. Bằng cách này ngân hàng có thể giám sát đối với người đi vay một cách có hiệu quả hơn, đồng thời giúp tăng cường khả năng hoàn trả. Trong trường hợp người vay vỡ nợ, ngân hàng lấy phần đó để bù đắp một phần món vay bị tổn thất trong quá trình cho vay.

Thứ tư, phân loại nợ và trích lập dự phòng: khách hàng là người sử dụng sản phẩm của ngân hàng và quyết định thành công trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Để hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay, ngân hàng lựa chọn những khách hàng vay có triển vọng tốt ra khỏi những khách hàng vay có tiềm ẩn xấu. Ngân hàng sàng lọc khách hàng bằng cách tập hợp các thông tin tin cậy về khách hàng hay bên có nghĩa vụ thanh toán nợ. Trên cơ sở các thông tin thu thập được tiến hành tính điểm tín dụng, đánh giá xếp loại khách hàng có triển vọng tốt hay xấu để quyết định việc cấp tín dụng. Đồng thời, lập quỹ dự phòng rủi ro được coi là một trong những biện pháp quan trọng để tăng khả năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng, giúp ngân hàng có thể ổn định và phát triển được hoạt động kinh doanh trong trường hợp rủi ro xảy ra.

Thứ năm, nên thành lập phòng pháp chế của NHTM cổ phần theo hướng chuyên nghiệp. Tùy theo cách thức tổ chức, điều hành của Ban Tổng Giám đốc của từng ngân hàng mà cơ cấu của Phòng Pháp chế có thể sẽ bao gồm Trưởng phòng, giúp việc cho trưởng phòng là phó trưởng phòng và các chuyên viên, chịu sự quản lý và điều hành trực tiếp của Ban Tổng Giám đốc. Bộ máy của Phòng Pháp chế thường gồm có: tổ tổng hợp và tư vấn, tổ xử lý nợ, tổ pháp lý chứng từ và tổ quản lý đầu tư… Nhiệm vụ cụ thể của các tổ do Trưởng Phòng Pháp chế quy định. Nhiệm vụ và quyền hạn của trưởng phòng pháp chế bao gồm việc tổ chức thực hiện và chịu trách nhiệm trước Ban tổng giám đốc Ngân hàng về mọi mặt công tác của phòng; quyết định chương trình, kế hoạch công tác và tổ chức quản lý việc thực hiện nhiệm vụ của phòng; quản lý, phân công nhiệm vụ cho cán bộ trong phòng. Đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, nâng lương, khen thưởng, kỷ luật, tuyển dụng và bồi dưỡng cán bộ theo thẩm quyền đã được phân cấp; tham gia các cuộc họp do Ban Tổng Giám đốc triệu tập; ký thừa lệnh tổng giám đốc NHTM trên các văn bản hành chính theo thẩm quyền. Phó trưởng phòng có nhiệm vụ giúp trưởng phòng chỉ đạo điều hành một số mặt công tác của phòng theo phân công của Trưởng phòng và chịu trách nhiệm trước trưởng phòng về nhiệm vụ được phân công, ký thay trưởng phòng trên các văn bản hành chính theo sự phân công của trưởng phòng. Khi trưởng phòng vắng mặt, Phó trưởng phòng được uỷ quyền điều hành công tác của phòng, chịu trách nhiệm về kết quả những công việc đã giải quyết và báo cáo lại khi trưởng phòng có mặt; tham gia ý kiến với trưởng phòng về tổ chức, hoạt động của phòng theo nguyên tắc tập trung dân chủ và chế độ thủ trưởng.

Tóm lại, rủi ro trong hoạt động cho vay của một ngân hàng xảy ra ở một mức độ khác nhau: nhiều nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất khi ngân hàng không thu hồi được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy, các nhà quản lý ngân hàng nên cẩn trọng và tỉnh táo trước khi quyết định cho vay.

[Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 16[201], tháng 8/2011]

Video liên quan

Chủ Đề