Hiện tượng lạm phát do chi phí đẩy sẽ dịu đi nếu phần ứng chính sách làm cho

Nỗi lo lạm phát đang quay lại trên toàn cầu. Ở Mỹ và liên minh châu Âu [EU], chỉ số giá tiêu dùng [CPI] đã tiến sát 8%, mức cao nhất 40 năm qua. Doanh nghiệp đang gồng mình chống lại ảnh hưởng của giá nguyên liệu đầu vào sản xuất và dịch vụ tăng cao. Người tiêu dùng cũng phải đối mặt với áp lực tăng giá từ giá nhà, năng lượng, giao thông, tới thực phẩm thiết yếu. Với nhiều người Việt Nam, nỗi sợ lạm phát cao vẫn rất hiện hữu.

Trong ba thập niên trở lại đây, Việt Nam chứng kiến những đợt lạm phát phi mã, đẩy lãi suất tăng vọt, khiến người dân và doanh nghiệp lâm vào cảnh khó khăn. Bởi vậy, nỗi lo bóng ma lạm phát quay lại vẫn luôn thường trực trong tiềm thức. Tuy vậy, chúng ta cần nhìn nhận khách quan các lý do của lạm phát lần này để có đánh giá đúng về rủi ro lạm phát cao với kinh tế Việt Nam.

Lạm phát tăng đang là hiện tượng toàn cầu, nhưng mức độ rất khác nhau giữa các khu vực và quốc gia trên thế giới. Ở các nước có mức độ in tiền rất lớn [Mỹ] và chịu tác động mạnh nhất từ cuộc chiến tại Ukraine [EU, Nga], hay các nước đang gặp khủng hoảng kinh tế [Brazil, Argentina…], lạm phát đang tăng mạnh và lên mức kỷ lục. Nhưng bức tranh lạm phát bớt gay gắt hơn ở phần còn lại của thế giới. Tại châu Á, lạm phát đang ổn định, thậm chí ở mức thấp như tại Nhật [0,9%], Trung Quốc [0,9%], Indonesia [2,1%], hay Việt Nam [2,4%].

Lạm phát do chi phí đẩy đang ở mức kỷ lục

Trong nhiều thập niên gần đây, quá trình hợp tác và phát triển theo xu hướng toàn cầu hóa đã giúp hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hóa, dịch vụ ngày một hiệu quả, góp phần giảm chi phí và kéo giảm lạm phát trên toàn cầu. Nhưng đại dịch COVID-19 và những xung đột địa chính trị gần đây đã làm thay đổi tất cả, khiến cỗ máy kinh tế toàn cầu không còn vận hành hiệu quả như trước.

Ông Lê Chí Phúc, CEO SGI Capital.

Sự đứt gãy các chuỗi cung ứng đã xảy ra trên diện rộng ở tất cả các công đoạn từ sản xuất, phân phối tới tiêu dùng. Tắc nghẽn và thiếu hụt nguồn cung nghiêm trọng xảy ra ở nhiều loại hàng hóa và dịch vụ khác nhau, khiến chi phí sản xuất và phân phối tăng cao. Lạm phát do chi phí đẩy đã và đang xảy ra trên toàn cầu ở mức độ nghiêm trọng nhất trong nhiều năm.

Tin vui là lạm phát do chi phí đẩy thường không duy trì lâu bởi kinh tế thị trường luôn có khả năng tự thích nghi và cân bằng. Chính sự thiếu hụt nguồn cung, giá cả tăng cao sẽ khiến nhu cầu co lại. Ở phía cung, biên lợi nhuận lớn đồng thời sẽ kích thích đầu tư mở rộng công suất để đáp ứng sự thiếu hụt và đưa cung cầu về cân bằng.

Ví dụ cụ thể, khi giá dầu tăng quá cao, chi phí vận tải và năng lượng tăng cũng làm giảm cầu và kích thích việc tìm tới các nguồn năng lượng thay thế có chi phí hợp lý hơn. Giá cao cũng khiến nhiều mỏ dầu có lãi và khả thi để khai thác. Nhiều nước gần đây đã lên kế hoạch cho việc mở rộng nguồn cung dầu mới. Thị trường nhờ đó sẽ sớm đạt điểm cân bằng và vượt qua các cú sốc nguồn cung ngắn hạn. Hợp đồng tương lai dầu Brent kỳ hạn 12 và 24 tháng hiện đang giao dịch ở mức giá 95 và 87 đô la Mỹ/thùng.

Khảo sát gần đây với nhiều loại hàng hóa và dịch vụ khác cho thấy áp lực lên giá cả từ việc tắc nghẽn chuỗi cung ứng toàn cầu đã đạt mức cực đại và bắt đầu có xu hướng giảm khi nguồn cung dần nối lại. Mức biên lợi nhuận cao kỷ lục của nhiều doanh nghiệp hưởng lợi từ sự tăng giá đầu ra đang kích thích các kế hoạch đầu tư mở rộng công suất. Nhìn rộng hơn, đa số hàng hóa từ dầu mỏ, sắt thép, vật liệu cơ bản và nông sản… đều có tính chu kỳ rất cao và thế giới luôn đi giữa hai trạng thái thiếu hụt và dư thừa. Giá cả sau khi đạt đỉnh cao sẽ lại đi vào chu kỳ suy giảm.

Trên góc độ toàn cầu, lạm phát từ chi phí đẩy do đó cũng đang dần đi qua giai đoạn căng thẳng nhất. Với nền giá cao của nhiều hàng hóa và dịch vụ, khả năng tăng giá tiếp sẽ ngày càng hạn chế khi chuỗi cung ứng dần phục hồi và những nguồn cung mới xuất hiện.

Đối với từng quốc gia, khả năng tự chủ nguồn cung của các loại hàng hóa, dịch vụ quan trọng cũng sẽ quyết định áp lực lạm phát lớn tới đâu. Việt Nam có thế mạnh là khả năng tự chủ sản xuất và xuất khẩu nhiều loại hàng hóa, nông sản và lương thực cơ bản, chiếm trọng số lớn trong rổ tính CPI. Vì thế, tác động của đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu lên chỉ số lạm phát của Việt Nam là thấp hơn các quốc gia phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu.

Lạm phát do cầu kéo lại đang làm bức tranh phân hóa

Khi cung tiền tăng mạnh, kinh tế tăng trưởng nóng, nhu cầu tăng nhanh vượt xa nguồn cung sẽ kéo giá cả tăng vọt. Đối phó với rủi ro này đòi hỏi các ngân hàng trung ương phải mạnh tay thắt chặt chính sách tiền tệ để kiềm hãm đà tăng trưởng. Hai kỳ lạm phát cao gần đây của Việt Nam vào năm 2008 và 2011 đều do nguyên nhân này.

Ví dụ điển hình nhất của lạm phát do cầu kéo hiện nay trên thế giới chính là nước Mỹ. Để chống lại sự tàn phá chưa từng có của đại dịch, cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ [Fed] và chính phủ nước này đã tung ra những gói kích thích tiền tệ và tài khóa lớn kỷ lục. Cung tiền M2 của Mỹ trong hai năm 2020-2021 là hơn 40%, bảng cân đối tài sản của Fed tăng hơn gấp đôi, lên chín ngàn tỉ đô la Mỹ. Kết quả là kinh tế Mỹ phục hồi rất nhanh về mức trước đại dịch, tỉ lệ thất nghiệp giảm còn 3,6%.

Nền kinh tế Mỹ đang phải chịu đồng thời cả hai áp lực của lạm phát là chi phí đẩy và cầu kéo khiến lạm phát tăng lên mức kỷ lục 40 năm. Đối phó với rủi ro này, Fed đã tuyên chiến với lạm phát bằng việc nâng lãi suất điều hành và chuẩn bị cho lộ trình thu hẹp bảng cân đối tài sản từ giữa năm nay. Khi nhà điều hành thay đổi chính sách, lạm phát sẽ hạ nhiệt tại Mỹ.

Tuy vậy, sự phục hồi kinh tế thế giới hiện không đồng pha. Nhiều nước châu Á vẫn đang ở giai đoạn tăng trưởng chậm như Nhật Bản, Trung Quốc, Indonesia… đồng thời chứng kiến mức lạm phát thấp và ổn định. Đây cũng là các quốc gia đang duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng, ngược với Fed. Rủi ro lạm phát do cầu kéo đang và sẽ rất khác nhau giữa các quốc gia, phụ thuộc vào vị trí của mỗi nước trong chu kỳ tăng trưởng kinh tế. Từ đó, chính sách điều hành ở mỗi quốc gia cũng thay đổi phù hợp với bối cảnh riêng.

Tương quan giữa tăng trưởng dân số và lạm phát trong dài hạn

Quan sát chặng đường các nền kinh tế lớn đã đi qua như Nhật Bản, EU, Hàn Quốc, Trung Quốc, giai đoạn lạm phát cao nhất luôn gắn liền với giai đoạn dân số tăng trưởng mạnh nhất. Lý do của tương quan này là dân số tăng nhanh giúp lực lượng lao động gia tăng, nhu cầu chi tiêu, tín dụng, đầu tư… đều tăng trưởng mạnh khiến cho động lực cầu kéo luôn mạnh mẽ. Ngược lại, khi các quốc gia chứng kiến dân số tăng trưởng chậm lại và già hóa, quá trình đảo ngược diễn ra với nhu cầu đầu tư và tiêu dùng tụt giảm, kéo giảm đà tăng của giá.

Trước khi đại dịch COVID-19 diễn ra khiến lưu thông hàng hóa tắc nghẽn và giá cả tăng cao, thế giới đang chứng kiến sự già hóa ở hầu hết các nền kinh tế lớn. Lạm phát và lãi suất giảm dần trong suốt hơn 30 năm. Áp lực già hóa và giảm đầu tư tiêu dùng vẫn ở đó. Khi bất ổn nguồn cung được khắc phục, có thể thế giới lại đi tiếp con đường dài của giảm tăng trưởng, giảm lãi suất và giảm lạm phát.

Lạm phát tại Việt Nam

Dù chịu áp lực tăng giá của nhiều loại hàng hóa, lạm phát tại Việt Nam hiện vẫn ở mức 2,4% so với cùng kỳ, thuộc nhóm những quốc gia có lạm phát thấp và ổn định nhất thế giới. Trên góc độ của cả hai động lực cầu kéo và chi phí đẩy, Việt Nam vẫn đang kiểm soát tốt các thành tố tạo nên lạm phát.

Với năng lực tự chủ trong sản xuất nhiều loại hàng hóa, thực phẩm và hàng tiêu dùng thiết yếu, Việt Nam có khả năng chống chịu tốt với các cú sốc về nguồn cung. Trên thị trường quốc tế, sự tắc nghẽn các chuỗi cung ứng bắt đầu dịu bớt, giá cả nhiều loại hàng hóa đã ổn định và bắt đầu giảm 10%-20% sau cú sốc từ xung đột Nga – Ukraine. Đồng thời, quan điểm điều hành chính sách tiền tệ và tài khóa của Chính phủ nhiều năm qua luôn tập trung vào ổn định vĩ mô, tránh rủi ro cung tiền tăng quá nóng, sẽ tiếp tục giúp kiềm chế áp lực lạm phát do cầu kéo ngay cả khi kinh tế Việt Nam đã phục hồi.

Rủi ro lạm phát cao được nhắc tới gần đây có lẽ đến từ những ám ảnh quá khứ nhiều hơn là căn cứ khoa học thuyết phục. Chính nỗi sợ sâu sắc ấy giúp chúng ta có sự thận trọng cần thiết, góp phần giảm rủi ro lạm phát cao. Việt Nam đang có nền tảng vĩ mô ổn định và vững vàng nhất kể từ khi mở cửa hội nhập. Thay vì quá lo lắng đề phòng lạm phát cao, chúng ta nên tập trung vào đầu tư và sản xuất kinh doanh, tận dụng thật tốt cơ hội của một Việt Nam đang chuyển mình mạnh mẽ.

———————————

Bài viết cho tạp chí Forbes Việt Nam số 104, tháng 4.2022

Trong kinh tế học, lạm phát là một hiện tượng chỉ sự tăng mức giá chung của nền kinh tế làm mất đi giá trị thị trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Đơn giản hơn, lạm phát là sự tăng mức giá chung một cách liên tục của hầu hết các loại hàng hóa và dịch vụ thông thường theo thời gian chẳng hạn như thực phẩm, quần áo, phương tiện giao thông… Đồng thời làm mất giá trị của một loại tiền tệ nào đó. Khi mức giá chung tăng cao, một đơn vị tiền tệ sẽ mua được ít hàng hóa và dịch vụ hơn so với trước đây, do đó nó phản ánh sự suy giảm sức mua trên một đơn vị tiền tệ.

2. Một số khái niệm khác liên quan

Song hành với lạm phát còn có một số thuật ngữ liên quan đến chủ đề này được hầu hết các nhà kinh tế hiện nay đều sử dụng.

  • Giảm phát – là sự sụt giảm trong mức giá chung trong một khoảng thời gian nhất định.
  • Thiểu phát – là tỷ lệ lạm phát rất nhỏ.
  • Siêu lạm phát – là một vòng xoáy ngoài tầm kiểm soát.
  • Tình trạng lạm phát – là một sự kết hợp của nhiều vấn đề. Tăng trưởng kinh tế chậm và thất nghiệp cao.
  • Tái lạm phát – là một sự nỗ lực nâng cao mức giá chung để chống lại áp lực giảm phát.

3. Nguyên nhân gây ra lạm phát

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát. Dưới đây là một số nguyên nhân dãn đến tình trạng này.

3.1. Lạm phát do cầu kéo

Khi một mặt hàng nào đó trong thị trường có nhu cầu tăng cao kéo theo giá cả của mặt hàng đó tăng lên. Đồng thời, dẫn đến giá cả của hàng loạt hàng hóa khác cũng “leo thang”. Như vậy, giá trị của đồng tiền cũng trở nên mất giá, bạn phải dùng nhiều tiền hơn để mua hàng hóa.

Ví dụ như đến Tết, nhu cầu hàng hóa của người tiêu dùng tăng lên khiến giá cả nhiều loại hàng hóa tăng lên.

3.2. Lạm phát do chi phí đẩy

Chi phí đẩy bao gồm tiền lương công nhân viên, tiền máy móc thiết bị, thuế suất, giá cả nguyên vật liệu đầu vào…. Khi những chi phí này tăng lên sẽ làm tổng chi phí sản xuất của các doanh nghiệp chắc chắn cũng tăng lên. Điều này sẽ thúc đẩy doanh nghiệp tăng giá sản phẩm bán ra thị trường nhằm bảo toàn lợi nhuận. Như thế là mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng sẽ tăng.

3.3. Lạm phát do cơ cấu

Đây là vấn đề xuất phát từ các doanh nghiệp mà ra. Từ một doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả muốn nâng tiền lương cho nhân viên, sẽ kéo theo các doanh nghiệp khác tăng theo dù không biết kinh doanh có đạt doanh thu hay không. Bởi, họ sử dụng cách tăng giá sản phẩm trên thị trường để đảm bảo mức lợi nhuận, từ đó phát sinh lạm phát.

3.4. Lạm phát do cầu thay đổi

Khi thị trường đang giảm nhu cầu tiêu thụ về một mặt hàng nào đó [chủ yếu là mặt hàng được cung cấp độc quyền như điện, nước tại Việt Nam]. Từ đó sẽ dẫn đến lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên thì giá cũng sẽ tăng lên. Tuy nhiên, mặt hàng có lượng cầu giảm sẽ không giảm giá mà vẫn tăng lên. Đồng thời dẫn đến vài mặt hàng khác cũng tăng theo. Kết quả là mức giá chung tăng lên, dẫn đến lạm phát.

3.5. Lạm phát do xuất khẩu

Đây là hiện tượng xảy ra do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng. Tổng cầu từ trong nước lẫn nước ngoài khiến tổng cung không đủ để cung ứng.  Trong khi đó sản phẩm được thu gom cho xuất khẩu khiến lượng hàng cung cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung trong nước càng thấp hơn. Khi đó, các sản phẩm thiếu hụt này sẽ bị đẩy giá cả lên gây ra lạm phát.

3.6. Lạm phát do nhập khẩu

Khi hàng hóa nhập khẩu tăng do thuế hoặc giá cả trên thế giới, khiến giá bán ra trong nước cũng tăng theo. Khi mức giá chung bị giá cả của nhập khẩu đội lên sẽ hình thành lạm phát.

3.7. Lạm phát tiền tệ

Khi lượng cung tiền lưu hành trong nước tăng, chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi mất giá so với ngoại tệ.

Hay do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát.

4. Các mức độ của lạm phát

Có 3 mức độ:

  • Lạm phát tự nhiên: 0 – dưới 10%
  • Lạm phát phi mã: 10% đến dưới 1000%
  • Siêu lạm phát: trên 1000%

Trên thực tế, các quốc gia chỉ kỳ vọng chỉ xảy ra khoảng 5% trở xuống là con số lý tưởng. Chẳng hạn như một quốc gia tăng trưởng 7-10%/ năm thì tiền mất giá khoảng 10% là vừa tầm. Tính ra quốc gia đó có phần trăm tăng trưởng dương thực sự.

Từng là quốc gia có thu nhập đầu người cao nhất tại Nam Mỹ, Venezuela đã phải đối mặt với tình trạng siêu lạm phát lên đến 1.000.000% vào năm 2018. Người dân Venezuela dùng bao tải hoặc thùng lớn thay vì dung ví để mua thực phẩm hằng ngày. Thậm chí, để đỡ mất thời gian, nhiều người còn cân thay vì đếm tiền. Đồng nội tệ bolivar của Venezuela khi đó gần như mất giá hoàn toàn như siêu lạm phát từng xảy ra ở Đức năm 1923 với tỷ lệ 10.000.000.000% và ở Bolivia năm 1985 với 50.000%.

5. Lạm phát được đo lường như thế nào?

Tỷ lệ lạm phát được đo lường bằng mức độ thay đổi giá cả của một lượng lớn các hàng hóa dịch vụ trong một nền kinh tế. Tuy vậy,  các mức thay đổi giá của từng loại mặt hàng hóa khác nhau sẽ khác nhau. Do đó, cần phải xây dựng một chỉ số giá cả trung bình, là mức giá trung bình của một tập hợp các loại hàng hóa và dịch vụ hiện có trong nền kinh tế. Tỷ lệ lạmphát là tỷ lệ phần trăm mức tăng của chỉ số này.

Hiện nay không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất cho chỉ số lạm phát. Giá trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số. Cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện.

Thông thường thước đo lạm phát phổ biến nhất được các nhà phân tích sử dụng chính là chỉ số giá tiêu dùng CPI [consumer price index]. Đây là chỉ số đo giá cả của một số lượng lớn các loại hàng hóa và dịch vụ. Bao gồm các hàng hóa dịch vụ thiết yếu như lương thực, thực phẩm, dịch vụ y tế…

Ngoài ra ở Mỹ còn sử dụng chỉ số tiêu dùng cá nhân [Personal Consumption Expenditures – PCE] để đo lường tỷ lệ lạm phát. Sự khác biệt của chỉ số PCE so với CPI là danh mục rổ hàng hóa trong tính toán sẽ được thay đổi sau một thời gian khảo sát. Điều này khắc phục được nhiều nhược điểm của chỉ số CPI bởi tỷ lệ chỉ tiêu cho thấy các mặt hàng luôn luôn thay đổi theo thời gian cũng như nhiều mặt hàng trong rổ hàng hóa trước đó có thể bị lỗi thời.

6. Tác động của lạm phát đối với nền kinh tế như thế nào?

Bất kể một cái gì cũng có tác động bởi hai mặt tích cực và tiêu cực, lạm phát cũng vậy.

6.1.  Về mặt tích cực

Mặc dù lạm phát thường rất có hại, nhưng nó có thể có một số lợi ích tích cực.

Thứ nhất: ở mức độ nhẹ [khoảng từ 2% – 10%] sẽ kích thích nền kinh tế của một quốc gia như sử dụng tín dụng cho tiêu dung thì sẽ có nhiều tiền hơn trong lưu thông. Từ đó kích cầu giúp thúc đẩy sản xuất, giảm thất nghiệp, và đưa nhiều tiền hơn vào hoạt động kinh tế trên tổng thể.

Thứ hai: giúp chống lại một mối nguy hiểm đối với nền kinh tế được gọi là “Nghịch lý của tiết kiệm”. Khi mọi người đều dồn tiền đi gửi tiết kiệm ngân hàng thay vì mua sắm khi giá giảm trong thời kỳ giảm phát.  Lúc này, lạm phát hoạt động theo cách ngược lại của giảm phát – nó nhắc nhở người tiêu dùng nên nhanh chóng mua hàng hóa và dịch vụ trước khi giá của chúng tăng thêm.

6.2. Về mặt tiêu cực

Thực dễ hiểu khi lạm phát là mối quan tâm hàng đầu của các nhà kinh tế và quan chức chính phủ do mặt tiêu cực của nó ảnh hưởng đến nền kinh tế lớn hơn nhiều so với những lợi ích mà nó mang lại.

Thứ nhất: tác động trực tiếp đến cuộc sống sinh hoạt của người dân đặc biệt là những đối tượng dễ bị tổn thương nhất trong một quốc gia. Sự gia tăng về giá cả của các mặt hàng trên thị trường khiến đồng tiền mất giá, từ đó dẫn đến nhiều khó khăn cho đời sống kinh tế, an sinh và xã hội.

Thứ hai: giảm thu nhập thực của tầng lớp lao động đồng thời gia tăng tỷ lệ thất nghiệp.

Thứ ba: Làm cho lãi suất tăng lên nhưng làm giảm giá trị tiết kiệm.

Thứ tư: bị các tổ chức cho vay nước ngoài xa lánh, thậm chí “cô lập”. Để giải quyết vấn đề đến, chính phủ phải nhờ cứu trợ tài chính từ các tổ chức cho vay nước ngoài. Nếu như quốc gia đó không cải cách thực trạng kinh tế khi đó sẽ xảy ra tình trạng chính phủ vỡ nợ, tham nhũng diễn ra và trạng thái của nền kinh tế sẽ càng tồi tệ hơn. Khi đó, không ai muốn giao dịch với quốc gia này.

7. Cách kiểm soát lạm phát

Hiện nay, có nhiều phương pháp và chính sách đã và đang được sử dụng để kiểm soát lạm phát hiệu quả. Dựa trên tình hình thực tế, có các hướng chủ yếu như sau:

  • Giảm lượng tiền giấy đang lưu thông hiện tại như phát hành trái phiếu, tăng lãi suất tiền gửi,… Đây là cách làm giảm lạm phát trong thời gian ngắn nhất.
  • Thắt chặt chính sách tài khóa bằng cách cân đối ngân sách nhà nước, cắt giảm chi tiêu đầu tư công và tạm hoãn các khoản chưa cần thiết.
  • Tăng quỹ hàng hóa cung cấp trong thị tường để cân đối với số lượng tiền lưu thông. Chẳng hạn như đưa đưa ra nhiều chính sách ưu đãi tín dụng, ưu đãi lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp sản xuất, thúc đẩy tăng năng suất lao động. Giảm các loại thuế suất giúp làm giảm bớt chi phí đẩy, tăng năng suất lao động, hạn chế nâng giá cả sản phẩm ra thị trường.
  • Đi vay/ nhận viện trợ từ nước ngoài.
  • Cải cách tiền tệ.

8. Lạm phát ở Việt Nam.

Bất kể một quốc gia trong bất kỳ giai đoạn nào trong nền kinh tế cũng đều xuất hiện lạm phát. Tuy nhiên, tỷ lệ ấy ở mức tự nhiên dưới 10% vẫn là con số có thể chấp nhận được.

Lạm phát ở Việt Nam điển hình nhất vào tháng 12 năm 2007. Do tác động của tình hình phát triển kinh tế chung của hội nhập khu vực và thế giới đã khiến lạm phát của Việt Nam tăng cao ở mức hai con số 12,63%. Nếu so sánh với mức của một số nước trong khu vực và trên thế giới trong thời điểm đó như Trung Quốc: 6,5%; Indonesia: 6,59%; Mỹ: 4,08%, Thái Lan: 3,21%, Khu vực đồng Euro: 3,07%, Nhật Bản: 0,7% thì lạmphát của Việt Nam có phần cao hơn. Đây là mức tăng cao trong vòng 12 năm [1995-2007] kể từ khi lạm phát luôn được kiểm soát ở một con số.

Chính phủ đã kịp thời đưa ra cả gói 8 giải pháp để kiềm chế lạm phát trong lúc bấy giờ. Sau đó, có thể nói tình hình đã có phần dịu đi nhưng nền kinh tế vẫn chưa ổn định, giá cả vẫn ở mức cao và chưa trở về mức khi chưa có lạmphát.

Đến nay, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam luôn giữ ở mức ổn định. Tuy nhiên, với sự phát kinh tế ngày càng nhanh của thế giới. Đồng thời giá cả hàng hóa toàn cầu đang tăng cao sau khi dịch Covid-19 xảy ra khiến nhiều nhà chức trách trên thế giới lo ngại về lạm phát phát sinh. Việt Nam cũng không ngoại lệ. Chính phủ luôn phải có những kế hoạch cũng như phương án, chính sách để ngăn chặn kịp thời khi có dấu hiệu xuất hiện lạm phát.

Video liên quan

Chủ Đề