Luận văn về nhân cách người phạm tội

Mục lục bài viết

  • 1. Sơ lược lịch sử phát triển của tâm lý học tội phạm
  • 2. Khái niệm nhân cách người phạm tội
  • 3. Cấu trúc nhân cách người phạm tội
  • 3.1. Xu hướng của người phạm tội
  • 3.2. Năng lực của người phạm tội
  • 3.3. Tình cảm và ý chí của người phạm tội
  • 3.4. Tính cách của người phạm tội
  • 3.5. Khí chất của người phạm tội
  • 4. Các kiểu nhân cách người phạm tội
  • 5. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách người phạm tội
  • 5.1. Các yếu tố bẩm sinh di truyền
  • 5.2. Các yếu tố xã hội
  • 4.3. Những thiếu sót trong quá trình xã hội hóa cá nhân

1. Sơ lược lịch sử phát triển của tâm lý học tội phạm

– Ra đời từ cuối thế kỷ 19, phát triển mạnh nhất ở phương Tây

– Tâm lý học tội phạm được ứng dụng rộng rãi trong công tác phòng ngừa, phát hiện và điều tra, xử lý tội phạm nhằm giữ vững an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội

–Khái niệm: tâm lý học tội phạm là khoa học nghiên cứu những hiện tượng tâm lý nảy sinh trong quá trình hoạt động phạm tội của các tội phạm nhằm phòng ngừa, phát hiện, và đấu tranh chống tội phạm, góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.

2. Khái niệm nhân cách người phạm tội

– Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của 1 con người biểu hiện ở bản sắc và giá trị xã hội của người đó.

– Nhân cách người phạm tội là tổ hợp các phẩm chất, các thuộc tính tâm lý cá nhân thể hiện xu hướng chống đối xã hội và thái độ tiêu cực đối với các lợi ích, các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ, luôn lựa chọn ý đồ và thực hiện hành vi phạm tội.

– Những khiếm khuyết trong nhân cách của người phạm tội có thể là hậu quả của quá trình chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố xã hội tiêu cực, của quá trình tham gia vào các nhóm, các quan hệ xã hội không lành mạnh, nhưng đồng thời cũng là hệ quả tất yếu của sự buông lỏng, không chịu rèn luyện bản thân của cá nhân.

3. Cấu trúc nhân cách người phạm tội

3.1. Xu hướng của người phạm tội

– Xu hướng nói lên chiều hướng phát triển của nhân cách. Theo đó nhân cách phát triển từ đâu, theo chiều hướng nào.

– Người phạm tội hướng tới những lợi ích mà những lợi ích đó đối lập với lợi ích xã hội, xâm phạm tới lợi ích chính đáng và hợp pháp của người khác

– Xu hướng bao gồm: nhu cầu, hứng thú, lý tưởng, thế giới quan, niềm tin.

– Một đặc trưng cơ bản trong nhân cách của người phạm tội thiếu sự cân bằng giữa các loại nhu cầu và hứng thú. Trong đó nhu cầu và hứng thú vật chất cao hơn, chiếm ưu thế hơn so với nhu cầu tinh thần và nhu cầu xã hội. ==> đặc trưng này là biểu hiện của sự suy thoái nhân cách ở người phạm tội. VD vì tiền hay vì các nhu cầu thấp hèn mà người phạm tội có thể dùng mọi thủ đoạn như dụ dỗ, đâm chém, giết, …

– Cội nguồn của hành vi phạm tội không phải ở bản thân nhu cầu mà là ở sự ý thức sai về nhu cầu và con đường thỏa mãn nhu cầu.

– Thế giới quan, niềm tin ở người phạm tội phát triển lệch lạc khác với ở con người bình thường trong xã hội:

+ thế giới quan của người phạm tội được hình thành trên cơ sở quan niệm, quan điểm, nhận thức lệch lạc, sai trái như tôn thờ chủ nghĩa vật chất ích kỷ, mang nặng chủ nghĩa cá nhân.

+ niềm tin của người phạm tội đã mất hết ý nghĩa đúng đắn và thiêng liêng giữa con người với nhau: họ không còn tin ai [kể cả ruột thịt], chỉ tin vào sức mạnh bạo lực, sức mạnh đồng tiền

3.2. Năng lực của người phạm tội

– Năng lực của cá nhân phát triển theo chiều hướng để đạt hiệu quả trong hoạt động tội phạm, cho nên năng lực của người phạm tội phát triển ở cả những lĩnh vực liên quan tới hoạt động phạm tội. Đối với hoạt động phạm tội thì kỹ năng, kỹ xảo phạm tội rất phát triển, vì thế những hành vi phạm tội được thực hiện chuẩn xác, mau lẹ, kín đáo và thuần thục

– Do bị chi phối bởi xu hướng của hành động phạm tội, nên ở người phạm tội thường phát triển năng lực với các kỹ năng, kỹ xảo hành động phạm tội.

– Tùy theo từng loại tội phạm cụ thể, ở người phạm tội phát triển các thuộc tính, các kỹ năng phù hợp, cấu thành năng lực chuyên biệt giúp họ thực hiện các hành động phạm tội cụ thể

3.3. Tình cảm và ý chí của người phạm tội

– Tình cảm và ý chí của người phạm tội thường nghèo nàn, các tình cảm cao cấp như tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ và tình cảm trí tuệ kém phát triển. Trong đó, tình cảm đạo đức bị suy thoái nghiêm trọng, mất chức năng động cơ thúc đẩy các hành vi xã hội và hoạt động tích cực của con người. Cái thiện bị thay thế dần dần bởi cái ác, các phẩm chất ý chí tích cực ở người phạm tội kém phát triển bị lấn át bởi các phẩm chất ý chí tiêu cực

– Tuy nhiên trong các hành động phạm tội, ở các đối tượng phạm tội luôn thể hiện tính mục đích cao, tính quyết đoán, sự kiên trì và nỗ lực ý chí lớn

3.4. Tính cách của người phạm tội

– Tính cách của người phạm tội, nhất là của những đối tượng phạm tội chuyên nghiệp, tái phạm nguy hiểm thường bao gồm các nét xấu xa, tiêu cực.

– Thái độ của người phạm tội đối với xã hội thường là lệch lạc, họ chà đạp lên đạo đức và dư luận xã hội, bị chi phối và điều chỉnh bởi các mục đích phản xã hội, sống buông thả, tự do, coi thường đạo đức, coi thưởng pháp luật, sẵn sàng chà đạp lên dư luận, bất chấp lẽ phải, kỷ cương.

– Tính cách của người phạm tội là kết quả của quá trình thực hiện các hoạt động phạm tội [thể hiện rõ nhất ở “tội phạm chuyên nghiệp”]. Cho nên ở người phạm tội, sự “bình tĩnh” mang tính chất thủ đoạn nhằm tránh tội khi khai báo, “bản lĩnh” mang nặng tính chất lì lợm nhằm hạn chế đến mức tối đa những sơ hở trong quá trình “hành nghề”. Những “tính cách giả” xuất hiện ở cá nhân khi mới gia nhập nhóm không chính thức tiêu cực tới cá nhân trong 1 thời gian dài.

3.5. Khí chất của người phạm tội

– Trong quá trình thực hiện phạm tội với những tình huống “căng thẳng” cản trở việc thực hiện mục đích, nhiều cá nhân phải “điều tiết” liên tục hệ thần kinh, khí chất vốn có của mình cho phù hợp với hiện thực. Bởi thế có những trường hợp người phạm tội lại có những hành vi “hình như khác xa với hành vi bản tính” thường ngày.

4. Các kiểu nhân cách người phạm tội

– Cách thứ nhất, theo A.I.Đôngôva, có 3 loại:

+ Loại hình nhân cách phạm pháp có hệ thống: không chỉ lợi dụng hoàn cảnh mà còn tự bản thân tạo ra hoàn cảnh, vượt qua mọi trở ngại để thực hiện âm mưu tội lỗi. Ở họ, hành vi phạm tội đã trở thành thói quen.

+ Loại hình nhân cách phạm pháp do chuẩn mực đạo đức, pháp luật lỏng lẻo:

+ Loại hình nhân cách bối cảnh: hành vi phạm tội xảy ra trong hoàn cảnh xung đột

– Cách thứ hai, căn cứ vào mức độ của những đặc điểm, phẩm chất tâm lý tiêu cực để phân loại về nội dung:

+ nhân cách tội phạm toàn thể: có thái độ xấu với xã hội, hành vi phạm tội được định hình, cuộc sống không ngoài tội phạm, thường xuyên gắn liền với tính toán và hoạt động phạm tội [gọi là tội phạm chuyên nghiệp]

+ nhân cách tội phạm cục bộ: có sự phân đôi các phẩm chất, vừa có những phẩm chất hợp chuẩn, vừa có những phẩm chất không hợp chuẩn [thường thấy ở tội phạm tham ô, hối lộ, buôn lậu, …]

+ nhân cách tội phạm tiểu cục bộ: có một số phẩm chất tiêu cực mà trong tình huống nhất định đã thúc đẩy cá nhân phạm tội [VD ghen tuông, xúc phạm nhau dẫn đến phạm tội]

– Cách thứ ba, căn cứ theo khách thể bị xâm hại và đặc điểm hành vi phạm tội:

+ nhân cách người phạm tội vụ lợi: thể hiện rõ tính vụ lợi trong hoạt động, giao tiếp, quan hệ, ứng xử hàng ngày

+ nhân cách người phạm tội bạo lực: tính ích kỷ cao, không có thái độ dung hòa khi lợi ích cá nhân bị va chạm, tính quyết đoán cao, nhân tâm, tàn bạo, coi thường người khác, thường sử dụng bạo lực trong giải quyết xung đột, mâu thuẫn

+ nhân cách người phạm tội vụ lợi – bạo lực: có sự pha trộng, kết hợp của 2 nhân cách trên

– Cách thứ tư, căn cứ vào ý thức trong hoạt động phạm tội:

+ nhân cách người phạm tội chuyên nghiệp, tái phạm: coi thường pháp luật, hành vi phạm tội luôn được tiến hành một cách thuần thục; có sự rối loạn, lệch lạc tâm lý

+ nhân cách người phạm tội vô ý: không có động cơ, mục đích phạm tội; tuy nhiên thiếu tự giác, thiếu tuân thủ kỷ luật, kém kiềm chế ==> dẫn đến sự chủ quan, cẩu thả, lệ thuộc vào tình huống ==> vi phạm các quy tắc phòng ngừa, không nhận thấy hậu quả tiêu cực có thể xảy ra. Cũng có thể hành động phạm tội trong tình trạng vô ý, bất cẩn, hoặc có sự quá tải về tâm sinh lý hay cảm xúc tiêu cực

5. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách người phạm tội

– Từ một người bình thường trở thành 1 người phạm tội ít khi là hiện tượng bất ngờ mà thường là quá trình suy thoái nhân cách. Có 2 quy luật cửa sự suy thoái nhân cách:

+ Sự phát triển tâm lý hành vi tiêu cực theo hướng dao động dần

+ Sự phát triển tâm lý hành vi tiêu cực theo tuyến

– Sự suy thoái nhân cách người phạm tội có thể theo 1 hoặc cả 2 quy luật trên, nhưng thường cả 2 quy luật đan xen tác động

5.1. Các yếu tố bẩm sinh di truyền

– Yếu tố bẩm sinh di truyền có vai trò là cơ sở, là tiền đề vật chất cho sự hình thành và phát triển nhân cách nói chung và nhân cách người phạm tội nói riêng. Chính những đặc điểm tâm lý này dưới ảnh hưởng của môi trường xã hội và trong những điều kiện nhất định có thể nảy sinh thành động cơ và chi phối hành vi phạm tội của con người

5.2. Các yếu tố xã hội

– Ảnh hưởng của khiếm khuyết trong môi trường nhỏ hẹp [gia đình, lớp học, nhà trường, nhóm bạn bè, …]

– Những thiếu sót trong hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội [chính trị, kinh tế, văn hóa, môi trường sống]

4.3. Những thiếu sót trong quá trình xã hội hóa cá nhân

– Quá trình xã hội hóa cá nhân được điều chỉnh bằng các quy phạm PL. Quá trình này rất phức tạp, kéo dài trong cả đời người và được biểu hiện qua các mặt cơ bản sau:

+ thực hiện vai trò xã hội

+ tiếp thu kinh nghiệm xã hội

+ thực hiện hệ thống giao tiếp

+ thích nghi xã hội

– Mặc dù quá trình xã hội hóa cá nhân được NN, XH quan tâm và điều chỉnh, tuy nhiên vẫn tồn tại những thiếu sót, lệch lạc nhất định, và chúng là nguyên nhân nảy sinh các phẩm chất tiêu cực của cá nhân, từ đó ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách người phạm tội.

a. Những thiếu sót khi thực hiện vai trò xã hội

– Đặc biệt là vai trò trong hoạt động nghề nghiệp, có thể do các nguyên nhân:

+ Cá nhân không có đủ những phẩm chất tâm lý cần thiết mà vai trò xã hội đòi hỏi ở họ

+ Cá nhân không có đủ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo cần thiết để hoàn thành vai trò xã hội

+ Cá nhân không ý thức được đầy đủ hoặc có khái độ tiêu cực đối với vai trò xã hội của bản thân

– Những thiếu sót này dẫn tới làm giảm tính tích cực của cá nhân khi thực hiện vai trò xã hội ==> không chú ý đến công việc của mình, không sáng tạo, cẩu thả, thờ ơ ==> coi nhẹ trách nhiệm của bản thân, nảy sinh tính vô kỷ luật, thiếu ý thức lao động, lười biếng, …

b. Những thiếu sót trong quá trình tiếp thu kinh nghiệm xã hội

– Những nguyên nhân:

+ cá nhân không tự giác tiếp thu kinh nghiệm xã hội

+ thiếu sót trong kinh nghiệm xã hội của nhóm, tập thể ảnh hưởng trực tiếp đến việc tiếp thu kinh nghiệm của cá nhân

+ do cá nhân chỉ quan tâm tiếp thu những kinh nghiệm nhằm đáp ứng nhu cầu của bản thân ==> dẫn đến hệ thống kinh nghiệm của cá nhân không đầy đủ, phiến diện

– Từ những thiếu sót trên dẫn cá nhân đến việc không thực hiện được vai trò xã hội của mình, không thể tham gia tích cực vào đời sống xã hội, làm hạn chế các mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội, làm nảy sinh tích ích kỷ, hẹp hòi, chủ nghĩa cá nhân

c. Những thiếu sót trong thực hiện hệ thống giao tiếp

– Nguyên nhân:

+ do hệ thống giao tiếp không thực hiện đầy đủ chức năng của mình. VD trong tập thể thiếu sự phê bình, tự phê bình

+ giao tiếp trong nhóm có mục đích chống đối xã hội nằm thỏa mãn những nhu cầu không lành mạnh, không phù hợp với các chuẩn mực xã hội

– Những thiếu sót đó phá vỡ những quan hệ giao tiếp tốt đẹp sẵn có, củng cố thể những phẩm chất tâm lý tiêu cực như chủ nghĩa cá nhân, bất mãn với xã hội, đưa con người đến chỗ phủ nhận các chuẩn mực xã hội, làm tích cực hóa hành vi phạm tội.

d. Những thiếu sót trong quá trình thích nghi xã hội

– Quá trình thích nghi xã hội phụ thuộc vào :

+ mức độ và tốc độ biến đổi của xã hội

+ đặc điểm tâm lý của cá nhân như khí chất, tính cách, xu hướng, năng lực

+ ý chí, kiến thức, hiểu biết của cá nhân

– Những thiếu sót trong quá trình thích nghi xã hội làm cho cá nhân không thể thích nghi với điều kiện mới, làm xuất hiện thêm những bất đồng và mâu thuẫn giữa cá nhân với xã hội ==> dẫn đến hành vi chống đối xã hội của cá nhân.

Bài viết tham khảo: bài giảng Tâm lý học tội phạm – VB 2, ĐH Luật Hà Nội, 2017; Giảng viên: cô Dương Thị Loan [Ths-GVC]

Video liên quan

Chủ Đề