Nếu những hành vi giao tiếp có văn hóa

, văn hóa giao tiếp là tổng thể của cuộc trò chuyện có văn hóa của mỗi người trong xã hội.
 Giao tiếp có văn hóa là thái độ thân thiện, chân thành, cởi mở, tôn trọng lẫn nhau, được tạo nên từ hành vi, thái độ, lời nói, ...

Giao tiếp tốt không chỉ giúp bạn có nhiều bạn bè, mà còn có cơ hội tiến xa trong nghề nghiêp. Tuy nhiên, để thành công trong giao tiếp cần phải phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau. Vậy làm thế nào để giao tiếp tốt trong mọi trường hợp? Hãy cùng Cet.edu.vn tìm hiểu ngay kỹ năng giao tiếp này sau đây nhé!

Văn hóa giao tiếp là gì?

Nói nôm na, văn hóa giao tiếp là tổng thể của cuộc trò chuyện có văn hóa của mỗi người trong xã hội. Giao tiếp có văn hóa là thái độ thân thiện, chân thành, cởi mở, tôn trọng lẫn nhau, được tạo nên từ hành vi, thái độ, lời nói, cách ứng xử…

Tùy vào mỗi quốc gia khác nhau, mà văn hóa giao tiếp sẽ có sự khác nhau. Có nơi người ta sẽ rụt rè khi nói chuyện, có nơi họ sẽ nhìn thẳng vào mắt nhau, cũng có nơi họ thích nói về kiến trúc, lại có nơi thích nói về thể thao…

Nếu những hành vi giao tiếp có văn hóa

Văn hóa giao tiếp của mỗi quốc gia luôn khác nhau (Ảnh: Internet)

Cách giao tiếp trong mọi trường hợp

Cải thiện ngôn ngữ cơ thể

Ngôn ngữ cơ thể góp phần rất lớn vào thành công của cuộc giao tiếp. Do đó, bạn đừng né tránh hay rụt rè giấu mình khi người khác nói chuyện với bạn. Ngược lại, bạn hãy duy trì sự thoải mái, không ngó lơ, phớt lờ dù bạn là người nói hay người nghe.

Một số dấu hiệu để đảm bảo cơ thể bạn đang quan tâm đến cuộc trò chuyện: Ánh mắt chú tâm, thi thoảng gật đầu đồng ý; đứng với tư thế hai bàn tay đan nhau ở phía trước; tuyệt đối không được khoanh tay lại; không được lộ cử chỉ cắn móng tay, siết chặt tay hay những hành vi khiến đối phương mất thoải mái và câu chuyện bị đứt quãng.

Luyện tập cách nói và thái độ khi nói

Khi giao tiếp, bạn cần phải nói năng rõ rang, mạch lạc, súc tích, tránh nói dong dài, lê thê. Phải kiểm tra xem họ có hiểu những gì bạn nói không và luôn sẵn lòng giải thích. Ngoài ra, bạn phải có thái độ chủ động trong giao tiếp, lắng nghe một cách tích cực. Có nghĩ, khi người khác đang nói, bạn cần ghi nhớ những điều quan trọng mà bạn thắc mắc hoặc muốn bày tỏ quan điểm. Sau đó, suy nghĩ về nó, có thể hỏi lại nếu không hiểu. Như vậy, bạn sẽ tiếp thu được nhiều hơn.

Tập tính kiên định trong giao tiếp

Bạn có rơi vào tình trạng những cuộc trò chuyện có xu hướng bị thu hẹp, khi mà nội dung chỉ xoay quanh những cuộc trao đổi hời hợt nơi công sở? Đó là vì bạn chưa thực hành giao tiếp kiên định bằng cách sẵn sàng cởi mở. Bạn hãy thành thật, chân thành, khéo léo trong giao tiếp, đừng sợ khi phải nói lên những vấn đề khó khăn đang gặp phải. Vì khi nói ra, có thể bạn sẽ tìm được đồng minh hoặc sẽ được giúp đỡ nhiệt tình.

Nếu bạn trong cương vị của quản lý, hãy cho phép nhân viên của bạn bắt đầu trò chuyện bất kỳ khi nào, bởi đôi lúc họ cần giải quyết vấn đề với bạn. Luôn chú tâm sẵn sàng thảo luận, sẽ giúp bạn tìm ra những trở ngại và tiêu diệt chúng trước khi chúng trở nên nghiêm trọng.

Nếu những hành vi giao tiếp có văn hóa

Ngôn ngữ cơ thể và thái độ của bạn ảnh hưởng rất lớn tới kết quả của cuộc giao tiếp
(Ảnh: Internet)

Tập tính kiên nhẫn

Bạn không nên vội vàng, mất hết kiện nhẫn mà làm gián đoạn khi đối phương đang nói. Bạn cần phải cho họ thời gian để bày tỏ vấn đề và tập trung vào những gì học nói, để cho họ thấy bạn luôn sẵn sàng giúp đỡ họ khi cần. Nếu bạn gặp phải các cuộc giao tiếp dong dài, không đi vào vấn đề chính, bạn nên hít thở sâu và suy nghĩ cuộc hội thoại này vô cùng quan trọng. Hoặc nếu bạn bối rối về những gì họ yêu cầu bạn, hãy lặp lại suy nghĩ của bạn và xác nhận điều đó có chính xác không. Thay vì bạn nổi đóa và khiến cuộc trò chuyện nặng nề hơn.

Tổng kết

Bởi bạn sẽ tiếp xúc với rất nhiều người, nên việc hiểu rõ văn hóa giao tiếp và luyện tập kỹ năng giao tiếp như trên đây, sẽ giúp bạn có được những mối quan hệ tốt đẹp và thành công trong cuộc sống lẫn công việc.

Trờng đại học s phạm hà nộiKhoa giáo dục mầm nonBài tập nghiệp vụ cuối khoáGiáo dục hành vi giao tiếp cho trẻ mẫu giáotrờng mầm non Tân lập - Lạc sơn - Hoà bình Ngời hớng dẫn : T.s Đinh Hồng Thái Ngời thực hiện : Bùi Thị Tm Lớp ĐHTC hoà bình - Khoa GDMN hà nội - 20041Lời nói đầuLần đầu tiên làm quen với bài tập tốt nghiệp cuối khoá đối với em thật mới mẻ và bỡ ngỡ.Đợc sự giúp đỡ của các thầy cô giáo Khoa giáo dục mầm non - trờng Đại học s phạm I Hà Nội. Đặc biệt là sự giúp đỡ của thầy Đinh Hồng Thái - ngời h-ớng dẫn em hoàn thành bài tập này.Đề tài của em đã đợc hoàn thành, để có đợc cơ sở thực tiễn của việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ phải kể đến sự giúp đỡ tạo điều kiện của Ban giám hiệu trờng Tân Lập và 2 cô giáo chủ nhiệm lớp 5 tuổi của trờng.Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trờng Đại học s phạm - khoa giáo dục mầm non. Đặc biệt là thầy giáo Đinh Hồng Thái. Đồng thời xin cảm ơn Ban giám hiệu và 2 cô giáo trờng mầm non Tân Lập - Huyện Lạc Sơn - tỉnh Hoà Bình đã tạo điều kiện cho em hoàn thành tốt bài tập nghiệp vụ cuối khoá này.2Mục lụcPhần I: mở đầuI. Lý do chọn đề tàiII. Mục đích nghiên cứu III. Nhiệm vụ nghiên cứu 1. Nghiên cứu cơ sở lý luận 2. Thực hiện s phạm, tác động s phạm để giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá3. Đề xuất và những kiến nghị s phạm.IV. Phơng pháp nghiên cứu.1. Đọc tài liệu2. Thực hiện s phạm 3. Xử lý kết quả.Phần II. Nội dung nghiên cứu Chơng I: Cơ sở lý luận 1. Cơ sở lý luận của việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo.Chơng II. Mô tả quá trình nghiên cứu I. Khảo sát nhận thức hành vi giao tiếp của trẻ II. Biện pháp tác động để giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo.Phần III. Kết luận và những kiến nghị s phạm Phần IV. Tài liệu tham khảo3Phần I : Mở đầuI. Lý do chọn đề tài : Đất nớc ta đang trên bớc đờng công nghiệp hóa, hiện đại hoá; nền kinh tế phát triển mạnh. Tất cả vì dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh. Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tơng lai của mỗi dân tộc, của cộng đồng. Trẻ em hôm nay là những công dân của thế giới ngày mai. Vậy việc bảo vệ chăm sóc trẻ em là trách nhiệm của nhà nớc, của tòan xã hội và của mỗi gia đình. Thế giới trẻ thơ- một thế giới đã từng là đề tài cuả biết bao cuốn sách, nguồn cảm xúc bao nhiêu tác gỉa. Tuổi mẫu giáo là thời kỳ vàng ngọc để phát triển những năng khiếu về văn hoá nghệ thuật của mỗi con ngời. Từ thực tế cũng nh nhiều công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học, giáo dục học đã cho chúng ta thấy rằng trong những năm đầu của cuộc đời đứa trẻ, hệ thần kinh mềm mại hơn, non yếu hơn. Trong quãng thời gian đó rất dễ hình thành những nét cơ bản của cá tính và những thói quen nhất định. Sau đó những phẩm chất tâm lý, nhân cách của con ngời dần dần đợc định hình. Trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo thì việc tiếp nhận vốn tri thức, những phẩm chất nhân cách con ngời cũng nh văn hoá, nghệ thuật thẩm mỹ thông qua sự vật, hiện tợng xung quanh gần gũi với trẻ. Cũng vì thế, khi chúng ta lo lắng nhiều tới việc nâng cao trình độ văn hoá nghệ thuật của ngời lớn (ngời mẹ, ngời cô đó chính là nhằm tạo điều kiện tốt cho sự phát triển của thế hệ trẻ thông qua những ngời gần gũi nhất đối với trẻ thơ) và việc giáo dục trẻ đòi hỏi chúng ta phải uốn nắn từ đầu nh nhân dân ta đã đúc kết thành những kinh nghiệm sâu sắc lu truyền cho đời sau:Uốn cây từ thở còn nonDạy con từ thở hãy còn thơ ngây.4Bé không vin, cả gãy cành.Qua thời gian học tập tôi đã đợc các thầy cô giáo giảng dạy, hớng dẫn, bản thân tôi thấy rõ việc giáo dục thế hệ trẻ cụ thể là lứa tuổi mầm non cần đợc chăm sóc giáo dục để tạo nên những con ngời mới xã hội chủ nghĩa có phẩm chất đạo đức, có tài năng và có thể lực cờng tráng để phù hợp với thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nớc.Vì vậy, tôi đã chọn việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hóa cho trẻ mẫu giáo làm đề tài cho bài tập tốt nghiệp khoá học. Giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo là dạy trẻ những hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội : Biết quý trọng ông bà cha mẹ; biết quan tâm đến ngời già cả, cô đơn; biết nhờng nhịn em bé Nghĩa là phải tiến hành daỵ trẻ toàn diện 4 mặt : Đức, trí, thể, mỹ đúng với ý nguyện của ngời lớn chúng ta là : Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai.Thế giới của công nghệ thông tin, thế giới của trí tuệ, tài năng.II. Mục đích nghiên cứu :Một số biện pháp giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo.III. Nhiệm vụ nghiên cứu :1. Nghiên cứu cơ sở lý luận.2. Thực nghiệm s phạm : Tác động s phạm để giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá.3. Đề xuất và kiến nghị s phạm IV. Phơng pháp nghiên cứu 1. Đọc tài liệu2. Thực nghiệm s phạm 3. Xử lý kết quả.5Phần II : Nội dung nghiên cứuChơng I :Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo .I. Cơ sở lý luận của việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo1. Hành vi giao tiếp có văn hoá :Để tiến hành giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo có hiệu quả, chúng tôi đã xác định rõ khái niệm hành vi giao tiếp có văn hoá cũng nh phân tích nhân tố có tính quy luật chi phối quá trình giáo dục này.a. Văn hoá là gì ?Văn hoá là một khái niệm rộng và phức tạp, khái niệm về văn hoá đã đợc nhiều tác giả đề cập tới và diễn đạt theo nhiều cách khác nhau, thậm chí một số nhà xã hội học Mỹ đã thống kê đợc tới gần 1000 định nghĩa khác nhau về văn hoá . Nhng nhìn chung thì Văn hoá là toàn bộ những giá trị về vật chất và tinh thần do loài ngời sáng tạo ra trong quá trình lịch sử của dân tộc mình. Văn hoá là một hiện tợng xã hội tiêu biểu cho trình độ mà xã hội đã đạt đợc trong từng giai đoạn lịch sử nhất định nh : Tiến bộ về kinh tế, kinh nghiệm sản xuất lao động, học vấn giáo dục, khoa học, văn học nghệ thuật và những tổ chức thích ứng với cái đó.Theo nghĩa rộng văn hoá bao gồm cả văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần, còn theo nghĩa hẹp thì văn hoá chỉ liên quan đến đời sống của con ngời. Văn hoá chính là sản phẩm của con ngời và do con ngời tạo ra nó. Vì vậy, văn hoá chỉ là cái gì dành riêng cho con ngời và chỉ có thể có ở nơi con ngời sinh sống mà thôi. ở đâu có con ngời sống thành tập thể, thành xã hội thì ở đó có 6văn hoá, văn hoá bao giờ cũng gắn liền với xã hội, với dân tộc, với thời kỳ lịch sử. Có văn hoá thời cổ đại, văn hoá thời Phục hng, văn hoá thời Trung đại, văn hoá Việt Nam,văn hoá Trung Quốc Văn hoá là do con ng ời sáng tạo ra, có thể nói rằng con ngời sinh ra và trởng thành trong xã hội nào thì chịu ảnh hởng sâu sắc bởi nền văn hoá của xã hội đó. Thậm chí cho dù có một thời gian dài sống tách khỏi xã hội thì con ngời vẫn t duy và hành động theo những khuôn mẫu, tác phong, nề nếp quen thuộc. Nhân cách của mỗi thành viên trong một cộng đồng bao giờ cũng mang dấu vết bản sắc văn hoá dân tộc.* Phân biệt văn hoá và văn minh :Văn minh là một khái niệm dùng để chỉ trình độ đạt tới mức độ nào đó của xã hội loài ngời, có nền văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần mang những nét đặc trng nhất định. Theo các nhà xã hội học và dân tộc học thì dân tộc nào cũng có nền văn hoá riêng của mình. Dân tộc này văn minh hơn dân tộc khác chỉ là nói đến sự khác nhau về mức độ phát triển mà thôi. Theo ý nghĩa đó thì trong xã hội ngày nay có những nền văn hoá ở trình độ văn minh thấp hơn.Văn minh liên quan chủ yếu tới kỹ thuật làm chủ tự nhiên, sự tiến bộ của văn minh trớc hết là sự tiến bộ về khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Sau đó là sự tiến bộ về đạo đức xã hội. Vì thế, ngời ta thờng lấy sự tiến bộ về khoa học, kỹ thuật và công nghệ làm tiêu chuẩn đo trình độ văn minh của các nền văn hoá.VD : Nền văn minh đồ đá, văn minh cơ khí, văn minh công nghiệp.Tuy là khái niệm rất khác nhau, song văn hoá lại cũng gắn bó chặt chẽ với văn minh. Thậm chí còn là linh hồn của văn minh bởi vì để tiếp thu đợc khoa học kỹ thuật đòi hỏi con ngời phải có một nền văn hoá sâu sắc. Nếu một dân tộc không có sẵn một nền văn hoá cao, không có truyền thống ham học, không có bản lĩnh vững vàng, chỉ tiếp nhận ở khía cạnh đơn thuần thì dần dần bản sắc văn hoá dân tộc đó bị mai một, dân tộc đó sẽ bị tác động bởi những nền văn hoá khác.7Ngợc lại : Nếu một dân tộc có nền văn hoá cao, có truyền thống hiếu học, có bản sắc dân tộc vững vàng thì từ chỗ rất lạc hậu so với thế giới bên ngoài dân tộc đó sẽ nhanh chóng làm chủ đợc khoa học hiện đại, tạo ra những sản phẩm có sức lôi cuốn mạnh mẽ.Bằng cách ấy dân tộc đó sẽ phát triển nhanh, văn hoá là một hiện tợng vừa mang tính phổ biến vừa mang tính cá biệt.Tính phổ biến của văn hoá thể hiện ở chỗ nó là đặc điểm chung của con ngời bắt gặp ở mọi cộng đồng.Tính cá biệt của văn hoá thể hiện ở chỗ mỗi cộng đồng lại có một lối sống riêng không giống các cộng đồng khác.Văn hoá không phải là một hiện tợng cố định mà trái lại nó biến chuyển và phát triển từ xã hội này qua xã hội khác; từ thời kỳ này qua thời kỳ khác. Thậm chí còn có thể thay đổi trong nội bộ từ chế định này sang chế định khác.Sự biến chuyển của văn hoá yếu tố quan trọng nhất là thông qua sự hội tụ, phổ cập. Hai diễn biến này có khuynh hứớng đan xen lẫn nhau trong sự phát triển của một nền văn hoá.Lịch sử đã cho thấy văn hoá biến chuyển và phát triển nhanh chóng ở những khu vực có giao lu, tiếp xúc rộng rãi với các nền văn hoá khác. Còn những nền văn hoá cô lập với thế giới bên ngoài thì nền văn hoá đó không phát triển đợc.Trong thời đại ngày nay, thời đại mà phơng tiện thông tin đại chúng phát triển một cách hiện đại thì sự giao lu, trao đổi với nhau giữa các nền văn hoá là rất thuận lợi. Trong quá trình giao lu này nếu cá nhân nào, tập thể nào biết lựa chọn và tiếp thu những tinh hoa của nền văn hoá khác một cách nhanh chóng, thông minh, tinh tế và khéo léo thì nền văn hoá đó sẽ đợc hoàn thiện và tốt đẹp hơn.Ngợc lại với một nền văn hoá cô lập, tự bó hẹp thì nó sẽ bị nghèo nàn và mai một dần.8Bởi vậy, để có nền văn hoá phát triển cần tăng cờng giao lu kinh tế, tăng cờng tiếp xúc, trao đổi với những nền văn hoá của các dân tộc khác nhau; biết lựa chọn và tiếp thu những tinh hoa của họ nhng phải phù hợp với nền văn hoá của nớc mình và không làm mất đi bản sắc riêng của dân tộc mình.2. Hành vi :Theo các nhà tâm lý học, hành vi con ngời đợc phân loại theo nhiều cách khác nhau: Nh hành vi có nguồn gốc bên ngoài và hành vi có nguồn gốc bên trong; cũng có nhà tâm lý học đã phân biệt hành vi thành 3 loại khác nhau theo bản chất tâm lý học: Đó là hành vi bản năng, hành vi kỹ xảo và hành vi lý trí. Trong giáo dục học ngời ta thờng quan tâm đến hành vi đạo đức. Đó là những hành động đợc thúc đẩy bằng các động cơ đạo đức đem lại những kết quả có ý nghĩa đạo đức và đợc đánh giá bằng những phạm trù đạo đức. Hành vi đạo đức gồm 2 thành phần : Hành động đem lại những kết quả có ý nghĩa đạo đức với t cách là mặt biểu hiện bên ngoài; thái độ (mục đích, ý định, động cơ) thấm nhuần ý thức đạo đức với t cách là mặt kích thích bên trong. Nh vậy, khi đánh giá con ngời có hành vi đạo đức hay không thì không những ta phải xem xét ngời đó hoạt động nh thế nào, có phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội hay không mà còn phải xem xét ngời đó hoạt động với động cơ đúng hay sai, tích cực hay tiêu cực? Cũng nh khi giáo dục hành vi văn hoá cho trẻ điều quan trọng là không ngừng tạo ra những hoạt động phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội và xây dựng động cơ hoạt động có đạo đức cao.3. Văn hoá hành vi Đạo đức Mác xít coi văn hoá hành vi là toàn bộ những hình thức hành vi, lối sống giao tiếp hàng ngày của con ngời lao động mà các chuẩn mực đạo đức và thẩm mỹ bao trùm lên các hình thức ứng xử ấy. Nếu các chuẩn mực đạo đức quy định hành vi ấn định cụ thể con ngời cần phải làm gì thì văn hoá hành vi vạch rõ cụ thể phải làm bằng cách nào. Các yêu cầu đạo đức tồn tại trong hành vi. Hình thức bên ngoài của hành vi con ngời ra sao, trong 9phạm vi nào - các chuẩn mực này hoà nhập một cách hữu cơ tự nhiên và đơng nhiên với hình ảnh của nó trong cuộc sống để trở thành các quy tắc sống hàng ngày. Vì thế, văn minh hành vi còn đợc coi là văn hoá bên ngoài để phân biệt với văn hoá bên trong của con ngời bao gồm thế giới quan, niềm tin đạo đức, trình độ phát triển chung, kiến thức, hứng thú, nhu cầuGiữa văn hoá bên trong và văn hoá bên ngoài của con ngời có mối liên hệ chặt chẽ, một sự thống nhất xác định. Mối quan hệ đó rất phức tạp và biện chứng có tính hai chiều. Văn hoá bên trong tuy quan trọng nhng nó cần đợc biểu hiện ra bằng hành động cụ thể dới những hình thức hành vi nhất định. Văn hoá bên trong quy định hành vi bên ngoài của con ngời. Hình thức hành vi là sự phản ánh cái bên trong chịu sự quy định của cái bên ngoài nhng đồng thời nó lại tác động trở lại thế giới bên trong của chủ thể. Sự luộm thuộm trong sinh hoạt, thô lỗ cục cằn, thiếu tế nhị trong giao tiếp dần dần sẽ tạo nên những thói quen và phẩm chất cá nhân tơng ứng. Vì vậy, sẽ là sai lầm nếu cho rằng phẩm chất bên trong mới là phẩm chất thực, còn hành vi bên ngoài chỉ là lớp vỏ hình thức. Chính quan niệm sai lầm này đã dẫn đến việc coi thờng tuân thủ các hành vi văn hoá cũng nh dẫn đến việc thiếu quan tâm giáo dục văn hoá hành vi cho thế hệ trẻ. Đồng thời, chống lại khuynh hớng giáo dục này sẽ tạo ra một thế hệ con ngời giả dối, tham lam ích kỷ. Những kẻ nh vậy sẽ tạo ra một xã hội lừa bịp, giả tạo. Vậy chính các quy tắc hành vi văn hoá là một trong những con đờng giúp con ngời giải quyết những vấn đề đó. Chúng ta tìm ra những hình thức hành vi phù hợp với các yêu cầu đạo đức xã hội, đáp ứng đợc những đòi hỏi thẩm mỹ và phản ánh một trình độ văn hoá do xã hội tích luỹ đợc trong quá trình phát triển của mình.Giữa văn hoá hành vi và kỷ luật có mối quan hệ chặt chẽ do đợc quy định bởi đạo đức xã hội. Do mối quan hệ chặt chẽ giữa kỷ luật và văn hoá hành vi mà việc giáo dục kỷ luật tự giác phải đợc gắn liền với văn hoá hành vi. Khi giải thích cho trẻ các yêu cầu kỷ luật đồng thời phải chỉ ra cách thực hiện chúng.10Tóm lại: Văn hoá hành vi là một phần của đạo đức cộng sản. Giáo dục văn hoá hành vi là một trong những mặt giáo dục đạo đức thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo.4. Giao tiếp Giao tiếp là một phạm trù rất quan trọng của tâm lý học. Trong lịch sử phát triển tâm lý học có rất nhiều quan điểm khác nhau về giao tiếp. Nhng nổi lên là cuộc tranh luận gay gắt giữa hai trờng phái tâm lý Xô viết sau :* Trờng phái A. A Leonchep quan niệm giao tiếp là hệ thống những quá trình có mục đích và có động cơ đảm bảo sự tơng tác giữa ngời này với ngời khác. Trong hoạt động thực tiễn các quan hệ xã hội nhân cách và các quan hệ tâm lý sử dụng các phơng pháp đặc thù mà trớc hết là ngôn ngữ . Ông cho rằng giao tiếp có cấu trúc chung của hoạt động, giao tiếp nào cũng có động cơ quy định sự hình thành và phát triển của nó và cũng đều đợc tạo ra bởi các hành động và thao tác. Họ cho rằng giao tiếp nào cũng mang đặc tính của hoạt động tức là cũng có cụ thể nhằm vào một đối tợng nào đó để tạo ra một sản phẩm. Nội dung của nó là sự nhận thức qua lại và trao đổi thông tin nhằm mục đích và xây dựng mối quan hệ qua lại có lơị đối với quá trình hoạt động chung. Ông đã chia quá trình giao tiếp ra làm 4 thời điểm : Một là tiếp xúc và liên hệ; hai là tác động lẫn nhau; ba là nhận thức lẫn nhau; bốn là mối quan hệ lẫn nhau.Còn BDPARUGHIN cho mối quan hệ giao tiếp là quá trình hai mặt của sự thông báo và tác động qua lại. Trong đó sự thông báo là nội dung và tác động qua lại là hình thức của giao tiếp. Phái B.E Lomop cho rằng giao tiếp không phải là một dạng hoạt động mà nó phải đợc xem nh một phạm trù tơng đối độc lập trong tâm lý học bên cạnh phạm trù hoạt động.Sự bất đồng giữa hai trờng phái là ở chỗ giao tiếp không phải là một dạng của hoạt động. Tuy nhiên cả hai trờng phái cũng nh bất cứ một nhà tâm lý học 11