Quá trình dạy học đại học là gì

Quá trình dạy học đại học là gì

Loading Preview

Sorry, preview is currently unavailable. You can download the paper by clicking the button above.

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA QUÁ TRÌNH DẠY HỌC 1. Qúa trình dạy học 1.1. Khái niệm: - Định nghĩa: Quá trình dạy học là một quá trình dưới sự lãnh đạo, tổ chức, điều khiển của người giáo viên, người học tự giác, tích cực ,chủ động, biết tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức - học tập của mình nhằm thực hiện nhiệm vụ dạy học. -Tính chất hai mặt của quá trình dạy học Dạy Học Đề ra mục đích, yêu cầu học Tiếp nhận nhiệm vụ, kế hoạch tập, vạch ra kế hoạch hoạt do giáo viên đề ra động cho quá trình dạy học Tổ chức hoạt động dạy của Thực hiện hành động và các mình và hoạt động học của thao tác nhận thức nhằm giải học sinh (tạo động cơ ,hứng quyết nhiệm vụ thú, ham hiểu biết…) Theo dõi, kiểm tra, đánh giá Tự điều chỉnh hoạt động nhận kết quả học tập của học sinh thức, học tập của mình dưới sự để điều chỉnh sửa chữa kiễm tra, đánh giá của giáo viên và tự kiểm tra ,đánh giá của bản thân => Phân tích kết quả học tập để điều chỉnh và sửa chữa - Trong quá trình hoạt động độc lập học tập thiếu sự lãnh đạo trực tiếp của giáo viên thì hoạt động học được thể hiện : + Lập kế hoạch hoặc cụ thể hóa nhiệm vụ học tập + Tự tổ chức hoạt động học tập + Tự kiểm tra, tự điều chỉnh trong tiến trình học tập của mình + Tự phân tích những kết quả hoạt động học tập của mình.
  2. Kết luận: Giáo viên là người lãnh đạo, điều khiển hoạt động nhận thức của người học. Học sinh đóng vai trò tự giác, tích cực, chủ động phối hợp với giáo viên để hoàn thành mục đích, nhiệm vụ. 1.2. Quá trình dạy học là một hệ thống toàn vẹn. Quá trình dạy học là một hệ thống toàn vẹn bao gồm nhiều thành tố tồn tại, phát triển trong mối quan hệ biện chứng với nhau: mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, cách thức, hoạt động dạy, hoạt động học, kết quả. Tất cả các thành tố đó đều có tác động qua lại với môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật… 1.3. Bản chất của quá trình dạy học. Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào não người. Quá trình hoạt động nhận thức của học sinh chính là hoạt động nhận thức. - Bản chất của hoạt động học trong quá trình dạy học. + Hoạt động nhận thức của học sinh cũng tuân theo quy luật nhận thức chung do Leenil đưa ra: “ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn là con đường biện chứng của nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan”. Tuy nhiên, hoạt động nhận thức cũng có những đặc biệt thể hiện: tt Mặt khác biệt Nhận thức của loài Nhận thức của học sinh người trong QTDH 1 Con đường Mò mẫm, thử sai Được đưa đến sẳn (do các nhà xây dựng nội dung và GV tham gia vào 2 Thời gian Dài, tri thức ít, khó Ngắn, khối lượng tri thức khăn lớn, thuận lợi Không cần cũng cố, Phải qua cũng cố, vận 3 Các khâu vận dụng, kiểm tra, dụng, kiểm tra, đánh giá đánh giá việc nắm tri thức. 4 Kết quả Tìm ra cái mới cho Mới cho cá nhân học loài người sinh, mang tính giáo dục cao hơn
  3. Vậy: Bản chất của hoạt động học là quá trình nhận thức độc đáo của học sinh. Từ khái niệm và bản chất của hoạt động học suy ra: Bản chất của quá trình dạy học là tổ chức quá trình hoạt động nhận thức độc đáo của học sinh. Trong quá trình dạy học luôn huy động toàn bộ những chức năng tâm lý của học sinh: cảm giác, tri giác, tư duy, trí nhớ, tưởng tượng, xúc cảm, tình cảm, nhu cầu, hứng thú, chú ý, trạng thái tâm lý… 1.4. Dạy học theo hướng tiếp cận “ Lấy hoạt động của người học làm trung tâm. - Trong quá trình dạy học phải xuất phát từ nhu cầu, động cơ, đặc điểm tâm sinh lý của người học. Người học vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình dạy học. - Học sinh hoạt động một cách tích cực, năng động, sang tạo, biết tư duy, có thái độ ham muốn học tập đúng đắn. - Vai trò của giáo viên trong dạy học “ lấy hoạt động của người học làm trung tâm”. + Đòi hỏi rất cao năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm. + Phẩm chất nghề nghiệp => đòi hỏi giáo viên phải có kỹ năng định hướng, thiết kế, tổ chức hoạt động, là người cố vấn, trọng tài…-> phát triển tốt nhân cách cho học sinh. 1.5. Nhiệm vụ dạy học ở trường THCS - Cơ sở để xác định nhiệm vụ dạy học + Căn cứ vào mục tiêu + Sự tiến bộ của khoa học công nghệ. + Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh + Đặc điểm hoạt động dạy học. - Ba nhiệm vụ dạy học ở trường THCS + Điều khiển, tổ chức học sinh nắm vững hệ thống tri thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, phù hợp với thực tiễn của đất nước về tự nhiên, xã hội – nhân văn, đồng thời rèn luyện cho học sinh hệ thống kỹ năng, kỹ xảo tương ứng (nhiệm vụ giáo dưỡng)  Việc nắm vững tri thức tức phải đảm bảo 3 điều kiên: hiểu, nhớ, vận dụng vào hoàn cảnh thực tế.
  4.  Tri thức phổ thông, cơ bản là tri thức tối thiểu, cần thiết làm nền tảng giúp học sinh học lên hoặc bước vào cuộc sống, hệ thống tri thức này được lựa chọn và xây dựng từ các lĩnh vực khoa học khác nhau.  Tri thức hiện đại là tri thức phản ánh những thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ, văn hóa, phù hợp chân lý khách quan, xu thế của thời đại. Tri thức đó phải phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm nhận thức của học sinh.  Rèn luyện hệ thống kỹ năng, kỹ xảo tương ứng như: giao tiếp, nắm bắt thông tin, nhận thức toán học, nhân văn, tự nhiên… + Tổ chức, hướng dẫn học sinh hình thành, phát triển năng lực và phẩm chất trí tuệ, đặc biệt là năng lực tue duy sang tạo (nhiệm vụ phát triển) Trí tuệ được hiểu là số lượng và chất lượng tri thức đã được tích lũy và chất lượng các thao tác hoạt động trí tuệ. Vì vậy, thông qua quá trình dạy học người thầy phải giúp học sinh rèn luyện các thao tác trí tuệ dần dần hình thành các phẩm chất của hoạt động trí tuệ như:  Tính mềm dẻo  Tính định hướng  Tính linh hoạt  Tính độc lập  Tính nhất quán  Tính khái quát  Bề rộng và chiều sâu của hoạt động trí tuệ. + Tổ chức, hướng dẫn học sinh hình thành thế giới quan khoa học, những phẩm chất đạo đức nói riêng, phẩm chất nhân cách nói chung (nhiệm vụ giáo dục)  Đây là nhiệm vụ thể hiện mục đích của dạy học “thông qua dạy chữ để dạy người”.  Từ việc học sinh nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo phát triển năng lực nhận thức => cơ sở thế giới quan khoa học, lý tưởng, động cơ, phẩm chất nhân cách con người mới theo mục đích giáo dục.  Yêu cầu:
  5.  Giáo viên phải quan tâm đầy đủ đến việc giáo dục cho học sinh thế giới quan khoa học => có hành động, thái độ đúng đắn.  Ngăn ngừa sự ảnh hưởng của thế giới quan phản khoa học. Như vậy, các nhiệm vụ dạy học có mối quan hệ, tác động qua lại lẫn nhau nhằm thực hiện mục tiêu dạy học, mục đích giáo dục đã đề ra.


Page 2

YOMEDIA

1. Qúa trình dạy học 1.1. Khái niệm: - Định nghĩa: Quá trình dạy học là một quá trình dưới sự lãnh đạo, tổ chức, điều khiển của người giáo viên, người học tự giác, tích cực ,chủ động, biết tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức - học tập của mình nhằm thực hiện nhiệm vụ dạy học. -Tính chất hai mặt của quá trình dạy học Dạy Học Đề ra mục đích, yêu cầu học Tiếp nhận nhiệm vụ, kế hoạch tập, vạch ra kế hoạch hoạt do giáo viên đề ra động cho quá...

04-03-2012 1994 106

Download

Quá trình dạy học đại học là gì

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.

Ban về mối quan hệ dạy học và sự phát triển tâm ly của L.X. Vygotskyviết: “dạyhọc phải đi trước sự phát triển và kéo sự phát triển đi theo nó”Anh chị hảy bình luận về ý kiến trên .trong điều kiện dạy học hiện naytheo anh chị chúng ta cần thực hiện những thay đổi nào để đảm bảo hoạt độngdạy học thực sự tạo ra sự phát triển ở người học.Bản chất tâm lý của hoạt động dạy họcI. Khái niệm về quá trình dạy học1. Định nghĩa:QTDH là một quá trình dưới sự lãnh đạo, tổ chức, điều khiển của người giáoviên, người học tự giác, tích cực, chủ động tự tổ chức, tự điều khiển hoạt độngnhận thức, học tập của mình nhằm thực hiện những nhiệm vụ dạy học.Từ khái niệm trên ta thấy trong QTDH, hoạt động dạy và hoạt động học liên hệmật thiết với nhau, diễn ra đồng thời và phối hợp chặt chẽ, tạo nên sự cộnghưởng của hoạt động dạy và hoạt động học, từ đó tạo nên hiệu quả cho QTDH.2. QTDH là một hệ thống toàn vẹn+ Khái niệm hệ thống toàn vẹn:Là một hệ thống bao gồm các thành tố liên hệ, tương tác với nhau tạo nên chấtlượng mới.+ Khi xem xét QTDH ở một thời điểm nhất định, nó bao gồm những thành tốnhư: Mục đích DH, nội dung DH, PP, PT DH, giáo viên, học sinh… Các thànhtố này có quan hệ mật thiết với nhau: MĐ dạy học định hướng cho các thành tốkhác trong QTDH, mục đích này được hiện thực hóa bằng nội dung DH. NgườiGV với hoạt động dạy của mình, với những PP, PT HTTC DH tác động đếnđộng cơ của người học để thúc đẩy người học học tập. Sự tác động lẫn nhaugiữa GV và HS sẽ tạo nên kết quả dạy – học. Mặt khác hoạt động dạy và họccòn chịu sự tác động của môi trường bên ngoài xã hội (kinh tế, văn hóa,KHCN…). Môi trường tạo nên sự thuận lợi hay không thuận lợi cho QTDH.3. Bản chất của QTDHBản chất của QTDH là quá trình nhận thức độc đáo của học sinh. *1Trước tiên, ta khẳng định học là một hoạt động nhận thức. Vậy thế nào là hoạtđộng nhận thức?Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào não người– đó là sự phản ánh tâm lý của con người bắt đầu từ cảm giác đến tư duy, tưởngtượng. Sự học tập của học sinh cũng là quá trình như vậy. Đó là sự phản ánh đitrước, có tính chất cải tạo mà mức độ cao nhất là sự sáng tạo. Sự phản ánh đó bịkhúc xạ qua lăng kính chủ quan của mỗi người (như qua kinh nghiệm, nhu cầu,hứng thú…), và đó là sự phản ánh tích cực của mỗi chủ thể.- Quá trình học tập của học sinh cũng diễn ra theo công thức của V.I.Leenin vềquá trình nhận thức: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duytrừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lý,nhận thức hiện thực khách quan”. * Tuy nhiên, trong QTDH, nhận thức của họcsinh còn thể hiện tính độc đáo, cụ thể như sau: - QT nhận thức của học sinhkhông phải là quá trình tìm ra cái mới cho nhân loại mà chủ yếu là sự tái tạonhững tri thức của loài người đã tạo ra.- QT nhận thức của học sinh không diễn ra theo con đường mò mẫm, thử và sainhư quá trình nhận thức nói chung của loài người, mà diễn ra theo con đường đãđược khám phá, được những nhà xây dựng chương trình, nội dung dạy học giacông sư phạm. Vì vậy, trong một thời gian nhất định, học sinh có thể lĩnh hộikhối lượng tri thức rất lớn một cách thuận lợi.- QT học tập của học sinh phải tiến hành theo các khâu của QTDH.- QT nhận thức của học sinh trong QTDH diễn ra dưới vai trò chủ đạo củangười giáo viên cùng với những điều kiện sư phạm nhất định. Kết luận: Như vậybản chất của QTDH là hoạt động nhận thức độc đáo của học sinh.II. Thuyết Của Vygotsky Trong Hoạt Động HọcLý thuyết về văn hoá xã hội do Lev Vygotsky khởi xướng nhấn mạnh đếntầm quan trọng của yếu tố xã hội và văn hoá có tác động đến sự phát triển nhậnthức của trẻ em. Hai yếu tố này tác động thông qua sự tương tác của trẻ với đồvật và với người lớn hay nói cách khác đó là sự tương tác xã hội – đóng vai tròcơ bản trong sự phát triển nhận thức.Vygotsky khẳng định: “Tất cả các chức năng trong phát triển văn hóa củatrẻ xuất hiện hai lần: đầu tiên, trên bình diện xã hội và sau đó ở cấp độ cá nhân;đầu tiên, giữa những con người (liên tâm lý) và sau đó bên trong đứa trẻ (nộitâm lý)”.2Giống như người cùng thời với ông – Piaget – Vygotsky tin rằng trẻ em lànhững người tích cực xây nên kiến thức và những kỹ năng của chính chúng. Ôngtin rằng sự phát triển của trẻ em là kết quả của sự tương tác giữa đứa trẻ và môitrường xã hội của nó.Thông qua hoạt động chơi, trẻ sẽ có được ý nghĩa trừu tượng về sự vật,phân biệt được vật này với vật khác và làm cho chúng nhận thức đầy đủ hơn vềthế giới xung quanh. Ví dụ: khi trẻ xưng hô là anh, em với búp bê có nghĩa là lúcnày đứa trẻ đã nhận thức được vai trò, nhiệm vụ của mình trong gia đình là nhưthế nào. Đứa trẻ có thể dùng cái gối làm em bé, cái nắp làm cái tô, cây que là cáimuỗng - những đồ vật đó có tính tượng trưng cho em bé thật và đồ nấu ăn thậtmà bé chưa thể sử dụng thành thục được.Hoạt động chơi không những giúp trẻ học được những kỹ năng, nhữngquy luật xã hội mà còn giúp trẻ tự điều chỉnh bản thân mình. Ví như một đứa trẻđang đứng tại vạch xuất phát trong cuộc thi bơi lội cùng với những trẻ khác, đứatrẻ nào cũng muốn nhảy xuống nước bơi ngay nhưng quy định xã hội giúp trẻphải chờ đợi có dấu hiệu xuất phát mới được bơi.Ảnh hưởng của văn hóa – xã hội đến sự phát triển nhận thức: Vygotskycho rằng trẻ em sinh ra đã có những năng lực cơ bản cho sự phát triển trí tuệ,được biểu hiện thông qua sự chú ý, nhận thức, trí nhớ…Trẻ em rất tò mò và chính sự tò mò ấy sẽ làm cho chúng tích cực tham giavào việc học hỏi để phát hiện và phát triển thêm những vốn hiểu biết mới do vănhóa – xã hội đem lại.Trẻ sẽ được học tập những điều quan trọng nếu như trẻ có sự tương tác xãhội với một người có sự khéo léo, có năng lực tốt. Ví dụ: đứa trẻ có thể khó khăntrong việc ghép hình nhưng sẽ dễ dàng đối với chúng khi có một người ngồicạnh bên mô tả hoặc thể hiện một số động tác cơ bản, chẳng hạn như việc tìmkiếm tất cả các góc, cạnh, cung cấp một vài miếng ghép điển hình và khuyếnkhích khi trẻ ghép được một mảnh ghép, như thế sẽ giúp cho trẻ học hỏi nhanhhơn và tạo cho trẻ cảm giác thoải mái, thích thú hơn trong việc học.Vùng phát triển gần (ZPD - Zone of Proximal Development): đề cập đếnviệc học tập và thực hiện độc lập một nhiệm vụ thông qua tương tác của trẻ vớibạn bè hoặc những người xung quanh.Ví dụ: đứa con không thể biết cách thắc dây giày và đó là sự khó khăn đốivới nó nếu không có sự hướng dẫn, chỉ dạy của người cha hay người xung3quanh, dần dần với những kỹ năng trẻ học được, trẻ có thể độc lập làm nhữngđộng tác ấy mà không cần đến sự giúp đỡ của người khác.Ví dụ khác: lúc đầu trẻ sẽ không biết cách chơi nhảy dây, bắn bi, ô ănquan… ra sao nhưng qua sự tương tác, học hỏi bạn bè xung quanh đã giúp trẻbiết được cách chơi trò chơi đó như thế nào. Không những vậy, với những kiếnthức về trò chơi đó trẻ có thể tự tổ chức và làm phong phú thêm trò chơi chomình.Vygotsky thấy khu phát triển gần như là khu vực nhạy cảm nhất đối vớisự học tập thông qua học hỏi của đứa trẻ, cho phép đứa trẻ phát triển những kỹnăng quan trọng sau đó chúng sẽ sử dụng những kỹ năng một cách độc lập - pháttriểnchứcnăngtâmthầncaohơn.Vận dụng thuyết văn hóa – xã hội của Vygotsky vào giáo dục: Lý thuyếtphát triển văn hóa – xã hội của Vygosky chú trọng đến việc giáo dục con người,đặc biệt là giáo dục trẻ em, trẻ có thể học những kỹ năng, những kinh nghiệmtrong xã hội thông qua bắt chước hay sự dạy dỗ.- Trường hợp trẻ học tập bằng cách bắt chước: Ví dụ: đứa trẻ nhìn thấy ngườicha mỗi lần nghe điện thoại thì thường dùng một vật nào đó tương tự chiếc điệnthoại để điều khiển TV, dần dần vì sự tò mò ham học hỏi của trẻ con, một hômnó thấy chiếc điện thoại thì liền cầm lên đặt vào tai, kêu “hê lô, hê lô” và sau đódùng chiếc điện thoại đưa lại gần TV để điều khiển.Chính nhờ sự tương tác với xã hội làm cho trẻ nhận thức ngày càng cụ thể hơn,phong phú hơn về thế giới xung quanh, thông qua đó trẻ cũng học tập đượcnhững kinh nghiệm từ xã hội, làm tiền đề cho sự phát triển về sau của chúng.- Trường hợp trẻ học tập thông qua dạy dỗ: Ví dụ: một đứa trẻ lớp 1 gặp phảimột bài toán khó, bản thân chúng sẽ không dễ dàng gì để giải được bài toán đónhưng nếu có sự hướng dẫn của người thầy bằng cách phân tích đề bài, chú ýnhững con số tính toán và nhớ lại phép tính cơ bản… thì chắc hẳn bài toán đó sẽtrở nên nhẹ nhàng đối với trẻ.Giáo dục tác động vào vùng phát triển gần nhất để kéo đứa trẻ đi từ vùngphát triển hiện tại lên vùng phát triển gần nhất. Quan điểm cốt lõi trong giáo dụchiện đại là phải lấy trẻ làm trung tâm. Có nghĩa là giáo dục hướng đến trẻ, vì trẻvà do trẻ”. Bởi vậy, giáo dục là phải đi trước sự phát triển của đứa trẻ, để kéotheo sự phát triển của đứa trẻ.vấn đề mà các em đối mặt rơi vào “vùng phát triển gần”. Do đó, giảiquyết vấn đề sẽ giúp các em dịch chuyển trình độ hiện tại lên “vùng phát triển4gần”, vậy là dạy học đã tạo ra sự phát triển. Đây là mặt tích cực thứ nhất của“dạy học vùng phát triển gần”.Mặt tích cực thứ hai xuất phát từ cách mà chúng ta “bắc giàn” cho sựphát triển. Bắc giàn, sẽ là cách mà chúng ta hướng dẫn học sinh thực hiện côngviệc một cách nghệ thuật nhất có thể trên chính trình độ của các em. Nếu khôngkhéo, sự hỗ trợ sẽ biến học sinh thành những con người thụ động, cái mà JohnDewey coi là cực kì tai hại. Hỗ trợ cho các em giải quyết vấn đề nhưng đồngthời cũng phải cho các em học được cách mà chúng ta giải quyết vấn đề. Nhờ đómà sau này có thể tự học, tự học suốt đời trong xu thế xã hội hóa giáo dục.Harry Daniels dẫn lời Vygotsky trong tác phẩm Vygotsky 1978:“Giả sử rằng tôi điều tra hai đứa trẻ ở độ tuổi đi học ở trường, cả hai đều mườihai tuổi về mặt thời gian và tám tuổi về mặt phát triển trí tuệ học đường. Tôi cóthể nói rằng chúng có cùng tuổi trí tuệ hay không? Tất nhiên. Điều này nghĩa làsao? Điều này có nghĩa là họ có thể độc lập giải quyết các công việc đến mức độkhó đã được chuẩn hóa cho chương trình học ở mức độ lớp tám. Nếu tôi dừnglại tại điểm này, mọi người có thể tưởng tượng rằng kết quả của quá trình pháttriển và quá trình học ở trường là như nhau, bởi vì nó dựa trên sự hiểu biết củacác em. Bây giờ hãy hình dung rằng tôi không dừng các nghiên cứu của mình tạiđiểm này, mà chỉ mới thực sự bắt đầu Cho rằng tôi đã chỉ một số con đường đểcác em giải quyết một công việc…mà bọn trẻ giải quyết vấn đề với sự giúp đỡcủa tôi. Trong những điều kiện này, hóa ra đứa trẻ đầu tiên có thể giải quyếtcông việc đến trình độ tuổi trí tuệ là mười. Đứa trẻ thứ hai chỉ đến trình độ tuổitrí tuệ là 9. Vậy những đứa trẻ này có trí tuệ giống nhau hay không? Khi nó đãthể hiện rằng năng lực của những đứa trẻ với trình độ phát triển trí tuệ như nhauhọc tập dưới sự hướng dẫn của thầy giáo thay đổi đến một trình độ cao hơn, rõràng là trí tuệ những đứa trẻ không như nhau và những khóa học tiếp theo củachúng rõ ràng là sẽ khác nhau. Sự khác nhau đó là giữa mười hai và tám, giữachín và tám, là cái mà chúng ta gọi là vùng phát triển gần.”Việc giải quyết một vấn đề nào đó liên quan chặt chẽ đến trình độ của họcsinh. Với trình độ phát triển hiện tại, trẻ có thể tự mình hoàn tất công việc tươngứng với tuổi trí tuệ của chúng. Nhưng nếu công việc khó hơn một chút thì chúngthường không thể hoàn tất trên khả năng của chính bản thân mà cần có sự hỗ trợcủa người có nhiều kinh nghiệm hơn, thường là người lớn mà ở trường họcchính là các thầy cô giáo. Ở một mức độ nào đó, khi trẻ tự hoàn tất một côngviệc nào đấy thì coi như5sự phát triển liên quan đến các kĩ năng đáp ứng cho công việc đã kết thúcchu trình của nó để bước sang một chu trình mới ở một trình độ cao hơn gần đó.Chúng ta dạy là tổ chức cho trẻ làm việc trong vùng này để tạo cơ hội cho nóhoàn tất chu trình một cách tương tự như trước đó. Ở đây mọi chuyện đã khác,trẻ chưa có đầy đủ những kĩ năng, hiểu biết cần thiết để hoàn tất công việc vàcần sự giúp đỡ của người lớn hoặc bạn bè có nhiều kinh nghiệm hơn về vấn đềđang nghiên cứu. Harry Daniels và Hammond Jennifer dẫn ra khái niệm vùngphát triển gần ở trang 86 trong tác phẩm Vygotsky 1978 như sau:“vùng phát triển gần là khoảng cách giữa trình độ phát triển hiện tại củangười học được xác định qua việc giải quyết vấn đề một cách độc lập và trình độphát triển tiềm tàng được xác định thông qua sự hướng dẫn của người lớn haycộng tác với các thành viên cùng trang lứa có khả năng hơn.” Khái niệm vùngphát triển gần mà Vygotsky đưa ra đã mở ra một hướng dạy học mới có nhiềutriển vọng, dạy học có nhiều sự hỗ trợ và sự hỗ trợ đó nhằm giúp các em tiếp thukiến thức trên chính khả năng của mìnhIII. Dạy học vùng phát triển gầnKhái niệm vùng phát triển gần lôi cuốn nhiều nhà sư phạm trong vài thậpkỉ qua bởi lẽ không có thầy cô giáo nào là không muốn học sinh mình phát triểnkhông ngừng về tư duy, kiến thức, kĩ năng kĩ xảo một cách thuận lợi nhất có thểv.v…và chính vùng phát triển gần đã ít nhất cho họ thấy những gì cần phải làmhơn là những mục tiêu giáo dục xa xôi. Tất nhiên, chúng tôi hoàn toàn không cóý định phê phán mục tiêu giáo dục vì nó ở một phương diện khác. Mục tiêu giáodục thường gắn liền với việc hoạch định chiến lược giáo dục ở mức độ vĩ mô,cái khá trừu tượng nằm trong mỗi bài học, khác hoàn toàn với vùng phát triểngần. Một triển vọng tươi sáng được mong chờ ở đây vì mọi thứ đã quá rõ ràng,“chỉ có việc giảng dạy nào hơi đi trước sự phát triển mới là việc giảng dạy tốt”.Đến đây, những ai mong muốn vận dụng nó sẽ phải giải thuyết thêm một số vấnđề, mà theo chúng tôi là không đơn giản tí nào.Dạy học vùng phát triển gần có phải là một phương pháp?Xác định hai trình độ phát triển của học sinh, trình độ phát triển hiện tạivà vùng phát triển gần như thế nào?Tổ chức cho học sinh làm việc trong vùng phát triển gần bằng cách nào?Phương pháp nghĩa là lề lối và cách thức phải theo để tiến hành công việc vớikết quả tốt nhất có thể. Trong dạy học, phương pháp dạy học là cách thức hoạtđộng của giáo viên trong việc tổ chức, chỉ đạo các hoạt động học tập nhằm giúphọc sinh chủ động đạt các mục tiêu dạy học.6Vygotsky đã đưa ra khái niệm vùng phát triển gần, nhưng bản thân ôngchưa bao giờ đề cập cách thức tiến hành dạy học trong phạm vi vùng phát triểngần của học sinh nhằm giúp chúng chủ động lĩnh hội kiến thức như thế nào. Saunày, một số nhà tâm lí giáo dục học như Mercer, Bruner, Wells … đã cố gắngtìm cách thức tiến hành dạy học trong vùng phát triển gần và thực tế là đã cónhưng đó là một cách tiến hành khá đặc biệt, cũng thu hút sự quan tâm đông đảocủa các nhà sư phạm trên thế giới. Có rất nhiều công trình nghiên cứu về dạyhọc vùng phát triển gần đã được áp dụng cho dạy toán, tiếng Anh như một ngônngữ thứ hai ở Australia ESL (English as a Second Language), lịch sử nhưngchưa có học giả nào đề cập đến nó như là một phương pháp. Có lẽ là vẫn cònnhiều tranh cãi xung quanh việc hiểu thế nào về khái niệm vùng phát triển gầncủa Vygotsky và những khái niệm mới được Mercer, Bruner, Wells… nghiêncứu; trong khi nói đến phương pháp dạy học thì một yếu tố rất quan trọng đó lànền tảng cơ sở lí thuyết của nó phải thống nhấtlớp học có rất nhiều học sinh dù cùng tuổi trí tuệ nhưng vùng phát triển gần củachúng khác nhau một cách đa dạng. Nếu dừng lại ở đây, chúng ta không có dạyhọc ở vùng phát triển gần vì ít nhất việc xác định trình độ hiện tại và vùng pháttriển gần của trẻ đặt nền móng vững chắc cho những gì chúng ta làm ở các bướctiếp theo.IV. Diều kiện dạy học hiện nayđua nhau nhồi nhét học thuộc lòng theo sách vở để có điểm cao mà sách chưachuẩn, năm nào thi cử cũng gian lận, đề thi sai,Trong những thập kỷ qua, nền giáo dục Việt Nam có những bước phát triển, cónhững thành tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào nâng cao dân trí, đàotạo nhân lực cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất nước. Nhưng đồngthời nền giáo dục đang ẩn chứa rất nhiều yếu kém, bất cập:– Giáo dục-đào tạo còn nhiều hạn chế, yếu kém, bất cập chậm được khắc phục;chất lượng giáo dục còn thấp, quan tâm đến phát triển số lượng nhiều hơn chấtlượng; so với yêu cầu phát triển của đất nước còn nhiều nội dung chưa đạt; chưathực sự là quốc sách hàng đầu.– Nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục còn lạc hậu, chậm đổi mới,chậm hiện đại hóa, chưa gắn chặt với đời sống xã hội và lao động nghề nghiệp;chưa phát huy tính sáng tạo, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên.– Chất lượng giáo dục có mặt bị buông lỏng, giảm sút, nhất là giáo dục đạo đức,lối sống; giáo dục mới quan tâm nhiều đến dạy “chữ”, còn dạy “người” và dạy7“nghề” vẫn yếu kém; yếu về giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, lịch sử dântộc, tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành, kỹ năng sống…– Hệ thống giáo dục quốc dân không hợp lý, thiếu đồng bộ, chưa liên thông, mấtcân đối.– Quản lý nhà nước trong giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập, chậm đổi mới, lànguyên nhân chủ yếu của nhiều nguyên nhân khác; cơ chế quản lý giáo dụcchậm đổi mới, còn nhiều lúng túng, nhận thức rất khác nhau, nhất là trong điềukiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; chưa theo kịp sự đổi mới trên cáclĩnh vực khác của đất nước.– Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên còn nhiều bất cập, đạo đức vànăng lực của một bộ phận còn thấp.– Chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn về công tác xã hội hóa giáo dục; định hướngliên kết với nước ngoài trong phát triển giáo dục còn nhiều lúng túng, chưa xácđịnh rõ phương châm.– Tư duy giáo dục chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu đổi mới-phát triển đấtnước trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; khoa họcgiáo dục chưa được quan tâm đúng mức, chất lượng nghiên cứu khoa học giáodục còn nhiều bất cập.– Các cơ quan chức năng chậm cụ thể hóa những quan điểm của Đảng thành cơchế, chính sách của Nhà nước; thiếu nhạy bén trong công tác tham mưu, thiếunhững quyết sách đồng bộ và hợp lý ở tầm vĩ mô (có khi chính sách được banhành rồi nhưng chỉ đạo tổ chức thực hiện không đến nơi đến chốn, kém hiệuquả); một số chính sách về giáo dục còn chủ quan, duy ý chí, xa thực tế, thiếu sựđồng thuận của xã hội.Những vấn đề, những yếu kém và bất cập nêu trên của giáo dục không thể giảiquyết khắc phục được căn bản chỉ bằng các giải pháp cục bộ, đơn lẻ, bề mặt nhấtthời, thiếu chiến lược và tầm nhìn dài hạn, thiếu tính đồng bộ và hệ thống, chưađạt tới chiều sâu bản chất của vấn đề. Để giải quyết được căn bản những vấn đềđặt ra, những người lãnh đạo – quản lý, những nhà khoa học, những người làmgiáo dục phải có cách nhìn toàn diện, đầy đủ, khách quan, như các văn kiện củaĐảng đã nêu, sâu hơn, bản chất hơn những gì nêu trên báo chí và những báo cáotổng kết thành tích.V. Nguyên nhân .1. Về phía người dạy8Mặc dù chất lượng và số lượng của lực lượng đội ngũ giảng viên ngày một nângcao nhưng phương pháp giảng dạy vẫn chủ yếu mang tính thuyết giảng, làmngười học tiếp thu một cách thụ động, nội dung giảng dạy mang năng lý thuyết,thiếu cập nhật thực tiễn dẫn tới xơ cứng, giáo điều, tính ứng dụng thấp. Mặtkhác, việc sử dụng các phương tiện phục vụ cho giảng dạy chưa nhiều do vậymà không thể truyền tải hết lượng thông tin cần cung cấp cho người học, số thờigian của giảng viên dành cho lên lớp tại các trường quá lớn, cho nên hạn chếthời gian nghiên cứu khoa học và nghiên cứu thực tế. Đời sống của ngưới Thầycòn nhiều khó khăn : Hiện nay giáo viên đang được hưởng mức lương thuộcnhóm cao, nhưng thực tế xã hội ta hiện nay không sống bằng lương , các ngànhkhác lương thấp nhưng cuộc sống thoải mái hơn nhiều. Đây là vấn đề cần phảixem lại chính sách lương bổng của chúng ta đối với thầy cô giáo. Nếu chúng tathử tính một gia đình nhà giáo , hai người dạy học, có hai con đúng tiêu chuẩn,nếu họ là nhà giáo chân chính, chuyên tâm dạy học thì với đồng lương của họnuôi con đi học tới lớp mấy ?2. Về phía người họcChất lượng đầu vào của nhiều cơ sở đào tạo đại học quá thấp, thấp đến mứckhông thể thấp hơn được nữa, chủ yếu tập trung vào các trường xét tuyển, tínhchủ động sáng tạo trong học tập và nghiên cứu của sinh viên nhìn chung chưacao, thiếu tư duy khoa học, đại đa số học thụ động, học theo phong trào, học choqua “học theo hội chứng bằng cấp” , do vậy khi tốt nghiệp chưa đủ kiến thức đểđáp ứng được yêu cầu bức xúc của thực tế và bị thực tiễn chối bỏ. Chỉ số chấtlượng đào tạo so với các nước trong khu vực đứng hạng 10 trên 12 nước.3. Về chương trình đào tạoChương trình đào tạo chậm cải tiến đổi mới,,̀ thiếu tính cập nhật, lý thuyết chưagắn với thực tiễn, các môn học quá nhiều và cơ cấu thời lượng chưa hợp lý, dẫntới sinh viên Việt Nam học quá nhiều nhưng kiến thức lại chưa phù hợp với thựctiễn.4. Giáo dục còn quá yếu kém và lạc hậu, thiếu đồng bộ, thiếu đầu tư nâng cấpNhững tồn tại trên đã làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng giáo dục đào tạo đạihọc mà nguyên nhân chính vẫn là tư duy của người dạy, người học và cơ chếquản lý chưa phù hợp đã tạo những “Sản phẩm” chất lượng kém vừa thiếu kiếnthức, kỹ năng nghề nghiệp, phương pháp làm việc vừa kém về năng lực nhậnthức, tư duy và phương pháp nghiên cứu khoa học, xã hội không thừa nhận vàrồi “Sản phẩm” của giáo dục đào tạo đại học không có chỗ đứng trên thị trường,người học xong đại học khó hoặc không tìm được việc làm.9-Nội dung chương trình và sách giáo khoa chưa phù hợp: Hiện nay đang từngbước thực hiện thay sách giáo khoa, đổi mới chương trình, có định hướng giáodục toàn diện cho học sinh, khắc phục những thiếu sót trước đây chủ yếu dạykiến thức, nặng về lý thuyết, chưa quan tâm đến giáo dục tình cảm và hành độngcho học sinh .Ngành giáo dục chậm đổi mới để theo kịp nhu cầu đất nước : Sự phát triển kinhtế của đất nước tạo điều kiện cho truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Namphát triển , hiện nay chúng ta có một xã hội học tập, người người đi học, gần 30triệu học sinh các cấp là một con số khổng lồ, qua các kỳ thi đại học ta thấy cósự chen chúc nhau quá mức, các trung tâm luyện thi, các thầy giáo dạy thêm,học thêm, học sinh cố học để tìm kiếm một trường học thích ứng. Khi một đấtnước có tốc độ phát triển khá cao và đều đặn như hiện nay, các nhà quản lý giáodục phải có biện pháp đón đường , dự kiến những nhu cầu của ngành, của nhândân, của học sinh để có những biện pháp thích hợp.– Cơ chế quản lý đối với ngành giáo dục chưa phù hợp : Hiện nay ngành giáodục các địa phương chịu sự tác động hàng ngang của địa phương nhiều hơn làchịu tác động hàng dọc của Bộ giáo dục – đào tạo. Các trường phổ thông dạyhọc, thi cử đúng như quy chế của Bộ giáo dục – đào tạo, nhưng nếu học sinh thirớt nhiều, lưu ban nhiều thì địa phương sẽ có ý kiến , thậm chí có những ý kiếnchỉ đạo, “bệnh thành tích”có cơ hội để phát triển trong cơ chế quản lý giáo dụchiện nay .VI. Biện pháp thay đổi-coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học.giáo viên cần hiểu rõ học sinh của mình,nắm bắt được điểm mạnh,nhữngtiềm năng của người học để tập giáo dục và định hướng đúnggiáo viên cần hinh dung trước những điều mà người học có khả năng đạtđược để có phương pháp giáo dục hợp lýngười thầy luôn là người khơi dậy ở học sinh nhu cầu tìm tòi,ham họcnội dung phải thiết thuwch ,phù hợp với người học .không lan mangiáo viên đóng vai trò định hướng vô cùng quan trong trong việc pháttriển tâm lý của người họcngười học cần chủ động trong việc tìn tòi học hỏicần tập trung vào thế mạnh ,tiềm năng sẵn có của cá nhân hơn là tập thể10