Quỷ sai là ai

Ðạo lý luân hồi thường được người ta hiểu một cách nông cạn. Hầu hết mọi người khi nghe hai tiếng Luân Hồi đều nghĩ đến một sự tiếp nối sinh hoạt trong nhiều xác thân của một chiếc linh hồn cố định. Người ta nghĩ rằng khi chết, linh hồn sẽ rời khỏi xác thân để đi vất vơ vất vưởng trong hư không, đợi nhập vào một xác thân mới sinh, hoặc là xuống âm phủ chịu cực hình trước khi đi đầu thai làm thân người hay thân trâu ngựa …

Thực ra, đạo Phật chủ trương rằng sau khi con người chết, không có cái gì thoát ra ngoài xác thân để rồi nhập vào một xác thân khác cả. Như chúng ta đã thấy trong bài trước, đạo Phật dạy rằng sinh mạng là sự cấu hợp liên tục của ngũ uẩn, tức là những yếu tố sinh lý, tâm lý [sắc, thọ, tưởng, hành, thức]. Sắc uẩn là phần vật chất. Thọ uẩn [sensations], tưởng uẩn [perceptions], hành uẩn [formationss mentales] và thức uẩn [conscience] là phần tinh thần. Những tác dụng tinh thần nầy chỉ có thể “hiện hành” được khi có căn cứ phát sinh. Căn cứ phát sinh đó là phần thể xác, sinh lý; cũng vì thế mà thể xác được gọi là thân căn. Nếu thân căn thiêu hoại, các tác dụng tâm lý kia không hiện hành nữa mà trở lại thế tiềm phục, nghĩa là trở thành chủng tử.

Nếu căn thân là một cấu hợp của tứ đại chủng, luôn luôn chuyển biến, thì những tác dụng tinh thần kia cũng hợp thành một dòng liên tục biến động không ngừng. Con người của ta đổi mới từng giây phút; thân xác trong giờ phút trước. Dòng tâm lý kia cũng vậy, luôn luôn biến động. Mỗi phút, có những cảm giác mới, những tư tưởng mới, đến thay cho những cảm giác và những tư tưởng cũ đang phai dần, hoặc đang nép sâu vào ký ức - đang lùi về tiềm thế chủng tử – Vì luôn luôn biến chuyển, nên dòng tâm lý ấy không phải là một cá thể đồng nhất, vĩnh cữu, do đó, không thể gọi là một bản ngã được. Cái mà người ta cho là linh hồn phải là một bản ngã đồng nhất, bất biến, làm chủ thể cho sinh mạng. Ở đây, đạo Phật chủ trương không có bản ngã, nghĩa là không có linh hồn: những tác dụng tâm lý của con người vẫn chỉ là những tác dụng tâm lý. Chúng phát hiện và hoạt động khi có điều kiện [thân căn sinh hoạt] và trở về trạng thái chủng tử tiềm phục khi các điều kiện kia tan rã [thân căn tiêu hoại].

Nhiều người quả quyết rằng núp sau các hiện tượng sinh lý vật lý luôn luôn biến chuyển kia, phải có một yếu tố bất biến. Chính yếu tố đó là linh hồn, và chính linh hồn đó tự nhận mình là một bản ngã. Nếu không có linh hồn đó thì làm sao giải nghĩa được cái tính chất đồng nhất nó tồn tại qua mọi biến chuyển, tính chất đồng nhất mà mọi người đều cảm thấy ở tự thân mình hoặc ở bản thân một người khác.

Nhưng xét kỹ, tính chất đồng nhất ấy chẳng cần đòi hỏi sự hiện hữu của một bản ngã, một linh hồn nào cả.

Năm ngoái, tôi có mua một chiếc ghế gỗ để ngồi. Năm nay, cái ghế ấy đã cũ đi nhiều, đã thay đổi nhiều, vì nó đã gảy mất một cái chân và tróc mất lớp vảy ở ngoài. Tuy nhiên tôi vẫn biết rằng cái ghế ấy chính là cái ghế mà tôi mua năm ngoái. Vậy thì do đâu mà tôi nhận ra được tính chất đồng nhất của cái ghế trong “lịch trình biến chuyển” của nó? Phải chăng vì cái ghế kia có chứa đựng một “yếu tố bất biến”, một linh hồn? Nếu thế cái “yếu tố bất biến” ấy của cái ghế mới được gọi là gì? Chẳng lẽ gọi là linh hồn của cái ghế, hay là bản ngã của cái ghế ?

Cho nên, không có yếu tố nào bất biến, nghĩa là không có linh hồn, không có bản ngã. Chỉ có những hiện tượng vật lý và tâm lý chuyển biến.

Vậy thì nhờ đâu mà ta cảm thấy tính chất đồng nhất của một vật? Theo Phật Học sở dĩ qua sự chuyển biến ta vẫn cảm thấy có một cái gì đồng nhất là vì ta có một vọng tưởng. Thứ vọng tưởng đó do giả tướng liên tục gây nên.

Các hiện tượng luôn luôn biến diệt và sinh thành, từ chủng tử trở nên hiện hành, từ hiện hành quay về chủng tử. Sự biến diệt sinh thành ấy xảy ra mau chóng quá đến nỗi ta không nhận thấy kịp và ta tưởng có một tính cách đồng nhất của cá vật qua thời gian biến chuyển. Cũng như khi ta quay một đốm lửa thành vòng tròn, ta thấy có một “vòng tròn lửa” tồn tại, kỳ thực vòng tròn ấy chỉ là một giả tướng liên tục, cấu hợp nên do những đốm lửa luôn luôn đổi mới.

Gọi là những đốm lửa luôn luôn đổi mới vì tạo nên vòng tròn đó không phải chỉ là một đốm lửa mà là vô số đốm lửa. Ðốm lửa sau vì cháy trên một chất củi khác nên đã không phải là đốm lửa trước nữa. Như thế đốm lửa ở phía trên vòng tròn đã không phải là đốm lửa phía dưới vòng tròn. Tuy vậy, đốm lửa sau cũng không phải là một đốm lửa khác hẳn đốm lửa trước. Vì nếu không có đốm lửa trước thì cũng sẽ không có đốm lửa sau. Ðốm lửa trước làm nhân cho đốm lửa sau. Dây liên tục đó đã gây cho ta vọng tưởng về tính cách đồng nhất. Ðể hiểu rõ, ta nên đọc đoạn nầy trong kinh “Di Lan Ðà vấn đạo” [les Questions du Milinda]:

  • Nầy Ðại Vương! Nếu có người thắp một ngọn đèn lên, ngọn đèn có thể cháy suốt đêm được không?

  • Bạch Ngài, ngọn đèn có thể cháy đến sáng.

  • Vậy ngọn lửa đèn lúc canh một có phải chính là ngọn lửa đèn lúc canh hai không?

  • Bạch Ngài, Không.

  • Ngọn lữa lúc canh hai với ngọn lữa lúc canh ba có phải là một không?

  • Bạch Ngài, cũng không phải.

  • Vậy thì canh một có một cây đèn, canh hai có một cây đèn khác, và canh ba có một cây đèn khác nữa chăng?

  • Bạch Ngài, không. Ánh sáng suốt đêm chỉ do một cây đèn mà tỏa ra thôi.

  • Ðại Vương! Sự liên tục của một người hay một vật cũng vậy. Con người của phút nầy sinh, thì con người của phút trước diệt, dòng liên tục không ngừng. Con người phút sau không phải là “một” với con người phút trước, nhưng cũng không phải là “khác” với con người phút trước. Như thế, con người liên tục mãi cho đến giai đoạn cuối cùng của ý thức bản ngã.

Ta có thể tạm ví xác thân ta với cây đèn, bấc, dầu; và tinh thần ta với ngọn lửa đèn, cả hai đều biến chuyển không dừng, không phải “đồng nhất” mà cũng không phải “sai dị” [phi nhất phi dị].

Bản thân ta [gồm cả tinh thần lẫn vật chất] không phải là một cá thể đồng nhất bất biến, mà là một dòng liên tục thường biến. Chính cái giả tướng "một dòng liên tục’ ấy đã gây cho ta ý niệm về tính cách đồng nhất của mọi vật và của chính bản thân ta.

Nếu không có một bản ngã bất biến, một linh hồn – thì cái gì đi luân hồi, cái gì đi đầu thai, cái gì làm chủ thể cho dòng sinh tử?

Câu hỏi ấy là một thắc mắc lớn lao cho nhiều người. Chúng ta thường thấy trong kinh Phật có những câu chuyện luân hồi nhân quả mà trong đó, một người chết ở thành Ba La Nại có thể đầu thai thành một con vật ở thành Ca Tỳ La…Vậy cái gì thoát khỏi xác thân người kia để đi đến thành Ca Tỳ La nhập vào xác con vật nọ? Làm sao cái chết của một sinh vật lại được nối tiếp với cái sanh của một sinh vật khác?

Ta đã thấy rằng đạo Phật không công nhận linh hồn, và do đó không nhận rằng có linh hồn di chuyển. Ðạo Phật chỉ chủ trương nhân quả [Patica Samuppada]: một hậu quả nào phát sinh cũng phải có những nguyên do tiền hữu. Còn dục vọng, còn ham muốn thì vẫn còn sự sống. Trong thời gian dục vọng còn tồn tại, các chủng tử trong A Lại Gia phần nhiều còn là hữu lậu, nghĩa là còn khuynh hướng phát hiện sinh tử.

Nếu sau khi đời sống chấm đứt mà dục vọng đều đã tiêu diệt hết, vô minh không còn hiện hữu và các chủng tử đã trở thành vô lậu. A Lại Gia trở về thể nhập với bản thể sáng suốt, thì dòng sinh mạng không còn tiếp diễn nữa. Nhưng nếu dục vọng vẫn còn, thì A Lại Gia còn nằm trong trạng thái ô nhiễm, chưa có thể giải thoát luân hồi được. Do đó, dòng sinh mệnh phải được tiếp nối.

Trong cuốn “The Dhamma of Buddha”, Ðại Ðức Jagdish Kasyapa có viết một đoạn đại ý như sau về vấn đề luân hồi" Ai cũng biết trận giặc trăm năm [La guerre de Cent ans] giữa Pháp và Anh. Gọi là trận trăm năm, nghĩa là có nhiều trận giặc nối tiếp nhau trong vòng một trăm năm, chứ không phải chỉ là một trận kéo dài trong một trăm năm. Các trận giặc nhỏ kia xảy ra ở những thời gian khác nhau ở những địa điểm khác nhau, và với những chiến binh chiến cụ luôn luôn đổi mới. Nhưng sao tất cả các trận nhỏ ấy lại được gồm lại trong một ý niệm “trận giặc trăm năm”? Tại sao đánh một vài trận rồi người ta không thôi đi, để cứ tiếp tục đánh thêm nhiều trận khác? Có phải là vì do ý tưởng thù nghịch giữa hai nước đang còn không?

Vậy “ý tưởng thù nghịch” kia là nguyên do cho cuộc chiến tranh và cho sự tiếp nối liên tục của các trận đánh. Còn ý tưởng ấy thì các trận đánh vẫn còn tiếp diễn. Cũng như thế, còn dục vọng thì còn phải tiếp tục sinh tử, với một thân căn mới, một hoàn cảnh mới, một thế giới mới.

Một đợt sóng ở đây xuất hiện. Vì đâu? Vì một sức đẩy ở đàng kia. Ðợt sóng nầy lên rồi xuống, và khi xuống, tạo thành một sức đẩy mới. Do sức đẩy nầy mà đàng xa kia phát sinh một đợt sóng khác: chính đợt sóng khác ấy là kết quả của đợt sóng nầy, tiếp nối do đợt sóng nầy vậy. Giai đoạn sinh mệnh trước tạo nghiệp nhân mê lầm sinh tử cho giai đoạn sinh mệnh sau; giai đoạn sinh mệnh sau tạo nghiệp nhân cho giai đoạn sinh mệnh sau nữa, và cứ như thế mãi.

Tất cả những nghiệp nhân của ta về ngôn ngữ, ý nghĩ, hành vi, cùng tất cả những ảnh tượng, cảm giác đều trở về tiềm phục trong A Lại Gia của ta, không hề mất đi đâu cả. Chúng tạo thành một động lực, gọi là “nghiệp lực”, đẩy chúng ta vào một giai đoạn sinh mệnh mới, một kiếp sống mới.

Vấn đề luân hồi trong đạo Phật là một vấn đề sâu xa, cầu phải tìm hiểu lâu dài. Bài nầy chỉ có thể gợi được một vài ý niệm căn bản đủ để độc giả có thể phá bỏ những thành kiến từ xưa về luân hồi mà thôi vậy.

Nếu không có linh hồn, thì địa ngục có hay không? Ngạ Quỷ là ai? Nhà họ ở đâu? Họ sống bằng cách nào? Lễ Vu Lan có phải cũng là lễ cúng cô hồn hay không?

Ngày đại lễ Vu Lan có phần cúng Mông Sơn Thí Thực, người hay đi chùa chỉ nghe nói cúng Mông Sơn, mà ít nghe nói cúng thí. Vậy Mông Sơn Thí Thực, bốn chữ này phải có ý nghĩa gì đặc biệt mà người ta phải dùng?. Một mâm lễ nhỏ, một nồi cháo trắng gọi là cúng cháo. Tại sao phải cúng cháo?

Qua cái nhìn của Văn hóa và Tôn giáo Việt Nam, thì con người gồm có một phần xác và một phần hồn. Khi phần xác chết thì phần hồn sẽ lìa khỏi xác và phần này được gọi là linh hồn. Nếu linh hồn đó không có cơ hội đầu thai hoặc nơi trú ngụ, mà còn vương vất ở những nơi có liên quan đến họ khi còn sống, thì từ ngữ bình dân thường gọi là: Ma, Hồn ma, Quỷ, Cô hồn…

Ma hay Hồn ma, là một khái niệm trừu tượng, trên thực tế, khi nói đến ma người ta thường diễn tả thấy một dáng người, trắng bạc, hay một cái bóng lờ mờ, hoặc một đống đen thùi lùi, còn chỗ ở của ma là những ngôi mộ, nhưng ma cũng có thể vương vất ở những nơi tăm tối, vắng vẻ. Theo quan điểm một số người nói là: chỉ có người có duyên với Ma thì mới có thể nhìn thấy được Ma hay những người có khả năng đặc biệt còn gọi là các nhà ngoại cảm là có thể thấy và nói chuyện được với Ma.

Một số khác cho rằng Ma có thể biết được tất cả những gì người sống nghĩ và các việc đã, đang và sắp xảy ra như kết quả xổ số, đồng thời cũng có khả năng tác nhập xác của người sống như hiện tượng lên đồng, tác động lên cảm quan người sống như dắt người sống đi lạc vào bụi, xúi người sống ăn đất mà tưởng ăn bánh hoặc ma có thể tác động lên vật chất như tạo ra tiếng động, rung cây, xô lệch bàn ghế… Đại đa số người ta chỉ nói: Ma chỉ nhát người chứ không hại người. Những người thường hay tin có Ma là phụ nữ, trẻ em, người già, sống ở vùng miền quê.

Ảnh minh họa

Ngày nay, Ma vẫn là bí ẩn đối với nhân loại, có những câu chuyện nói về Ma, nhưng cũng không thể kết luận được là có Ma. Sự bí ẩn này còn bị hạn chế trong tầm hiểu biết của con người. Các nhà cận tâm lý học có rất nhiều nghiên cứu về hiện tượng ma quỷ nhưng vẫn chưa có khẳng định khoa học nào.

Theo các giả thuyết khoa học Ma có thể là do các sóng hạ âm gây ra, gió biển mạnh thổi nhanh dọc theo các hành lang và tháp canh của những lâu đài và biệt thự cổ tạo ra các sóng hạ âm được cho là nguyên nhân gây ra hiện tượng nghe tiếng ma ở các nơi này.

Các nhà khoa học còn có giả thuyết: Mỗi con người chúng ta đều phát ra một từ trường có tần số dao động riêng, khi ta chết đi, nguồn sóng từ trường vẫn tồn tại. Khi có một ai đó có tần số phù hợp, sẽ kích thích từ trường này, làm cho người xung quanh nơi đó thấy lại những cảnh sinh hoạt trước đây của người chết.

Trong tín ngưỡng dân gian, người ta thường dùng các loại bùa chú, thánh giá, máu chó, tỏi, củ hành, cây dâu, cây đồng đình… để trừ ma, nhưng đôi khi các vật này không tác dụng gì với Ma mà họ cũng chẳng giải thích được tại sao Ma lại không sợ. Các thầy ngải dùng linh hồn, thường là chết oan, để trù ếm và luyện các các loại ngải có tác dụng hại người.

Mỗi quốc gia đều có những huyền thoại về Ma khác nhau, do đó Ma cũng trở thành đa dạng. Thí dụ như ở Việt Nam có ma da, ma le, ma gà, ma lai, ma trơi, ma không đầu, ma lưỡi dài, ma một mắt, ma cổ dài…Ở phương Tây thì có ma sói, ma cây, ma cà rồng.

Theo Phật giáo, Ma gọi đúng hơn là ngạ quỷ, là một trong lục đạo luân hồi, xếp trên súc sanh và địa ngục. Loài ngạ quỷ có hai nơi ở, một là nước Diêm La của nó, hai là sống trên dương gian cùng với người, vì vậy người ta hay nói đi đêm có khi gặp quỷ. Cuốn Petavatthu [Peta = Quỹ + vatthu = Truyện] là quyển sách thứ bảy trong Khuddaka Nikaya.

Ảnh minh họa

Khuddaka Nikàya là quyển thứ năm của bộ Kinh Tạng [Sutta Pitaka]. Bộ kinh này gồm có: Trường Bộ [Digha Nikaya], Trung Bộ [Majjhima Nikaya], Tương Ưng Bộ [Samyutta Nikaya], Tăng Chi Bộ [Anguttara Nikaya], và Tiểu Bộ [Khuddaka Nikaya].

Con người được coi như một tiểu thiên địa, một vũ trụ thu nhỏ. Vũ trụ bao la có vô số hệ mặt trời có sự sống giống như trái đất. Một hệ mặt trời mà có 1 hành tinh có sự sống có thể tạm gọi là Tam Giới.

Trong ABHIDHAMMA chương 10 có nói về Tam Giới và nó có 31 cõi được phân loại như sau: 11 cõi dục giới, 16 cõi sắc giới, 4 cõi vô sắc giới. Mỗi cõi có cấu tạo vật chất hoàn toàn khác nhau. Tiểu Thế Giới gồm 1.000 cái Tam Giới, Trung Thế Giới gồm 1.000 Tiểu Thế Giới, Đại Thế Giới gồm 1.000 Trung Thế Giới. Còn Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới là vô tận.

Tam giới phát triển qua 4 giai đoạn: Thành, Trụ, Hoại, Không. Một chu kỳ Thành, Trụ, Hoại, Không của Tam Giới gọi là Trụ Kiếp, 4 Trụ Kiếp được gọi là Đại Kiếp. Các dạng sống trên Tam Giới thường khởi đầu bằng sự Hóa Sanh khi hội đủ Duyên hay điều kiện. Sau đó mới có Thai Sanh, Noãn Sanh. Một năm thế gian tính tương đối là 365 ngày.

Dục giới gồm có 11 cõi : 4 cõi khổ và 7 cõi thiện dục giới như sau:

1. Ðịa Ngục [Niraya]: Cõi này chỉ có mọi sự thống khổ chứ không có sự an vui, nơi mà các chúng sinh Tự Trừng Phạt do các Ác Nghiệp đã tạo. Cõi khổ có tuổi thọ không nhất định.

2. Ngạ Quỹ [Pettivisaya]: Chúng không phải là ma quỹ vô hình, chúng có sắc thân nhưng mắt người không thể thấy được. Chúng không có cảnh giới riêng và luôn luôn bị đói khát. Chúng sống ở nhiều nơi khác nhau, nhà dân, rừng núi, hang động hay các chỗ nhớp nhúa. . . Cõi khổ có tuổi thọ không nhất định.

3. Súc Sanh [Tiricchānayoni]: Các sinh vật đi ngang, bò đi, không đi thẳng như người, còn gọi là Bàng sanh, gần như là tất cả sinh vật bình thường trừ con người. Cõi khổ có tuổi thọ không nhất định.

4. A-Tu-La [Asurakāya]: Asura nghĩa là những vị không có hoan lạc hay không chói sáng. Những chúng sanh này rất hung dữ, hay gây gổ. Loại A-Tu-La sanh ở đây không giống với loại A-Tu-La chư thiên chuyên gây chiến với chư thiên và sống ở cõi Tam Thập Tam Thiên. Cõi khổ có tuổi thọ không nhất định.

5. Cõi người [Manussa]: những người có tâm cao thượng, do đó phải hiểu rằng được làm người là rất khó, tất cả mọi đứa trẻ bình thường được sinh ra đều là những thiên thần, chính cuộc sống và những người xung quanh biến chúng thành quái dị, con người là cái gì đó rất thiêng liêng và cao quý.

6. Tứ Thiên Vương [Cātummahārājika]: đây là cõi thấp nhất trong các cõi chư thiên. Tuổi thọ 9.000.000 tuổi người. Dưới nó còn có các chư thần thấp hơn như sơn thần, thổ địa, thánh mẫu . . . [thường 1 ngày của họ bằng 1 tháng, 1 năm hoặc hơn tùy theo tầng cao hay thấp]

7. Tam Thập Tam Thiên [Tāvatimsa]: Ðế Thích [Magha] cư ngụ ở đây. Sở dĩ gọi như vậy vì theo tích truyện có 33 vị dưới sự hướng dẩn của Ðế Thích đã làm những việc thiện và được tục sinh tại đây. Tuổi thọ 36.000.000 tuổi người.

8. Dạ Ma Thiên [Yāma]: Yam nghĩa là tàn phá, diệt trừ. Nơi đây mọi đau khổ đều được trừ diệt. Tuổi thọ 144.000.000 tuổi người.

9. Ðâu Suất Ðà Thiên [Tusita]: những vị sống sung sướng. Theo tục truyền, vị Bồ Tác tương lai [Di Lặc] đang sống tại đây và chờ cơ hội thuận tiện để tái sinh làm người và thành Phật. Tuổi thọ 576.000.000 tuổi người.

10. Hóa Lạc Thiên [Nimmānarati]: những vị sống hoan lạc trong những lâu đài tự tạo ra. Tuổi thọ 2.304.000.000 tuổi người.

11. Tha Hóa Tự Tại Thiên [Paranimmitavasavatti]: những vị đem dưới quyền của mình các vật do các vị khác đã hóa hiện. Tuổi thọ 9.216.000.000 tuổi người.

Ảnh minh họa

Sắc Giới gồm 16 cõi:

Cõi Sơ Thiền Sắc Giới có:

Phạm Chúng Thiên [Brahmapārisajjā]: đây là cảnh giới thấp nhất. Những vị sanh ra ở đây là đồ chúng của Ðại Phạm Thiên [Mahābrahmā]. Tuổi thọ 1/3 Trụ Kiếp.

Phạm Phụ Thiên [Brahmapurohitā]: những vị sanh ra ở đây sẽ là phụ tá cho Ðại Phạm Thiên. Tuổi thọ 1/2 Trụ Kiếp.

Ðại Phạm Thiên [Mahābrahmā]: các vị sanh ở đây có hình thái đẹp, hưởng nhiều hạnh phúc và sông lâu hơn các vị sinh trong 2 cảnh trời trên. Tuổi thọ 1 Trụ Kiếp.

Cõi Nhị Thiền Sắc Giới có:

Thiểu Quang Thiên [Parittābhā]. Tuổi thọ 2 Đại Kiếp.

Vô Lượng Quang Thiên [Appamānābhā]. Tuổi thọ 4 Đại Kiếp.

Quang Âm Thiên [Ābhassarā]. Tuổi thọ 8 Đại Kiếp.

Cõi Tam Thiền Sắc Giới :

Thiểu Tịnh Thiên [Parittasubhā]. Tuổi thọ 16 Đại Kiếp.

Vô Lượng Tịnh Thiên[Appamanāsubhā]. Tuổi thọ 32 Đại Kiếp.

Biến Tịnh Thiên [Subhakinhā]. Tuổi thọ 64 Đại Kiếp.

Cõi Tứ Thiền Sắc Giới có:

Quảng Quả Thiên [Vehapphalā]. Tuổi thọ 500 đại kiếp.

Vô Tưởng Thiên [Asaññasattā]. Tuổi thọ 500 đại kiếp.

Vô Phiền Thiên [Avihā]. Tuổi thọ 1.000 đại kiếp, nhóm cõi Phước Sanh Thiên.

Vô Nhiệt Thiên [Atappā]. Tuổi thọ 2.000 đại kiếp, nhóm cõi Phước Sanh Thiên.

Thiện Hiện Thiên [Sudassā]. Tuổi thọ 4.000 đại kiếp, nhóm cõi Phước Sanh Thiên.

Thiện Kiến Thiên [Sudassì]. Tuổi thọ 8.000 đại kiếp, nhóm cõi Phước Sanh Thiên.

Sắc Cứu Kính Thiên [Akaniṭṭhā]. Tuổi thọ 16.000 đại kiếp, nhóm cõi Phước Sanh Thiên.

Vô Sắc Giới gồm 4 cõi:

Không Vô Biên Xứ Thiên [Ākāsānañcāyatanabhūmi]. Tuổi thọ 20.000 đại kiếp.

Thức Vô Biên Xứ Thiên [Viññānancāyatanabhūmi]. Tuổi thọ 40.000 đại kiếp.

Vô Hữu Xứ Thiên [Ākiñcāññāyatanabhūmi]. Tuổi thọ 60.000 đại kiếp.

Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thiên. [Nevasaññānāsaññāyatanabhūmi]. Tuổi thọ 84.000 đại kiếp.

Theo lời của Đức Phật Thích Ca thì có thể Thiền Tuệ đạt đến Diệt Thọ Tưởng Định, lúc đó sẽ là Vô Sinh – Vô Diệt, thoát khỏi sinh tử luân hồi.

Ngạ Quỷ là ai? Nhà họ ở đâu? Họ sống bằng cách nào?

Ảnh minh họa

Trong cõi khổ thứ hai có tuổi thọ không nhất định của Dục giới có miêu tả về Ngạ Quỷ [Pali gọi là Pettivisaya]. Chúng không phải là ma quỷ vô hình, chúng có sắc thân nhưng mắt người không thể thấy được. Chúng không có cảnh giới riêng và luôn luôn bị đói khát. Chúng sống ở nhiều nơi khác nhau, nhà dân, rừng núi, hang động hay các chỗ nhớp nhúa.

Từ Pettivisaya trong tiếng Pali được định nghĩa như sau:

Petā có nghĩa là cách ly sự an lạc, xuất nguồn từ câu: Sukhasamussayato Pākaṭṭho entīti.

Petti là Hội chúng của Ngạ quỷ xuất nguồn từ câu: Petānaṃ samūho.

Pettivisayo là chỗ ở, chỗ sanh của Ngạ quỷ xuất nguồn từ câu: Pettiyā visayo.

Ngạ quỷ cũng có nhiều loại, Ngạ quỷ nhỏ, Ngạ quỷ lớn, Ngạ quỷ biến hóa thành hình ảnh đẹp hoặc hình ành xấu. Về hình đẹp thì cho thấy dạng, nam, nữ, đạo sĩ, Sa di, Tỳ khưu. Còn xấu thì cho thấy là trâu, bò, voi, chó với hình dạng kinh khiếp như có đầu to, mắt lồi và có khi không hiện rõ…

Trong các loài Ngạ quỷ cũng có những loại phải chịu đói khát khổ sở, ăn những cặn bã được quăng bỏ ở những nơi dơ bẩn hay ăn đàm, mũ, nước miếng và phẩn …

Phẩm Lokapaññatti có ghi rằng: ” Yattha petanagare petamahiddhiko sabbapetānaṃ issariyādhipaccankaroti”.

Rừng Vijjhātīavī là kinh thành của loài Ngạ quỷ, và Ngạ quỷ Mahiddhika là vị chúa tể cai trị tất cả các Ngạ quỷ khác.

Đây là 12 loại Ngạ quỷ được điển hình trong phẩm Lokapaññatti và Gacchatidīpanī:

1- Vantāsapetā hay Vantāsa: Ngạ quỷ ăn nước miếng, đàm, vật nôn mữa. Nguyên nghĩa Pali : Vantaṃ asati bhakkhatīti = Vantāso.

2- KuṇApāsapetā hay Kuṇapāsa: Ngạ quỷ ăn tử thi người hoặc thú. Nguyên nghĩa Pali: Kunapaṃ arati dakkhatīti = Kuṇapāso.

3- Gūthakhādakapetā hay Gūthakhādaka: Ngạ quỷ ăn phẩn. Nguyên nghĩa Pali: Gūthaṃ khādatīti = Gūthakhadako.

4- Aggijālamukhapetā hay Aggijālamukha: Ngạ quỷ thường có lửa trong miệng. Nguyên nghĩa Pali : Aggijālamukhatā etassāti = Aggījālamukho.

5- Sucimukhapetā hay Sūcimukha: Ngạ quỷ có miệng bằng lổ kim. Nguyên nghĩa Pali : Sūcipamānaṃ sukhaṃ etassāti = Sūcimukho.

6- Taṇhaṭṭikapetā hay Taṇhāhaṭṭita: Ngạ quỷ thường bị ái bức hại cho đói khát. Nguyên nghĩa Pali : Taṇhāya aṭṭhito pūḷitoti = Taṇhāhaṭṭito.

7- Sunijjhāmakapetā hay Sunijjhāmaka : Ngạ quỷ có thân đen như than. Nguyên nghĩa Pali: Suṭṭhu nissesena jhāno= Sunijjhāmo, Sunijjhāmo viyāti= Sunijjhāmako. Cây bị lửa đốt hết cành, lá, thân, chỉ còn lại gốc cây bị cháy gọi là Sunijjhāmaka.

8- Suttaṅgapetā hay Suttaṅga: Ngạ quỷ có móng tay nhỏ, móng chân dài và bén nhọn như dao. Nguyên nghĩa Pali : Sattasadisaṃ aṅgaṃ etassāti = Suttaṅgo.

9- Pabbataṅgapetā hay Pabbataṅgo: Ngạ quỷ có thân cao lớn bằng quả núi. Nguyên nghĩa Pali: Pabbatappamaṇo aṅgo etassāti = Pabbataṅgo.

10- Ajagaraṅgapetā hay Ajagaraṅga: Ngạ quỷ có thân giống như con trăn. Nguyên nghĩa Pali: Ajagarasadiso aṅgo etassāti = Ajararaṅgo.

11- Vemānikapetā hay Vemānika: Ngạ quỷ bị cảm thọ khổ lúc ban ngày, nhưng ban đêm được thọ hưởng lạc trong Thiên cung. Nguyên nghĩa Pali : Vimāne nibbattoti = Vemāniko.

12- Mahiddhikapetā hay Mahiddhika: Ngạ quỷ có Đại thần lực. Nguyên nghĩa Pali : Mahatiyā iddhiyā samannāgatoti = Mahiddhiko.

Petavatthu và Aṭṭhakathā, ṭīkā cũng có ghi bốn loại Ngạ quỷ thường được kể trong chủ đề của họ như là:

1- Parehidattaṃ upanissāya jīvatīti = paradattupajīviko. Vì sống phải dựa vào người khác nuôi, nên người ta đặt tên nó là Ngạ quỷ Paradattupajīvika.

2- Khudā ca pīpāsā ca = Khuppipāsā [Đói và khát]. KhuppiPāsāhi pilito = KhuppiPāsiko[sự đói khát]. Khuppipāsika là Ngạ quỷ đói và khát.

3- Nijjhāmena taṅhā etassāti = Nijjhāmataṇhiko. Vì có sự thèm ái dục hay sự đói khát thường xuyên và liên hệ từ lửa cháy trong miệng cho nên Ngạ quỷ này được gọi là Nijjhāmataṇhika.

4- Ngạ quỷ Kaḷakañcika này khỏi phải định nghĩa, vì là tên của Atula, như trong Pātheyyavagga aṭṭhakathā có ghi rằng: “Kālakañcikāti tesaṃ asurānaṃ nāmaṃ”. Gọi là Kālakañcika này là tên của Atula thuộc loài Ngạ quỷ.

Vài loài Ngạ quỷ mà Bồ-tát không sanh vào là:

1- Ngạ quỷ KhuppiPāsika

2- Ngạ quỷ Nijjhāmataṇhika

3- Ngạ quỷ Kālakañcika

Ngoài các loại Ngạ quỷ đã kể trên, còn có nhiều loại khác, như Ngạ quỷ Suciloma là loại Ngạ quỷ có lông như kim, Ngạ quỷ Kharaloma là Ngạ quỷ có lông thô, Ngạ quỷ Ghanakha là Ngạ quỷ có móng tay và móng chân dài.

Theo Lakkhaṇasamyutta có 21 loại Ngạ quỷ được trình bày như sau:

1. Aṭṭhisaṅkhasikapetā: Ngạ quỷ có xương dính với nhau thành từng khúc, nhưng không có thịt.

2. Maṃsapesikapetā: Ngạ quỷ có thịt thành từng mãnh, nhưng không có xương.

3. Maṃsapiṇḍapetā: Ngạ quỷ có thịt thành từng cục, thành khối.

4. Nicchaviparisapetā: Ngạ quỉ không có da.

5. Asilomapetā: Ngạ quỷ có lông như gươm.

6. Sattilomapetā: Ngạ quỷ có lông như giáo.

7. Usulomapetā: Ngạ quỷ có lông như cây tên.

8. Sūcilomapetā: Ngạ quỷ có lông như kim.

9. Dutiyasūcilomapetā: Ngạ quỷ có lông như kim, loại thứ hai.

10. Kumbhaṇḍapetā: Ngạ quỷ có hòn dái rất to.

11. Gūthakūpanimuggapetā: Ngạ quỷ chìm ngập trong phẩn.

12. Gūthakhādakapetā: Ngạ quỷ ăn phẩn.

13. Nicchavitakipetā: Ngạ quỷ cái không có da.

14. Duggandhapetā: Ngạ quỷ có mùi hôi thối.

15. Ogilinīpetā: Ngạ quỷ có thân như cây đuốc, lửa.

16. Asisapetā: Ngạ quỷ không có đầu.

17. Bhikkhupetā: Ngạ quỷ có hình tướng giống Tỳ khưu.

18. Bhikkhunīpetā: Ngạ quỷ có hình tướng giống Tỳ khưu ni.

19. Sikkhāmānapetā: Ngạ quỷ có hình tướng giống học nữ.

20. Sāmaṇerapetā: Ngạ quỷ có hình tướng giống Sa di.

21. Sāmaṇerīpetā: Ngạ quỷ có hình tướng giống Sa di ni.

Nhận thấy sự khổ đau cùng tột của loài ngạ quỷ mang hình thù quái vị, bởi do nghiệp chướng, tham lam bòn sẻn đời trước mà chiêu cảm quả báo đời này. Ðức Phật với tâm từ bi vô tận đã thuyết ra nhiều pháp môn phương tiện để cứu độ. Một trong các pháp môn phương tiện để cứu độ loài ngạ quỷ đó là pháp chẩn tế cô hồn.

Trong pháp nghi này, Ðức Phật đã thuyết ra rất nhiều chơn ngôn thần chú, như Phổ triệu thỉnh chơn ngôn, Tịnh nghiệp chướng chơn ngôn, Phá địa ngục chơn ngôn, Khai yết hầu chơn ngôn, Biến thực chơn ngôn, Biến thủy chơn ngôn…để chỉ cho họ thấy được đâu là nẻo chánh đường tà, khiến họ dứt trừ được tâm tham lam bỏn sẻn, hồi tâm hướng thiện một lòng tu hành, được vĩnh viễn thoát hẳn các sự khổ não của cảnh giới ngạ quỷ.

Ðấy chính là tác dụng và mục đích của pháp chẩn tế cô hồn, mà trong các chùa, sau khi kết thúc bất kỳ một pháp sự nào, đều có tổ chức nghi thức cúng cô hồn này.

Ảnh minh họa

Ngày đại lễ Vu Lan có phần cúng Mông Sơn Thí Thực, người hay đi chùa chỉ nghe nói cúng Mông Sơn, mà ít nghe nói cúng thí. Vậy Mông Sơn Thí Thực, bốn chữ này phải có ý nghĩa gì đặc biệt mà người ta phải dùng ?. Qua hai truyền thuyết ghi laị trong 2 bộ kinh khác nhau :

Kinh Vu Lan [phạn ngữ gọi là Ullambana có gốc từ động từ căn là ud-√lamb, có nghĩa treo ngược lên, và các dịch giả Trung Quốc dùng từ đảo huyền treo ngược lên cho từ Vu lan, chỉ sự khổ đau kinh khủng khi sa đọa địa ngục].

Lễ Vu Lan xuất phát từ truyền thuyết về Bồ tát Mục Kiền Liên đại hiếu, nghe theo lời dạy của Ðức Phật, đã lập trai đàn cầu nguyện vào ngày rằm tháng 7 để cứu mẹ của mình ra khỏi kiếp ngạ quỷ, và ngày này đã trở thành ngày lễ hằng năm để tỏ hiếu với cha mẹ, ông bà và cũng để giúp đỡ những linh hồn đói khát trong một số nước Á Đông.

Ở Nhật ngày lễ này được tổ chức vào ngày 7 tháng 7 để tỏ những ước nguyện của mình, người ta thường viết ước nguyện rồi treo vào cây trúc với mong ước điều ước đó sẽ trở thành hiện thực. Phương thức cúng dường để cầu siêu gọi là Vu Lan bồn pháp, lễ cúng mang tên là Vu Lan bồn hội, và bộ kinh là Vu Lan bồn. Kinh này do ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào thời Tây Tấn [265-316].

Lễ cúng cô hồn bắt nguồn từ kinh Phật Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni Kinh, dựa theo câu chuyện giữa ông A Nan Ðà, thường gọi tắt là A Nan, với một con quỷ miệng lửa [diệm khẩu] cũng gọi là quỷ mặt cháy [diệm nhiên].

Cuốn Phật thuyết cứu diện nhiên ngạ quỷ đà la ni thần chú kinh do ngài Śikṣānanda, đời Đường, dịch vào năm 695-700, cùng với ba tác phẩm khác của Mật tông do ngài Bất Không Kim Cương dịch, đó là Phật thuyết cứu diệm khẩu đà la ni kinh. Du già tập yếu cứu a nan đà la ni diệm khẩu quỷ nghi kinh, và Du già tập diệm khẩu thí thực khởi giáo a nan đà duyên do.

Dựa vào những tác phẩm Mật tông này mà ngài Bất Không Kim Cương được xem là tổ thứ ba của Mật tông Trung Hoa và cũng là tác giả đã soạn ra nghi thức cho lễ Thí ngạ quỷ.

Người Phật tử Trung Hoa gọi lễ này là Phóng diệm khẩu, tức là cúng để bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ đói miệng lửa, và nghi thức này dần dần trở thành thói quen trong các nước á Châu, với tên là lễ cúng cô hồn.

Vậy lễ Vu Lan có phải cũng là lễ cúng cô hồn hay không? Không!. Ðây là hai lễ cúng khác nhau nhưng được cử hành trong cùng một ngày.

Nghi thức cầu siêu cho cô hồn có thể phát xuất từ đời nhà Đường bên Trung Quốc do ngài Huyền Trang, lập đàn siêu độ cho tứ sanh đang luân hồi trong lục đạo. Đến đời Tống, đại sư Bất Không Kim Cương ở Mông Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, quán biết các cô hồn đang vất vưởng, đòi hỏi những nhu cầu cần thiết, nên Ngài đã ghi ra nghi thức lễ để cung ứng và siêu độ cho họ và từ đó mới có nghi thức Mông Sơn Thí Thực.

Mông Sơn là một tỉnh tại phía tây miền trung Trung Quốc. Thủ phủ là Thành Đô. Vùng này nằm trong Lòng chảo Tứ Xuyên và có dãy núi Himalayas bao quanh về phía tây, về phía bắc có dãy núi Tần Lĩnh, về hướng nam có các vùng núi đồi của Vân Nam. Sông Dương Tử chảy qua lòng chảo và cũng là thượng nguồn đối với các vùng phía đông của Trung Hoa. Sông Mân Giang ở trung tâm Tứ Xuyên là một nhánh của thượng nguồn Sông Dương Tử mà nó nhập vào tại Nghi Tân. Du lịch có khu ngoạn cảnh Núi Nga Mi, Nhạc Sơn Đại Phật [tượng Phật to ở Nhạc Sơn]…

THÍ là việc làm đứng đầu lục độ vạn hạnh có 3 cách để làm : Tài thí cũng gọi là tư sanh thí, pháp thí và vô úy thí. THỰC: là Thức ăn trong tiếng Trung Hoa.

Thí thực là bố thí thức ăn và ý nghĩa ăn của Phật Giáo như sau:

1] Ðoạn thực: thức ăn cứng, có thể chia thành phần như cơm, cháo, rau, canh, thịt, cá v.v. & các thức vật có hương vị làm xúc cảm tâm thức.

2] Xúc thực: Ăn với thức quan hay biết mùi vị, tức là cách ăn của Quỷ, Thần thọ hưỡng hương vị mà thôi.

3] Tư thực: ăn với sự kiện thần giao tư tưởng, là phép ăn của bậc Thiên trên cỏi sắc giới, ăn với phương thức thuyền duyệt tức là không chủ về vật phẩm ăn mà chỉ thọ hưỡng hơi hương, luôn luôn xem việc ăn là đạo vị, thanh tịnh.

4] Thức thực: ăn qua sự giao cảm của thức thứ 8, phép ăn nầy bậc Thánh, Phàm có khác nhau, bậc Thánh hưỡng thụ một cách hồn nhiên không phân biệt, còn bậc phàm phân biệt là ngon, dở; do chỗ phân biệt mà có tham muốn rồi khởi lên tư tưởng tham ăn đến bị vào vòng sinh tử, luân hồi.

Nghi thức thí thực này thường được tổ chức vào mùa Vu Lan Báo Hiếu, vào dịp đại lễ khánh thành chùa hoặc 49 ngày cho người vừa qua đời hay ngày cúng cơm, để hồi hướng công đức siêu độ cho vong linh.

Trong truyền thống Phật Giáo Đại Thừa Việt Nam, việc cúng Cô hồn hay Đàn tràng Chẩn tế là một pháp thức để cầu siêu cho các vong linh của những người đã chết mà vì oan nghiệp chưa siêu thoát. Nghi thức này được gọi là Thập loại Chúng sinh, như Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh của Nguyễn Du hay Thập loại Cô hồn.

Thập loại cô hồn được phân loại như sau:

1. Thủ hộ quốc giới: Loại oan hồn vị quốc vong thân;

2. Phụ tài khiếm mạng: Loại oan hồn chết vì trái chủ oan gia, trụy thai, sẩy thai;

3. Khinh bạc Tam Bảo: Loại oan hồn vì tạo nghiệp bất hiếu, phụ nghịch, vô đạo;

4. Giang hà thủy nịch: Loại oan hồn chết sông, chết biển;

5. Biên địa tà kiến: Loại oan hồn ở nơi biên ải hẻo lánh xa xăm;

6. Ly hương khách địa: Loại oan hồn phiêu bạc tha hương, chết đường, chết bụi;

7. Phó hỏa đầu nhai: Loại oan hồn chết vì tự tử, trầm mình xuống sông, núi, chết đâm, chết chém;

8. Ngục tù trí mạng: Loại oan hồn chết vì bị tra tấn, khổ nhục trong lao tù;

9. Nô tì kết sử: Loại oan hồn chết vì bị nô lệ, hành hạ, đày đọa;

10. Manh mung ám á: Loại oan hồn lúc sống bị đui, què, câm, điếc, cô quả không ai chăm sóc.

Đàn tràng chẩn tế, Trai đàn hay làm chay và chạy kinh đàn, là một nơi tổ chức các nghi lễ của Mật Giáo, dùng sự trang nghiêm thanh tịnh làm gốc để nhất tâm hồi hướng cho các loại cô hồn hay vong linh vì oan nghiệp chưa siêu thoát đang còn sống trong thế giới mong lung. Một trai đàn cúng thí thường kéo dài từ 3 tiếng đến 7 tiếng đồng hồ.

Đàn tràng phạn ngữ viết là मण्डल, đươc phiên âm Anh hóa là mandala có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn. Từ mandala là danh từ ghép từ 2 chữ ” Manda, nghĩa là cốt lõi” và tiếp vĩ ngữ ” la có nghĩa hàm chứa thêm vào đó”. Nghĩa chung của Mandala là một “vật chứa sự cốt lõi”.

Thuật ngữ này thường được dùng để chỉ các đồ hình có mang đặc tính tượng trưng thể hiện một dạng thức hình học của vũ trụ hay của tiểu bản thể con người. Khởi gốc, các đồ hình Mandala có thể đã phát nguồn từ đạo Bà la môn. Theo Nitin Kumar 2, thì Mandala có thể xuất hiện sớm nhất ở Ấn hay Ấn Âu và liên hệ đến học thuật Rig Veda.

Mandala là một chương, một tập hợp của các bài chú hay bài thánh kệ được tụng lên trong các buổi lễ Vệ đà, qua đó các âm thanh thiêng liêng được chuyển tải trong các dạng thức di truyền của các chúng sinh và sự vật.

Cúng thí thực cô hồn là một nghi thức cứu độ cho các oan hồn uổng tử, không nơi nương tựa đã có tự ngàn xưa. Phát xuất từ hồi Phật còn tại thế.

Một mâm lễ nhỏ, một nồi cháo trắng gọi là cúng cháo. Tại sao phải cúng cháo?

Ảnh minh họa

Tại chùa, cúng thí thực hay cúng Mông sơn thí thực là một phần hành trì thiết yếu hằng ngày sau công phu chiều. Một mâm lễ nhỏ, một nồi cháo trắng gọi là cúng cháo. Tại sao phải cúng cháo ? Vì theo truyến thuyết các quỷ đói với thân hình xấu xí, cái bụng bằng cái trống nhưng cần cổ chỉ nhỏ bằng cây kim, không thể ăn uống gì được, chỉ húp được nước cháo mà thôi.

Nghi thức cúng cháo bắt đầu từ lúc Đức Phật còn tại thế, trong Kinh ” Phật Thuyết Cứu Diện Nhiên Ngạ Quỷ Đà La Ni Kinh” có ghi rằng : Tôn giả A Nan, thị giả của Phật, đang thiền tọa trong đêm khuya vắng, khoảng canh ba chợt thấy một con quỷ đói với một thân xác tiều tụy khô gầy xấu xí, mặt cháy xám [diện nhiên], cần cổ nhỏ bằng kim, miệng phun ra lửa [diệm khẩu], bước vào cảnh báo rằng ba ngày sau ngài A Nan sẽ chết và sẽ đọa vào loài quỷ đói. Tôn giả A Nan nghe sợ quá, nên hỏi con quỷ làm cách nào để thoát khỏi khổ nạn.

Quỷ bảo rằng ” Rạng sáng ngày mai, ông dùng các thức uống ăn đem bố thí cho loài quỷ đói và phát tâm cúng dường Tam Bảo hồi hướng công đức để giúp chúng tôi sớm thoát khổ địa ngục và ngạ quỷ, thì ông mới thêm tuổi thọ “.

Ngài A Nan quá kinh hãi nên bạch Phật cứu giúp. Phật dạy: ” Ông chớ có quá lo sợ, ta nhớ lại trong quá khứ vô lượng kiếp, thuở đó ta làm người dòng Bà la môn, đối trước Bồ Tát Quán Thế Âm, ta thọ được pháp đà la ni [biến thực chân ngôn] của Phật vô lượng uy đức Tự Tại Quang Minh Như Lai : ta nay truyền dạy lại ngươi, nếu trì tụng thần chú đây, niệm được bảy biến có thể khiến cho một món ăn hoá ra làm vô lượng món ăn và trở thành mùi vị cam lộ ngon ngọt, khiến cho các loài được thọ hưởng no đủ “.

Tiếp đó Đức Thế Tôn đã dạy rõ phương pháp cứu độ ngạ quỹ qua bản Kinh ” Phật Thuyết Cứu Diện Nhiên Ngạ Quỷ Đà La Ni “.

Nghi thức cúng cháo sau này đã được chư tổ đức Trung Hoa soạn thảo thành ” Du Già Diệm Khẩu Thí Thực khoa nghi “.

Theo truyền thuyết tín ngưỡng cổ truyền Á châu, người ta tin rằng con người có hai phần: hồn và xác. Khi chết, hồn lìa khỏi xác, xác bị phân hủy còn hồn sẽ tiếp tục tồn tại. Hồn có thể lên thiên đàng hay đầu thai kiếp khác, hoặc bị giáng xuống địa ngục tùy theo những điều lành hay dữ mà người đó làm khi còn sống.

Vậy thì Hồn là gì? Thiên đàng và Địa ngục ở đâu? Trong bài mở đầu Thập giới cô hồn Quốc ngữ văn của Lê Thánh Tôn, có nói Hồn là phần tinh anh, cái phần thần thánh có ở bản thể con người và nó là thứ ” khinh quang ” nên ” thăng thượng ” lên cõi chiêu dương [sáng rực].

Phần tinh anh là phần thứ ba trong ba thể loại của hồn: Sinh hồn, giác hồn và linh hồn. Theo kinh Địa Tạng: ” Từ khi chết, trong 7 tuần đầu, thần thức chưa có định sở đang còn vơ vẩn khắp nơi. Nếu tang gia vì người quá vãng chí thành cầu nguyện, Phật sẽ tiếp độ “. Đây là tín lý của nghi cúng thất 7 tuần đầu để cầu cho vong hồn hay thần thức còn gọi là Trung ấm hay Thức thân, được vãng sanh cõi Cực lạc Tịnh độ Niết bàn vô vi.

Trên mặt lý của truyền thuyết trong kho tàng văn hóa dân gian có nói : dưới âm phủ có mười vị vua cai quản mười cửa ngục, mỗi vị có nhiệm vụ và công việc khác nhau để xem xét người chết lúc còn sống trên thế gian đã phạm vào những tội lỗi gì mà có hình phạt tương ứng. Thời gian tạm giam ở đây không phải là sự giam cầm vĩnh viễn mà theo sự phán xét dài ngắn tùy trường hợp.

Địa ngục phạn ngữ gọi là Naraka नरक và Pāli là Niraya निरय. Theo nghĩa đen chữ địa ngục có nghĩa là ngục ở dưới đất. Vì chữ địa là đất và chữ ngục là giam giữ. Còn nghĩa bóng là ý muốn nói những người nào làm ác thì chịu quả báo. Có thể là ở trước mắt, chứ không nhất thiết là sau khi chết đi mới đọa vào địa ngục.

Tóm lại Địa ngục có nhiều truyền thuyết diễn nghĩa và cũng tùy theo những khái niệm riêng của mỗi tôn giáo

Trong lãnh vực Văn học dân gian, Địa ngục được xem như một địa danh siêu nhiên, nơi của các linh hồn đến sau khi chết. Phần lớn các tôn giáo đều cho rằng địa ngục là nơi giam giữ, trừng phạt các linh hồn tội lỗi, và đây cũng là nơi để cho các linh hồn được ăn năn sám hối, trước khi đi đầu thai. Phản nghĩa của Địa ngục là Thiên đàng.

Có nhiều người không tin có địa ngục. Bởi vì họ cho rằng Thấy rồi họ mới tin. Nhưng dù có dùng lý luận khoa học hay phương tiện nào đó đễ chứng minh, thì rất khó để làm họ tin được.

Thí dụ trong đời sống hàng ngày chúng ta, ai ai cũng biết, vạn vật sống trên trái đất này đều phải nhờ không khí, nhưng không khí ở dạng vô hình làm sao thấy được, do đó chúng ta vẫn phải tin rằng nếu không có không khí thì chúng ta sẽ chết, đó là chuyện thực tế không ai chối cãi được.

Thêm một thí dụ thực tế khác nữa: Trong đời chúng ta thường nghe nói về nguồn gốc tổ tiên của chúng ta, mặc dù không thấy mặt được họ, nhưng chúng ta vẫn phải tin rằng, bằng một lý lẽ đơn giản: Nếu không có ông bà tổ tiên, thì làm sao ngày nay chúng ta được sống hiện diện tại đây.

Những chuyện đơn giản trước mắt có thể hiểu và tìm hiểu được bằng thực chất so sánh mà còn nghi ngờ thì những việc khác không dùng mắt để thấy được thì làm sao mà có thể tin. Cũng như: người ta không thấy được ánh sáng là tại vì người ta mù, chứ không phải người mù mà không biết ánh sáng.

Ảnh minh họa

Người con Phật tin Phật là qua trí tuệ chứng đắc của Ngài, bởi vì Ngài đã thấy rõ mọi sự việc trên thế gian và đã kể lại cho những đồ đệ của Ngài nghe những việc như thế để viết thành kinh để răn dạy người đời. Còn tin hay không, là chuyện cá nhân của mỗi người. Đạo Phật hay Đức Phật không kêu gọi và cũng chẳng bắt ai phải tin theo.

Giáo lý của Đức Phật như ngọn đèn soi sáng trong cuộc sống thực tế, vậy thì thực tế trong cuộc sống là gì? Tất cả mọi sinh hoạt thực tế trong cuộc sống đều phải bị chi phối bởi nghiệp lực, vô thường, khổ, không, và vô ngã.

Có một điều chắc chắn: không có hôm qua thì không có hôm nay và ngày mai sẽ không có. Nhân và quả tạo thành cái giải luân hồi vô tận và chúng ta nên nghĩ rằng: Nhân tốt sẽ không bao giờ sanh trái đắng.

Đức Phật có nói: Chúng sanh bị đọa vào địa ngục vì đã tạo nhiều nghiệp ác, tà kiến. Chúng ta nhờ tạo dựng nghiệp nhân làm người, sống giữa cõi người, còn những chúng sanh nào tạo nghiệp nhân địa ngục thì sống trong địa ngục… Đây là một sự thật của nhân quả, nghiệp báo, vì thế địa ngục là một cảnh giới, một cõi sống cụ thể, không phải là ẩn dụ hay biểu tượng.

Ngày nay, địa ngục không phải chỉ xuất hiện ở một thế giới xa lạ và bí mật nào, như chúng ta đã tham khảo sơ qua trong những đoạn kinh ở trên hay trong kho tàng văn học dân gian, mà địa ngục hiện hữu luôn nằm ngay trong cuộc đời hiện hữu của chúng ta.

Bởi vì ở đâu có đau khổ, có máu và nước mắt là ở đấy có địa ngục. Thế giới hiện đang chiêu cảm nhiều thiên tai chết chốc, giết chốc tàn khốc bởi chiến tranh đang diển ra khắp nơi. Mỗi ngày hàng vạn con vật bị lên lò sát sanh, hàng ngàn người bị tra tấn trong mọi lao tù. Đây mới chính là hình ảnh thực tế của một địa ngục hiện hữu trần gian một cách trọn vẹn.

Căn bản ngục, Cận biên ngục, Cô độc ngục, mỗi ngày không còn dựng lên một nơi mà đã tràn lan khắp nơi trong cuộc sống, không do sự xúi giục của Ngạ Quỷ, đầu trâu mặt ngựa, mà do tự bàn tay tàn bạo của chính con người tự tạo ra, để rồi con người phải tự chính mình tự chôn vào đó, cũng chỉ vì Nhân loại tranh chấp nhau vì những lợi quyền kinh tế, chánh trị và tranh chấp nhau vì tư tưởng.

Những tâm niệm xấu xa, ích kỷ, kiêu mạn, tham lam và tàn bạo, là một địa ngục sâu thẳm trong mỗi tâm hồn nhân loại và cũng là nguồn gốc tạo ra các loại địa ngục khác trên thế gian.

Khi ngọn lửa tâm tưởng xấu xa, ích kỷ, kiêu mạn, tham lam và tàn bạo còn bừng cháy trong mỗi cá nhân, thì ngọn lửa khổ đau của toàn thể nhân loại không thể nào dập tắt được nữa. Thế giới ngoại cảnh biến hiện tùy thuộc vào tâm thức của mỗi người. Khi đôi mắt đã nhuộm màu đỏ của sự tàn ác, thì cảnh vật bên ngoài làm gì không ngập đầy máu đau thương !.

Muốn cứu độ nhân loại đang thoi thóp trong đau khổ và hận thù trong các địa ngục, thì mỗi cá nhân phải tự cứu mình trước đã. Đây chính là cuộc cách mạng vĩ đại nhất rất khó làm.

Tất cả địa ngục không còn giá trị, khi trong lòng mỗi người không còn những ngọn lửa tâm tưởng xấu xa, ích kỷ, kiêu mạn, tham lam và tàn bạo.

Trích trong Tinh Hoa Phật Học của TS Huệ Dân,

Kính bút

TS Huệ Dân

FacebookTwitterGoogle+Pin It

Video liên quan

Chủ Đề