So sánh nguyên tắc đối xử tối huệ quốc và nguyên tắc đối xử quốc gia

Luật LawKey Kế toán thuế TaxKey

HN: 

VP1: P1704 B10B Nguyễn Chánh, Trung Hoà, Cầu Giấy

ĐN: Kiệt 546 (H5/1/8), Tôn Đản, P. Hoà Phát, Q. Cẩm Lệ

HCM: 282/5 Nơ Trang Long, P. 12, Q. Bình Thạnh

E:

Sử dụng dịch vụ:

(024) 665.65.366 | 0967.591.128

Nguyên tắc đối xử quốc gia là một nguyên tắc trong luật pháp quốc tế quan trọng đối với nhiều chế độ hiệp ước. Nó về cơ bản có nghĩa là đối xử với người nước ngoài và người dân địa phương như nhau. Theo nguyên tắc đối xử quốc gia, nếu một nhà nước cấp quyền, lợi ích đặc biệt hoặc đặc quyền cho các công dân của mình, nó cũng phải cấp những lợi thế đó cho công dân của các quốc gia khác trong khi họ đang có trong nước đó. Trong bối cảnh của các điều ước quốc tế, một nhà nước phải cung cấp đối xử bình đẳng với những công dân của các quốc gia khác đang tham gia vào thỏa thuận. Các hàng hóa nhập khẩu và sản xuất trong nước phải được đối xử bình đẳng - ít nhất là sau khi hàng hoá nước ngoài đã vào thị trường.[1]

Trong khi điều này thường được xem như là một nguyên tắc mong muốn, trong tùy chỉnh ngược lại nó có nghĩa là một nhà nước có thể lấy đi của người nước ngoài bất cứ thứ gì mà nó tước đi từ công dân của họ. Một nguyên tắc đối ngược kêu gọi nguyên tắc cho một tiêu chuẩn tối thiểu của công lý quốc tế (một loại thủ tục cơ bản) sẽ cung cấp một sàn cơ sở cho việc bảo vệ các quyền và tiếp cận với các thủ tục pháp lý. Mâu thuẫn giữa đối xử quốc gia và các tiêu chuẩn tối thiểu chủ yếu diễn ra giữa các quốc gia công nghiệp hóa và các quốc gia đang phát triển, trong những bối cảnh tước quyền sở hữu. Nhiều nước đang phát triển, có sức mạnh để kiểm soát tài sản của công dân nước mình, mong muốn thực hiện nó bằng tài sản của người nước ngoài.

Mặc dù hỗ trợ đối xử quốc gia được thể hiện trong các giải quyết nhiều tranh cãi (và không bắt buộc pháp lý) của Đại hội đồng LHQ, vấn đề tước quyền sở hữu gần như đã được xử lý thông qua các hiệp ước với các nhà nước khác và các hợp đồng với các thực thể tư nhân, chứ không phải thông qua sự phụ thuộc theo tập quán quốc tế.

Đối xử quốc gia chỉ áp dụng một khi một sản phẩm, dịch vụ hoặc sản phẩm sở hữu trí tuệ đã bước vào thị trường. Vì vậy, việc tính thuế hải quan trên một nhập khẩu không phải là một sự vi phạm đối xử quốc gia ngay cả khi các sản phẩm sản xuất trong nước không bị tính một khoản thuế tương đương.[1]

GATT/WTOSửa đổi

Đối xử quốc gia là một phần không thể thiếu của nhiều thỏa thuận Tổ chức Thương mại Thế giới. Cùng với nguyên tắc tối huệ quốc đối xử quốc gia là một trong những nền tảng của pháp luật thương mại của WTO. Nó được tìm thấy trong tất cả ba hiệp định chính của WTO (GATT, GATS và TRIPS).[1]

Đối xử quốc gia là một nguyên tắc cơ bản của GATT/WTO cấm phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu và sản xuất trong nước đối với thuế nội bộ hoặc quy định khác của chính phủ. Nguyên tắc đối xử quốc gia này được xây dựng tại Điều 3 của GATT năm 1947[2] (và được dẫn chiếu trong Hiệp định GATT 1994), Điều 17 của Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS) và tại Điều 3 của Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS). Mục đích của quy tắc thương mại này là để ngăn chặn loại các loại thuế nội địa hoặc các quy định khác đang được sử dụng như là một thay thế cho bảo hộ thuế quan.[3]

Một bản tóm tắt tốt được tìm thấy ở Rượu - Nhật Bản[4] trong đó nói, "[một] nghĩa vụ đối xử quốc gia là một lệnh cấm chung về việc sử dụng các loại thuế nội địa và các biện pháp quy định nội bộ khác để bảo hộ sản xuất trong nước".

Xem thêmSửa đổi

  • Tối huệ quốc

Tham khảoSửa đổi

  1. ^ a b c WTO: Understanding the WTO http://www.wto.org/english/theWTO_e/whatis_e/tif_e/fact2_e.htm
  2. ^ The General Agreement on Tariffs and Trade (GATT) http://www.wto.org/english/docs_e/legal_e/gatt47_01_e.htm
  3. ^ “CRS Report for Congress: Agriculture: A Glossary of Terms, Programs, and Laws, 2005 Edition - Order Code 97-905” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 12 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2013.
  4. ^ “WorldTradeLaw.net” (PDF). Truy cập 7 tháng 10 năm 2015.

Tối huệ quốc là một trong những quy chế pháp lý quan trọng trong thương mại quốc tế hiện đại. Quy chế này được coi là một trong những nguyên tắc nền tảng của hệ thống thương mại đa phương của Tổ chức Thương mại Thế giới.

Vậy tối huệ quốc là gì? Nguyên tắc tối huệ quốc là gì? Khách hàng quan tâm vui lòng theo dõi nội dung bài viết để có thêm thông tin hữu ích.

Tối huệ quốc là gì?

Tối huệ quốc, viết tắt theo tiếng Anh là MFN (Most favoured nation), là nguyên tắc pháp lý quan trọng nhất của WTO. Tầm quan trọng đặc biệt của MFN được thể hiện ngay tại Ðiều I của Hiệp định GATT (mặc dù bản thân thuật ngữ ”tối huệ quốc” không được sử dụng trong điều này).

Theo chế độ tối huệ quốc một quốc gia phải bảo đảm dành cho tất cả các quốc gia đối tác một chế độ ưu đãi thương mại thuận lợi như nhau. Chế độ tối huệ quốc ở từng nước có thể là chế độ có thời hạn hoặc vô thời hạn áp dụng với tất cả các quốc gia khác hoặc một số quốc gia nhất định.

Ví dụ trong giao dịch hàng hóa song phương, quốc gia A quy định quốc gia B sẽ được miễn thuế đối với loại mặt hàng này khi xuất khẩu sang. Ngược lại áp dụng nguyên tắc tối huệ quốc, quốc gia B cũng sẽ đưa ra những quy định, ưu đãi tương tự đối với quốc gia A.

Chế độ tối huệ quốc thường được áp dụng phổ biến nhất trong các hoạt động kinh doanh, thương mại giữa các quốc gia.

Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc

–  Nguyên tắc MFN được hiểu là nếu một nước dành cho một nước thành viên một sự đối xử ưu đãi nào đó thì nước này cũng sẽ phải dành sự ưu đãi đó cho tất cả các nước thành viên khác.

– Nguyên tắc MFN được quy định trong trong Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch 1947 (viết tắt là GATT) áp dụng đối với ”hàng hoá”, Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (Ðiều 2 Hiệp định GATS), và sở hữu trí tuệ (Ðiều 4 Hiệp định TRIPS). Cụ thể:

Điều I: Quy định chung về Đối xử tối huệ quốc

1. Với mọi khoản thuế quan và khoản thu thuộc bất cứ loại nào nhằm vào hay có liên hệ tới nhập khẩu và xuất khẩu hoặc đánh vào các khoản chuyển khoản để thanh toán hàng xuất nhập khẩu, hay phương thức đánh thuế hoặc áp dụng phụ thu nêu trên, hay với mọi luật lệ hay thủ tục trong xuất nhập khẩu và liên quan tới mọi nội dung đã được nêu tại khoản 2 và khoản 4 của Điều III,* mọi lợi thế, biệt đãi, đặc quyền hay quyền miễn trừ được bất kỳ bên ký kết nào dành cho bất cứ một sản phẩm có xuất xứ từ hay được giao tới bất kỳ một nước nào khác sẽ được áp dụng cho sản phẩm tương tự có xuất xứ từ hay giao tới mọi bên ký kết khác ngay lập tức và một cách không điều kiện.

2. Các quy định của của Khoản 1 thuộc Điều này không đòi hỏi phải loại bỏ bất cứ một ưu đãi nào liên quan tới thuế nhập khẩu hay các khoản thu không vượt quá mức đã được quy định tại Khoản 4 của Điều này và nằm trong diện được quy định dưới đây:

(a) Ưu đãi có hiệu lực giữa hai hay nhiều lãnh thổ nêu trong danh mục tại phụ lục A, theo các điều kiện nêu trong phụ lục đó;

(b) Ưu đãi có hiệu lực riêng giữa hai hay nhiều lãnh thổ có mối liên hệ về chủ quyền chung hay có quan hệ bảo hộ chủ quyền được nêu tại danh mục B, C, D, theo điều kiện đã nêu ra trong các phụ lục đó;

(c) Ưu đãi chỉ có hiệu lực riêng giữa các nước có chung biên giới nêu trong phụ lục E, F.

3. Các điều khoản của khoản I sẽ không áp dụng với các ưu đãi giữa các nước trước đây là bộ phận của Lãnh thổ Ottoman và được tách từ lãnh thổ Ottoman ra từ ngày 24 tháng 7 năm 1923, miễn là các ưu đãi đó được phép áp dụng theo khoản 5 của điều XXV và do vậy sẽ đươc áp dụng phù hợp với khoản 1 của Điều XXIX.

4. Biên độ ưu đãi áp dụng với bất cứ sản phẩm nào được khoản 2 của Điều này cho phép dành ưu đãi nhưng các Biểu cam kết đính kèm theo Hiệp định này lại không có quy định rõ cụ thể mức biên độ tối đa, sẽ không vượt quá:

(a) Khoản chênh lệch giữa mức đối xử tối huệ quốc và thuế suất ưu đãi nêu trong Biểu, với thuế quan hay khoản thu áp dụng với bất cứ sản phẩm nào đã được ghi trong Biểu tương ứng; nếu trong Biểu không ghi rõ thuế suất ưu đãi, việc vận dụng thuế suất ưu đãi theo tinh thần của điều khoản này sẽ căn cứ vào mức thuế ưu đãi có hiệu lực vào ngày 10 tháng 4 năm 1947 và nếu trong Biểu cũng không có mức thuế đối xử tối huệ quốc thì áp dụng mức chênh lệch giữa thuế suất ưu đãi và thuế theo đối xử tối huệ quốc đã có vào ngày 10 tháng 4 năm 1947;

(b) Với mọi khoản thuế quan và khoản thu không ghi cụ thể trong Biểu tương ứng, mức chênh lệch có được vào ngày 10 tháng 4 năm 1947 sẽ được áp dụng.

Trong trường hợp một bên ký kết có tên trong phụ lục G, ngày 10 tháng 4 năm 1947 tham chiếu đến tại tiểu khoản (a) và (b) trên nêu trên sẽ được thay thế bằng ngày cụ thể ghi trong phụ lục đó.

Điều 4: Chế độ đãi ngộ tối huệ quốc

Đối với việc bảo hộ sở hữu trí tuệ, bất kỳ một sự ưu tiên, chiếu cố, đặc quyền hoặc sự miễn trừ nào được một Thành viên dành cho công dân của bất kỳ nước nào khác cũng phải được lập tức và vô điều kiện dành cho công dân của tất cả các Thành viên khác. Được miễn nghĩa vụ này bất kỳ sự ưu tiên, chiếu cố, đặc quyền hoặc sự miễn trừ nào mà một Thành viên dành cho nước khác:

a) trên cơ sở các thoả ước quốc tế về việc giúp đỡ trong tố tụng hoặc thực thi luật theo nghĩa tổng quát chứ không giới hạn riêng biệt về bảo hộ sở hữu trí tuệ;

b) phù hợp với các quy định của Công ước Berne (1971) hoặc Công ước Rome, theo đó sự đãi ngộ không phải là đãi ngộ quốc gia mà là sự đãi ngộ áp dụng tại một nước khác;

c) đối với các quyền của những người biểu diễn, người sản xuất bản ghi âm và các tổ chức phát thanh truyền hình không phải do Hiệp định này quy định;

d) trên cơ sở các thoả ước quốc tế liên quan đến việc bảo hộ sở hữu trí tuệ đã có hiệu lực trước khi Hiệp định WTO có hiệu lực, với điều kiện là các thoả ước đó được thông báo cho Hội đồng TRIPS và không tạo nên sự phân biệt đối xử tuỳ tiện hoặc bất hợp lý đối với công dân của các Thành viên khác.

Mục đích áp dụng nguyên tắc MFN

Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc – MFN trong hệ thống thương mại đa phương tạo ra sự bình đẳng về cơ hội cạnh tranh giữa các thành viên khi cùng vào thị trường của một thành viên nào đó.

Chế độ tối huệ quốc đòi hỏi một quốc gia phải bảo đảm dành cho tất cả các quốc gia đối tác một chế độ ưu đãi thương mại thuận lợi như nhau. Cụ thể là trong các điều ước quốc tế về thương mại cũng như luật thương mại quốc gia, đãi ngộ tối huệ quốc thường được thể hiện dưới dạng quy định cho các sản phẩm hàng hoá dịch vụ có xuất xứ từ một quốc gia đối tác được hưởng chế độ thương mại “không kém ưu đãi hơn chế độ ưu đãi nhất” mà quốc gia sở tại dành cho các những sản phẩm hàng hoá dịch vụ tương tự của bất kỳ quốc gia nào khác.

Chế độ đối huệ quốc về bản chất không phải là việc ưu đãi của một quốc gia chủ nhà với từng quốc gia được hưởng chế độ này mà nó chỉ về sự ưu đãi tương tự, giống nhau giữa các quốc gia trong mối liên hệ với quốc gia chủ nhà.

Với sự tồn tại của nguyên tắc đối xử MFN, các quốc gia sẽ được bảo đảm rằng quốc gia đối tác thương mại của mình sẽ không dành cho quốc gia khác chế độ thương mại ưu đãi hơn, qua đó triệt tiêu lợi thế cạnh tranh tự nhiên của họ đối với sản phẩm hàng hoá dịch vụ cụ thể trong cạnh tranh với các quốc gia liên quan đó.

Trên đây là một số chia sẻ của chúng tôi về Nguyên tắc tối huệ quốc là gì? Khách hàng quan tâm theo dõi nội dung bài viết, có vướng mắc vui lòng phản hồi trực tiếp để chúng tôi hỗ trợ nhanh nhất.