So sánh tượng trưng và siêu thực
https://ussh.vnu.edu.vn/vi/dao-tao/luan-an/ttla-nhung-bieu-hien-cua-chu-nghia-tuong-trung-sieu-thuc-trong-tho-viet-nam-hien-dai-18250.html /themes/ussh/images/no_image.gif Show
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQGHN https://ussh.vnu.edu.vn/uploads/ussh/logo.png 1. Họ và tên NCS: Vũ Thị Lan Anh 2. Giới tính: Nữ 3. Ngày sinh: 26/12/1985 4. Nơi sinh: Nam Định 5. Quyết định công nhận nghiên cứu sinh số: 2999/2013/QĐ-XHNV-SĐH ngày 30 tháng 12 năm 2013 do Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn ban hành. 6. Các thay đổi trong quá trình đào tạo: Gia hạn thời gian học tập đến 30/04/2018 theo Quyết định số 3550/QĐ-XHNV ngày 29/12/2017. 7. Tên đề tài luận án: Những biểu hiện của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực trong thơ Việt Nam hiện đại 8. Chuyên ngành: Lý luận văn học 9. Mã số: 62 22 01 20 10. Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Khánh Thành 11. Tóm tắt các kết quả mới của luận án:
- Luận án đã đưa ra những biểu hiện đặc trưng về lí thuyết và thực hành sáng tạo của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực cho thấy tầm ảnh hưởng của khuynh hướng này đối với thơ Việt Nam hiện đại nhằm làm rõ vai trò, đóng góp và hạn chế. Đồng thời so sánh mức độ ảnh hưởng giữa các giai đoạn khác nhau và có ý thức lý giải dựa trên bối cảnh lịch sử dân tộc, thời đại, thân phận và tâm lí, nhân cách của cá nhân. - Luận án đã luận án đã ứng dụng lý thuyết về tượng trưng siêu thực, loại hình học, lý thuyết nghiên cứu trường hợp để tìm hiểu những hiện tượng điển hình trong khuynh hướng tượng trưng, siêu thực của văn học Việt Nam. - Luận án thành công trong việc phân tích cụ thể, sâu sắc bút pháp sáng tác kết hợp với năng lực cảm thụ thơ để có những đánh giá xác đáng về phong cách nghệ thuật của một số trường hợp tác giả tiêu biểu. 12. Khả năng ứng dụng trong thực tiễn (nếu có):
13. Những hướng nghiên cứu tiếp theo: Trên cơ sở nghiên cứu về những dấu ấn của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực trong thơ Việt Nam hiện đại, có thể tiếp tục triển khai các nghiên cứu so sánh mở rộng về các khuynh hướng, trào lưu khác đối với văn học Việt Nam. Hoặc tìm kiếm, khảo sát thêm nhiều tư liệu để liên hệ với nền văn học của nhiều quốc gia khác trong khu vực châu Á, so sánh mức độ tiếp nhận ảnh hưởng từ những chủ nghĩa hiện đại này. 14. Các công trình đã công bố có liên quan đến luận án: [1] Vũ Thị Lan Anh (2016), “Thơ Đinh Hùng, dấu hiệu tượng trưng khởi phát từ Dạ Đài”, Tạp chí Lý Luận phê bình văn học nghệ thuật (47), tr.51-54. [2] Vũ Thị Lan Anh (2016), “Chủ nghĩa siêu thực: Khởi đầu”, Tạp chí dạy và học ngày nay (7), tr.224-225. [3] Vũ Thị Lan Anh (2017), “Thơ Hoàng Cầm – Bài chính tả của giấc mơ”, Tạp chí Lý Luận phê bình văn học nghệ thuật (58), tr.62-67. [4] Vũ Thị Lan Anh (2017), “Đọc thơ Bùi Giáng, bước chân vào cõi hư vô”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật (401), tr.110-115. [5] Vũ Thị Lan Anh (2018), “Bùi Giáng – Poetry crystals from Mưa Nguồn”, Journal of military literature (884), p.89-92. PHỤ LỤCChương I: KHÁI QUÁT CHUNG 1I. Lý do chọn văn bản “Nguyệt cầm” 1II. Phương pháp nghiên cứu 2Chương II: DẤU ẤN TƯỢNG TRƯNG, SIÊU THỰC TRONGTHƠ “XUÂN DIỆU” 3I. Tượng trưng, siêu thực 3II. Dấu ấn tượng trưng, siêu thực trong thơ Xuân Diệu 6Chương III: DẤU ẤN TƯỢNG TRƯNG, SIÊU THỰC TRONG“NGUYỆT CẦM” (XUÂN DIỆU) 12I. Một vài biểu hiện 13II. Bài viết tham khảo 15CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNGI. LÝ DO CHỌN VĂN BẢN “NGUYỆT CẦM”Thơ là tiếng lòng của thi nhân, là âm hưởng từ bao cảm xúc dâng trào.Có ai yêu những đóa hoa hữu sắc vô hương? Mấy ai thích văn chương épkhô trên xác chữ không hồn? Chính vì thế, tình cảm là chiếc nôi của thica. Mỗi lời thơ là con đường thênh thang trải rộng mà trái tim người nghệsĩ giao hòa với cuộc đời.Trong lịch sử phát triển của văn học Việt Nam, Thơ mới là một hiệntượng nổi bật. Chỉ trong vòng 15 năm phát triển, nó đã có những thànhtựu lớn góp phần to lớn đối với sự phát triển của nền thơ ca nói riêng vànền văn học dân tộc nói chung. Trong trào lưu Thơ mới ấy, ta không thểnào không nhắc đến “Ông hoàng thơ tình yêu” Xuân Diệu. Xuân Diệu đãmang đến cho làng thơ Việt Nam cái ấm nóng của hạnh phúc tình yêu,thổi một làn gió nồng nàn, sôi sục nhưng cũng rất tinh tế vào thiên nhiên,cảnh vật; song song đó, lúc nào cũng luôn mở rộng lòng mình giao cảmvới đời, tận hưởng hết cuộc sống ngắn ngủi... Ai đã từng một lần nghekhúc nhạc hồn của Xuân Diệu ắt sẽ không thể nào quên thi sĩ với “tócmây vương trên đài trán thơ ngây” ấy... Bằng những lời thơ nhẹ nhàngnhàng thiết tha, nồng nàn mà rạo rực, hối hả, Xuân Diệu đang rảo bướctrên lối ấy. Người vừa đi, vừa thả hồn mình vào thiên nhiên bao la, saysưa đắm chìm trong khúc ca giao hòa. Một ông hoàng tình ái, một đôimắt “xanh non biếc rờn”, một con thoi thoăn thoắt trên khung dệt thờigian ít ỏi - phải chăng vì thế mà những lời thơ trong ông luôn nồng nàn,lãng mạn, đôi khi lại phảng phất đâu đây chút dư âm buồn bã. Đó cũng làmột bản giao hưởng đa cung bậc được viết nên bằng những tiết tấu sôiđộng xen lẫn những nốt nhạc trầm ấm, lắng sâu.“Nguyệt cầm” là bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu như một thi phápthi ca toàn bích tinh xảo cần khám phá. “ Nguyệt cầm” chính là một nétnhạc buồn của Xuân Diệu.” Nguyệt cầm” là đỉnh cao trong sự nghiệp của“nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, tác phẩm mang hàng triệu tinhhoa, tinh túy. “Nguyệt Cầm” là một thi phẩm hay mang đậm phong cáchthơ Xuân Diệu. Bài thơ làm nên một tiếng vang lớn trong nền văn họcnước nhà. Với cây bút trữ tình cùng sự am hiểu trường phải Pháp ông đãtạo nên một thi phẩm xuất sắc khẳng định tên tuổi của ôngọn “NguyệtCHƯƠNG II: DẤU ẤN TƯỢNG TRƯNG, SIÊUTHỰC TRONG THƠ XUÂN DIỆUI. CHỦ NGHĨA TƯỢNG TRƯNG SIÊU THỰC1. Chủ nghĩa siêu thựca. Hoàn cảnh ra đời: Sự ra đời của chủ nghĩa siêu thực về thực chất là một sự nổiloạn đối với văn minh tư sản và sự khủng hoảng tinh thần của một bộ phận thanhniên trí thức trước thực trạng xã hội hỗn độn và sự bất lực của mình về mặt nghệthuật. Trường phái này chống lại chủ nghĩa hiện thực và mang tính chất suy đồi. Vìthế nhiều nhà văn tài năng như L và P. Éluard dần dần rời bỏ trường pháinày và chuyển sang chủ nghĩa hiện thực vào cuối những năm 30 của thế kỉ XX đồngthời cũng trở thành những nhà thơ nổi tiếng.b. Định nghĩa: Chủ nghĩa siêu thực là một trào lưu nghệ thuật và văn học có nguồngốc từ Pháp, được đặc trưng bởi sự thể hiện tư tưởng theo cách tự phát và tự động,chỉ được cai trị bởi sự thúc đẩy của tiềm thức, coi thường logic và phủ nhận các tiêuchuẩn đạo đức và xã hội đã thiết lập.c. Đặc điểm:* Những nguyên tắc của trường phái siêu thực:- Chủ nghĩa siêu thực thẳng tay gạt bỏ mọi quy tắc trong ngữ pháp và thi pháp, mọinguyên tắc logic trong tư duy, giành lấy sự tự do tuyệt đối cho cảm xúc tuôn trào.Sáng tác của họ do đó thường được cấu thành bằng những dòng tiềm thức rời rạc,gián cách, không thể khắc họa được bức tranh thực tại toàn vẹn.- Hướng về thế giới vô thức của con người mà họ cho là một lĩnh vực vô hạn đốivới sự khám phá sang tạo nghệ thuật.- Đề cao các ngẫu hứng, chú trọng ghi những cái xuất hiện lướt qua trong đầu,không qua sự kiểm soát của lý trí.- Vứt bỏ sự phân tích logic, xóa bỏ các gông cùm của lý trí, đạo đức, tôn giáo vàchỉ tin cậy ở trực giác, giấc mơ, ảo giác, ở những linh cảm bản năng và sự tiên tri.- Dựa theo thuyết “tự động tâm linh” của Bréton họ kêu gọi hướng tới sự hồn nhiênkhông suy nghĩ của trẻ thơ, tới trạng thái mê sảng, tới những ảo giác.\=> Vì thế chủ nghĩa siêu thực chủ trương thơ ca phải được tuôn trào tự do, khôngcần sử dụng các dấu chấm câu, không cần tuân thủ trật tự ngữ pháp, đề cao sự liêntưởng tự do của cá nhân.* Về phong cách và đề tài
là khuôn sáo, hàn lâm, chủ trương dùng những từ ngữ kiểu cách, kỳ lạ, âm luật vàcú pháp bất thường.
khứ, là tình yêu. Họ cho rằng chỉ với lối sáng tác ấy người ta mới đạt đến mô ̣t hiê ̣nthực cao hơn hiê ̣n thực tầm thường hằng ngày, mô ̣t “siêu hiê ̣n thực”, chữ màA đă ̣t ra. (Bách khoa toàn thư Viê ̣t Nam).* Về quan điểm chính trị
tự xã hội tư bản. Họ đấu tranh cho nhân quyền, chống chủ nghĩa thực dân lúc đầurơi vào tinh thần nổi loạn vô chính phủ và những cá nhân tư bản cực đoan. Cóngười ngay từ đầu đã tán thành chính sách chống đế quốc và thực dân của nhữngngười cộng sản.* Về nghệ thuật
cách của các nhà thơ siêu thực về mặt thi pháp như: từ ngữ và hình tượng thơ, thơtự do và thơ văn xuôi. Các nhà siêu thực xây dựng tác phẩm hoàn toàn dựa trênnhững thủ pháp như sự tương tự, cái nghịch lý, sự bất ngờ, sự thống nhất những cáikhông thể thống nhất được. Từ đó ở tác phẩm xuất hiện một bầu không khí nghệthuật đặc biệt, có tính huyền ảo, phi lý...d. Các tác giả tiêu biểu
Nhân vật quan trọng bên cạnh Bréton là nhà thơ, tiểu thuyết gia rất quen thuộc vớibạn đọc Việt Nam : Louis Aragon. Mặc dù có vị thế quan trọng như vậy, nhưng sauAragon lại từ bỏ chủ nghĩa siêu thực trở về với văn chương truyền thống kiểuBalzac. Những ngôi sao nổi tiếng khác như Tristan Tzara, Philippe Soupault,Jacques Prévert... Ngoài ra có những người theo chủ nghĩa siêu thực nhưng khônghoàn toàn tuân thủ các nguyên tắc của nó, nhưng cũng rất nổi tiếng như FedericoGarcia Lorca (Tây Ban Nha), Anais Nin, Henry Miller, Charles Henry Ford (Mỹ),Hugh Sykes Davies, Dylan Thomas (Anh), St.J, Paul Eluard (Pháp)...2. Chủ nghĩa tượng trưngd. Các tác giả tiêu biểu
1891), Lốt-tơ-rê-a-mông (1846 – 1870), S. Man-lác-mê (1842 – 1898) vừa là nhữngngười sáng lập vừa là những đại biểu xuất sắc của trường phái này.e. Nguyên tắc mỹ học của chủ nghĩa tượng trưng :
bạn của sự tri giác cảm tính. Ở đây biểu tượng nghệ thuật được xem là công cụ hữuhiệu hơn hình tượng để chọc thủng cái vỏ quen thuộc hàng ngày nhằm vươn tới cáibản chất lý tưởng siêu thời gian của thế giới – cái vẻ đẹp siêu nghiệm. Các yếu tốthen chốt của chủ nghĩa tượng trưng là : trực giác, âm nhạc, trữ tình.
siêu nhiên, đầy ma lực; ở đây, thế giới nội tâm của nhà thơ gần gũi với cái tuyệt đối.Mỗi bài thơ đối với họ phải là một “giai điệu chủ quan” nhầm thay thế vần điệu vàthi luật của thi pháp cổ điển.
hoá nhân văn tư sản, có sự dè bỉu có tính chất thực dụng chống các nguyên tắc thựcchúng luận của phái Thi san và chủ nghĩa tự nhiên. Tuy vậy, sáng tác của nhiẻu nhàthơ lớn của chủ nghĩa tượng trưng có ý nghĩa xã hội và giá trị nhân văn rộng lớn(nỗi đau khổ về tự do tinh thần ; sự chán ghét những hình thức tư hữu của xã hộiđang tàn phá tâm hồn con người, niềm tin vào những giá trị văn hoá lâu đời,...I. DẤU ẤN TƯỢNG TRƯNG, SIÊU THỰC TRONGTHƠ XUÂN DIỆU1. Sự tương hợp giữa con người và vũ trụ:Thơ ca tượng trưng đã ngự trị trên thi đàn Pháp đến đầu thế kỷ XX,vào khoảng giữa hai cuộc Chiến tranh Thế giới và luồng gió tượng trưngđã thổi đến Việt Nam vào những năm 1935 đến năm 1945. Mỗi nhà Thơmới Việt Nam đầu thế kỷ đã có một cách tiếp biến với chủ nghĩa tượngtrưng khác nhau mang đầy cá tính sáng tạo.Baudelaire, chủ nghĩa tượng trưng và Thơ mới là một vấn đề của tràolưu và phong cách trong văn học so sánh. Trong bài tiểu luận nổitiếng Một Thời Đại Trong Thơ Ca - Hoài Thanh, tên của nhà thơ nàyđược nhắc đến chín mười lần (trong khi những nhà thơ Pháp khác chỉđược nêu tên một đôi lần). Hoài Thanh đặc biệt chú ý đến sự hấp dẫn củaBaudelaire hay của chủ nghĩa tượng trưng đối với những tài năng trẻ củaThơ mới. Một loạt nhà thơ "bị ám ảnh vì Baudelaire". Người đầu tiênchịu ảnh hưởng Baudelaire sâu sắc là Xuân Diệu. Với một nghệ thuậttinh vi đã học được của Baudelaire, Xuân Diệu diễn tả lòng ham sốngbồng bột trong thơ De Noailles và trong văn Gide. Và ông cũng là mộttrong những nhà thơ mới tiêu biểu của khuynh hướng thơ tượng trưng,siêu thực, điều đó được tác giả thể hiện rõ nét trong những tác phẩm củamình.Chủ nghĩa tượng trưng nói chung và Thơ mới nói riêng thể hiện sựtương giao qua trực giác của con người và con người cảm nhận nó bằngsự trực giác bí ẩn về mối quan hệ tương hợp ấy. Thi sĩ Xuân Diệu trongbài Thơ duyên đã phát hiện ra mối tương giao huyền diệu của những sựvật, hiện tượng thiên nhiên và sự cộng hưởng, hòa nhịp của thiên nhiêntạo vật với lòng người. Cái đặc biệt trong bức tranh chiều thu này chínhlà sự nhịp nhàng, hòa điệu của cảnh vật thiên nhiên:“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyênCây me ríu rít cặp chim chuyềnĐổ trời xanh ngọc qua muôn láThu đến nơi nơi động tiếng huyền”.Cái đẹp và thơ mộng không phải ở từng chi tiết, hình ảnh riêng rẽ mà chủyếu là ở sự hòa hợp, đáp ứng, tương giao của chúng: chiều mộng hòa vớinhánh duyên, cây me với cặp chim chuyền, bầu trời xanh soi vào muônlá..ái đẹp của tạo vật được cảm nhận không riêng rẽ mà sóng đôi, gợilên một sự nhịp nhàng, hòa điệu.Tâm hồn nhạy cảm của thi nhân đã đón nhận được trong cái khônggian – thời gian của buổi chiều thu thơ mộng những nỗi niềm giao cảm,những tình ý vấn vương, hòa nhịp với những rung động của lòng người“Lần đầu rung động nỗi thương yêu”. Trong niềm rung động ấy, với mộtnăng lực giao cảm kì diệu, con người cảm nhận được sự tương giao nhưmột ái lực thầm kín gắn kết những tâm hồn cô đơn giữa khung cảnhchiều thu thật hài hòa, êm dịu:“Em bước điềm nhiên không vướng chânNhư hương thấm tận qua xương tủyÂm điệu, thần tiên, thấm tận hồn.Hãy tự buông cho khúc nhạc hườngDẫn vào thế giới của du dươngNgừng hơi thở lại, xem trong ấyHiển hiện hoa và phảng phất hương.”(Huyền diệu)Sự tương ứng các giác quan tạo nên hiệu ứng lan tỏa, đan xen nhiều tầngcảm xúc và thực sự đem lại cho thơ những cảm nhận mới lạ. Một khúcnhạc đối với Xuân Diệu, không phải chỉ để thưởng thức một cách thuầntúy bằng những cung bậc “du dương” của thanh nhạc (tương ứng vớithính giác) mà cùng một lúc, nhiều giác quan ứng cảm, hợp phối để cóthêm khúc nhạc hường (màu của nhạc) rồi lan tỏa thành khúc nhạcthơm (hương của nhạc) và rồi, hãy uống thơ tan trong khúc nhạc (vị củanhạc). Chỉ bốn câu thơ, Xuân Diệu đã tổng hòa bốn giác quan tương ứng:nghe – nhìn - ngửi - uống. Nhà thơ như đã nhập thần, hóa thân, hòa tanvào khúc nhạc đất trời “Huyền diệu”.Là người đã tiếp thu ở mức nhuần nhuyễn phép “tương giao” của lốithơ tượng trưng, Xuân Diệu đã phát huy triệt để sự tương giao về cảmgiác để cảm nhận và mô tả thế giới, trước hết là thời gian và không giantrong bài Đây mùa thu tới. Có những câu thơ mà cảm giác được liên tụcchuyển qua các kênh khác nhau. Thời gian được cảm nhận bằng khứugiác: “Mùi tháng năm” – thời gian của Xuân Diệu được làm bằnghương! Một chữ “rớm” cho thấy khứu giác đã chuyển thành thị giác. Nónhắc ta nhớ đến hình ảnh giọt lệ. Chữ “vị” liền đó, lại cho thấy cảm giácthơ đã chuyển qua vị giác. Và đây là một thứ vị hoàn toàn phi vật chất“vị chia phôi”. “Đã nghe rét mướt luồn trong gió” - với cách dùng từngữ thể hiện sự chuyển đổi tương giao của các hệ cảm giác, cái rét khôngchỉ được cảm nhận bằng xúc giác thông thường mà bằng cả thính giác(nghe), thị giác và xúc giác (luồn) luôn "thức nhọn" của tâm hồn nhà thơ.Chữ "luồn" và "nghe" khiến cho cái rét được cụ thể hoá thành tiếng,thành hình; diễn đạt được tinh tế cái rét đầu thu đã bắt đầu len lỏi, độtnhập, ẩn thân vào cảnh vật vào lòng người. Đây chính là cảm xúc tinh tếvà mãnh liệt của một hồn thơ luôn khát khao giao cảm với cuộc đời vàthiên nhiên tạo vật.Xuân Diệu, một trong những nhà thơ sớm ảnh hưởng của Baudelaire.Trong bài diễn thuyết tại trường Sorbonne, ông nói: “Với Baudelaire, tôiđi toàn vẹn vào tính chất hiện đại của thơ”. Trong quan niệm sống và yêu“cùng với Baudelaire, Rimbaud, Verlaine... Xuân Diệu của chúng tahăng hái, say mê đi tìm ảo ảnh trong mộng để an ủi hồn mình, muốn đếnvới cả hoan lạc thân xác cho lịm đi những khoắc khoải giữa đời thường”Trăng, vú mộng đã muôn đời thi sĩ “Giơ hai tay mơn trớn vẻ tròn đầy”(Ca tụng – Xuân Diệu) Xuân Diệu nói đến thân xác nhưng không gợicảm giác sa đọa, trụy lạc, chán chường. Đến “Trường thơ loạn” cái mựcthước, thanh tao, trang nhã của thơ truyền thống không còn chỗ đứng.Cái đẹp giờ đây mở rộng biên độ nội hàm, tiếp nhận những yếu tố quáidị, tính dục.2. Nhạc điệu tinh tếMột đặc điểm nữa của thơ tượng trưng là, để thể hiện cái tiên nghệm,cần phải mang “tinh thần âm nhạc” vào thơ ca. Trong bài “Nghệ thuật thica”, Verlaine cho rằng nhạc điệu là trên hết và câu thơ phải luôn luôn cónhạc điệu. Thơ không mô tả mà gợi cảm và muốn gợi cảm trước hết phảicần đến âm nhạc. Nhà thơ tượng trưng cho rằng, nhờ âm thanh của các từmà thơ gợi lên được những sắc thái tinh tế nhất của tình cảm, của thế giớiu uẩn bên trong tâm hồn con người. Do nhạc điệu, do sự sắp xếp, hòahợp âm thanh, màu sắc, hình ảnh mà thơ làm ta “mê hoặc”, thơ “chiếmđoạt ta tất nhiên, hoàn toàn tức khắc” trước khi trí não ta kịp tìm hiểuxem thơ nói gì, kể gì. Để có tính nhạc, ngôn ngữ thơ cần hội đủ ba yếutố. Yếu tố thứ nhất là kĩ thuật khai thác các đặc điểm của nguyên âmtiếng Việt bằng sự khép - mở, bổng - trầm, phụ âm vang hay tắc và sự lựachọn sắp xếp hệ thống thanh điệu. Yếu tố thứ hai là nhịp điệu của hìnhảnh, tình ý, nhịp điệu bên trong của tâm hồn nhà thơ - nơi trú ngụ kín đáocủa cảm xúc. Yếu tố thứ ba là vần.Một thế mạnh có tính đặc trưng ở Xuân Diệu chính là nhạc điệu. Đó là“chất xạ mê li”, đầy ảo thuật huyền bí. Có khi từ một sự ngắt nhịp tạonên nét nhạc chơi vơi như “Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá!”, cókhi lại là sự đan dệt vào nhau những âm thanh hiệp vần cùng thanh dấu“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời/ Tương tư nâng lòng nên chơiCHƯƠNG III: DẤU ẤN TƯỢNG TRƯNG, SIÊUTHỰC TRONG “NGUYỆT CẦM” (XUÂNDIỆU)Nguyệt cầmTrăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh,Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần.Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm!Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh;Lung linh bóng sáng bỗng rung mìnhVì nghe nương tử trong câu hátĐã chết đêm rằm theo nước xanh.Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời,Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi...Long lanh tiếng sỏi vang vang hận:đầu, tác giả cho biết là bài thơ sẽ là một sự giao thoa, cộng hưởng giữathị giác, thính giác và xúc giác.“Lung linh bóng sáng bỗng rung mìnhVì nghe nương tử trong câu hátĐã chết đêm rằm theo nước xanh.”“Bóng sáng” là ánh trăng, mà ánh trăng cũng là tiếng nhạc, tiếng đàn,vì trong vũ trụ kỳ diệu này âm thanh đã hoà nhập với ánh sáng. Và bóngsáng linh lung đó đã xúc động và “rung mình” khi nghe “nương tử trongcâu hát đã chết đêm rằm theo nước xanh”. Nương tử ở đây chắc hẳn làVương Chiêu Quân, người đàn bà tuyệt sắc có ngón đàn bi ai đến nỗimột ngày khi nàng vì nhớ quê nhà ôm đàn khảy bản “Xuất tái khúc”, mộtcon ngỗng trời bay ngang, nghe nỗi u oán bi thương trong khúc nhạc liềnđứt đoạn ruột gan và sa xuống đấtì sắc đẹp của Chiêu Quân khiến vuaHung Nô say đắm nên Hán Nguyên Đế đưa nàng sang cống nạp HungNô để cầu hoà. Khi qua cửa ải Nhạn Môn Quan, Chiêu Quân gieo mìnhxuống sông tự vẫn để chết đêm rằm theo nước xanh với mong ước rằngxác nàng được trôi trở về quê cũ.Đến đây chúng ta nhận thấy rằng vũ trụ đang tràn ngập tiếng nhạc vàánh trăng không phải là một vũ trụ thờ ơ, vô tình, mà có một giao cảmsâu sắc với những người trên trần gian có duyên nợ với tiếng đàn nhưnggặp phải một định mệnh khắt khe. Những người đàn bà đẹp có tài đàngi ỏi th ường g ặp nhiềều gian truân như Chiêu Quân, như Thúy Kiều, cũngnhư người kỷ nữ trên bến Tầm Dương.“Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời,Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi...”Kể từ đoạn thơ thứ hai, tác giả bắt đầu mỗi đoạn bốn câu bằng một câutả toàn cảnh bầu trời dưới sự cảm nhận của tác giả. Sau câu “Mây vắng,trời trong, đêm thủy tinh” của đoạn 2, thì đoạn 3 khởi đầu bằng: “Thulạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời”. Sau ánh sáng và âm thanh thì cái lạnh,thuộc về lãnh vực xúc giác, là yếu tố thứ ba của không gian dưới sự cảmnhận của nhà thơ.“Long lanh tiếng sỏi vang vang hận:Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người...”Tiếng nhạc nay mang một sắc điệu trầm đục như tiếng sỏi và được mô tảlà “long lanh”, tức là có ánh sáng phản chiếu; một lần nữa, yếu tố thị giácđược ghép vào một yếu tố thính giác. Tiếng nhạc đang vang lên trong vũtrụ mang sắc điệu đó vì nhạc đang nhớ đến số kiếp bẽ bàng và chia sẻmối hận lòng của người kỷ nữ ở bến Tầm Dương.Cũng như hai đoạn thơ trước, đoạn thứ tư – cũng là đoạn chót của bàithơ Nguyệt Cầm – mở đầu bằng một bức tranh toàn cảnh vũ trụ chìmtrong tiếng nhạc và một lần nữa, tiếng nhạc, hay “ánh nhạc” cũng đượccảm nhận vừa bằng thính giác, vừa bằng thị giác. Cảnh tượng trước mắtnhà thơ là cả một không gian mênh mông trong vắt, và pha lê cũng làthủy tinh, một tinh thể trong suốt đã nói đến ở một đoạn trên.“Sương bạc làm thinh, khuya nín thởNghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.”Tác giả tiếp tục hé lộ cho ta biết những cảm nhận của nhà thơ đứng trước một vũtrụ huyền bí mà mọi vật đều lặng yên để lắng nghe một bản nhạc vĩ đại. Sao Khuêtheo truyền thống Đông phương là một ngôi sao biểu tượng cho văn học nghệ thuật.Sự kiện điệu nhạc sầu vang vọng hướng về sao Khuê là thêm một bằng chứng vềmối giao cảm giữa vũ trụ với thân phận những giai nhân tài sắc có duyên nợ vớinghệ thuật nhưng phải chịu một số phận gian nan.II. BÀI VIẾT THAM KHẢONGUYỆT CẦM – TIẾNG ĐÀN SẦU NÃO HƠN CẢTrong bản giao hưởng rộn ràng kia bỗng xuất hiện một giai âm trầm lắng, dịuhẳn. Nhưng là một giai âm thu hút đến lạ kì. Nó chiếm lĩnh người đọc bằng âmchúngác giả đã sát nhập trăng và cung đàn. Sự tương giao giữa tiếng đàn và ánhtrăng đã đồng nhất hoá hai làm một. Không phải là thứ màu sắc vàng ánh, cũngkhông phải là nhạc điệu nào cụ thể nữa mà cái âm sắc mới này là sự kết chuyển siêuhình. Cây đàn vừa làm xong chỉ là thân xác, chỉ khi trăng nhập vào dây cung mớithật sự là “nguyệt cầm”. Tác giả đã thổi hồn mình sang cho tạo vật. Ánh trăng trởthành một sinh thể có cảm giác, có linh hồn. Tiếng đàn trở thành tiếng vọng của cõilòng đi tìm sự tri âm, đồng điệu. Bởi vậy chữ “nhập” chính là khởi sự của mọichuyện. “Trăng - nguyệt” -ẩn dụ cổ điển- nhờ sự táo bạo và mãnh lực của chữ“nhập”, vướng mắc vào dây, vương tơ. Trăng đắm trong ẩm ướt của vùng nguyệtlạnh, gợi lên hình ảnh nồng nàn đầy nhục cảm mà cũng vô cùng dịu dàng, tế nhị,thanh khiết, mà cũng có thể là cõi chết, nơi hội ngộ của những âm hồn. Với sự ngắtnhịp độc đáo, nếu ngắt nhịp 2/2/3 là “cung nguyệ`t lạnh” còn 2/3/2 là “dây cung”vậy chữ “ cung” phải là sự giao thoa và sau đó là sự nhập thành một duyên phận.Bên cạnh nhịp thơ là chuỗi những âm thanh ấn tượng. Cả câu thơ đều sử dụng thanhbằng, mở đầu một gam màu lạnh bao quanh “Nguyệt cầm”. Chính câu đề kì lạ,mang màu huyền bí hơn cả đã dẫn nhập vào thế giới “huyền diệu” ( chữ dùng củathầy Chu Văn Sơn) của “ Nguyệt cầm”.Người ta nói: thơ tiềm ẩn trong rung động. Bài thơ chỉ có thể được hình thành khicó sự truyền lan của rung động ấy. Nguyệt cầm chính là cảm xúc chân thực, nónghổi của Xuân Diệu khi đối diện với cảnh vật và đối diện với lòng mình. Chỉ có rungđộng thực sự, Xuân Diệu mới cảm được cái đẹp của tạo hoá và chớp được những tơrung của lòng mình. Nhịp điệu bài thơ nhẹ nhàng, dìu dịu, đượm một thoáng buồnnhưng vẫn có sự chuyển tấu của âm sắc. Đó là những cung bậc khác nhau của âmnhạc mà Xuân Diệu nghe được bằng chính cái ân tình của mình.Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần;Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậmMỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.Khi cây đàn ấy bắt đầu sống trong linh hồn “ Nguyệt cầm”, mọi tiếng nói riêngđược cất lên. Xét về hình thức, Xuân Diệu đã sử dụng liên tiếp biện pháp đối ngẫucủa thơ cổ, phép song song của ngôn ngữ thơ và phép tương giao của thơ tượngtrưng, đa nghĩa. Câu thơ bị cắt rời thành ba phần với ba nhịp lại vừa điệp từ: “ Trăngthương/ trăng nhớ/ hỡi trăng ngần”, “Đàn buồn/ đàn lặng/ôi đàn chậm”. Khi lòngmình đang cô đơn, trống trải, tạo vật bỗng dưng ngưng đọng những giọt sầu. Tần sốgiao động của từng tiết tấu trong câu thơ chậm rãi, ngắt nhịp từng đôi một nghe thậtbuồn. Nhạc đàn hay nhạc lòng nhà thơ... Không rõ nữa. Buồn, thương, nhớ, bằngmấy tính từ chỉ sắc thái biểu cảm ấy gợi cho người đọc một tâm trạng cô đơn, buồnthảm. Có một cái gì đó như là sự day dứt, trở trăn. Mọi thứ đề ảo thể- trăng, tiếngđàn lại tạo thành giọt nước mắt hữu hình. Tạo vật đã được "nội cảm hoá", nhà thơbiến cái vô hình trở nên hữu hình. “Giọt” là một đơn vị nhỏ của một vật thể lỏng,như giọt nước, giọt lệ... Nhưng dưới bút pháp của nhà thơ “giọt” cũng có thể là mộtgiọt trăng, hay một giọt đàn. Giọt âm thanh “rơi tàn” khi tiếng đàn chìm xuống vàtan đi, gây một cảm giác buồn như giọt lệ rơi. Còn giọt lệ, bình thường người ta chỉcó thể thấy bằng mắt, hay cảm thấy bằng xúc giác khi giọt lệ rơi trên tay, nhưng ởđây còn thêm cả thính giác, vì lệ ngân. Giọt lệ này đã ứa ra vì một kiếp tài hao bạcmệnh.Không gian trữ tình tiếp tục được nhà thơ mô tả bằng những hình ảnh cụ thể, sinhđộng:Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinhLinh lung bóng sáng bỗng rung mìnhVì nghe nương tử trong câu hátĐã chết đêm rằm theo nước xanh.Tác giả đưa tầm mắt lên xa bao trùm cả một không gian trong vắt chìm trong bóngđêm vô tận. Đêm trong như thủy tinh, như bầu trời trong. Mây vắng, trời trong, đêmthuỷ tinh là ba hình ảnh độc lập, dị biệt nhưng song song. Và ánh sáng của vầngtrăng trên bầu trời ánh chiếu xuống không mang cảm giác yên bình như thường thấymà nó sáng “lung linh”, mà lại là “ linh lung”. Hồn thơ tinh vi như Xuân Diệu đã lạhóa từ ngữ để làm sống dậy những cảm giác tê đến rợn người, của cả thị giác và xúcgiác. Cái tôi cá nhân đã trở thành “ siêu tôi” để đồng nhất vào ánh sáng, âm nhạc đó.Một cái “ rùng mình” mà nguyên nhân của sự rung mình đó cũng được nhà thơ lígiải, đó là sự tích về cái chết của người phụ nữ, khi người phụ nữ ấy cất tiếng hátrồi đắm mình trong dòng chảy của dòng nước xanh, vào đúng thời khắc đêm rằm,khi ánh trăng cũng đẹp, cũng lung linh như vậyThu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời,Ðàn ghê như nước, lạnh, trời ơi...Long lanh tiếng sỏi vang vang hậnTrăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người...Không gian ban đầu đã được miêu tả rõ hơn “ vào đêm thu”. Cái lạnh ấy đã làmtrăng sáng hơn cả. Rồi xâm nhập vào tiếng đàn gây nên cảm giác ghê rợn vô cùnggợi lên một thứ âm nhạc đau đớn, khắc khoải từ tâm can. Gam độ của nỗi buồnngày càng gia tăng. Cả âm nhạc, cả ánh sáng tụ đọng thành từng giọt lạnh lẽo đếnxương da. Cái hay của bài thơ chính là sự miêu tả cảm xúc. Cái cảm xúc vô hình kiabỗng trở nên có hình, có khối. Không gian ở đây là không gian của tâm trạng.Dường như ở đây cảm giácthực khuất đi mà chỉ còn lại là ảo giác. Tác giả sốngbằng ảo giác. Chính dư âm tiếng đàn đã làm cho thiên nhiên âm nhạc và con ngườitương tư nhau: “Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người” làm cho hiện tại luyến lưudĩ vãng, làm cho sự cách biệt giữa không gian và thời gian, nghệ thuật và tình ngườingắn lại, nhưng cũng lại trải ra biền biệt đến vô cùng.. Tiếng nhạc bi thương, réo rắtnhư thế là bởi chính chủ thể của tiếng đàn ấy đang đeo mối sầu không có người bàytỏ “Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người”. |