Sự tiêu hóa và hấp thụ thức ăn diễn ra như thế nào

Kém hấp thu có thể ảnh hưởng đến các chất dinh dưỡng đa lượng (như protein, carbohydrate, chất béo), chất dinh dưỡng vi lượng (như vitamin, khoáng chất), hoặc cả hai, gây ra thải quá nhiều phân, thiếu dinh dưỡng, và các triệu chứng dạ dày - tá tràng. Kém hấp thu có thể xảy ra ở toàn thân, với sự kém hấp thu hầu hết các chất dinh dưỡng, hoặc một phần (cô lập), với sự giảm hấp thu của một số chất dinh dưỡng cụ thể.

Sinh lý bệnh

Tiêu hóa và hấp thu diễn ra bằng ba giai đoạn:

  • Sự thủy phân trong lòng mạch của chất béo, protein, và carbohydrate do enzyme - muối mật làm tăng sự hòa tan chất béo trong giai đoạn này

  • Tiêu hóa bởi các enzym ở vùng riềm bàn chải và tạo ra các sản phẩm cuối cùng

  • Vận chuyển dưỡng chất bằng đường bạch huyết

Thuật ngữ kém hấp thu thường được sử dụng khi bất kỳ giai đoạn nào bị suy giảm, nhưng, chính xác hơn, sự suy giảm pha 1 là rối loạn tiêu hóa chứ không phải là rối loạn hấp thu.

Tiêu hóa chất béo

Các enzyme tụy (lipase và colipase) phân hủy các triglyceride chuỗi dài thành các axit béo và monoglycerides, kết hợp với các axit mật và các phospholipid để hình thành các micelles đi qua các tế bào ruột ở hỗng tràng. Các axit béo đã hấp thu được tổng hợp lại và kết hợp với protein, cholesterol và phospholipid để hình thành các chylomicron, được vận chuyển bởi hệ thống bạch huyết. Các chuỗi triglyceride trung bình được hấp thu trực tiếp.

Các chất béo không được hấp thu chứa vitamin tan trong dầu (A, D, E, K) và có thể một số khoáng chất khác, gây ra thiếu hụt. Sự phát triển quá mức của vi khuẩn dẫn đến phân giải và dehydroxyl hóa muối mật, hạn chế sự hấp thu chất béo. Các muối mật không hấp thu sẽ kích thích tiết nước trong đại tràng, gây tiêu chảy.

Tiêu hóa carbohydrate

Enzyme amylase tụy và các enzym ở riềm chải trên các vi nhung mao phân giải các cacbohydrates và các disaccharides thành các monosaccharides thành phần. Vi khuẩn ở đại tràng lên men cacbonhydrat không hấp thụ thành cacbon dioxit, mêtan, hydro và axit béo chuỗi ngắn (butyrate, propionate, axetat và lactat). Những axit béo này gây tiêu chảy. Khí gây ra đầy bụng và chướng bụng.

Tiêu hóa protein

Chất pepsin dạ dày bắt đầu tiêu hóa các protein trong dạ dày (và cũng kích thích sự phóng thích của cholecystokinin, điều này rất quan trọng đối với việc tiết các enzym tụy). Enterokinase, một enzym vùng diềm bàn chải, kích hoạt trypsinogen thành trypsin, nó chuyển nhiều protease tụy thành các dạng hoạt tính của chúng. Các enzym tuyến tụy đã được hoạt hóa thủy phân protein thành oligopeptides, được hấp thụ trực tiếp hoặc thủy phân thành các axit amin.

Bệnh nguyên

Kém hấp thu có nhiều nguyên nhân (xem Bảng: Nguyên nhân gây kém hấp thu Nguyên nhân gây kém hấp thu Chứng kém hấp thu là sự tổng hợp không đầy đủ các chất có trong chế độ ăn uống do các rối loạn trong quá trình tiêu hóa, hấp thu, hoặc vận chuyển. Kém hấp thu có thể ảnh hưởng đến các chất dinh... đọc thêm ). Một số bệnh lý gây kém hấp thu (ví dụ:, bệnh celiac Bệnh celiac Bệnh Celiac là một bệnh qua trung gian miễn dịch di truyền ở người do không dung nạp gluten, dẫn đến chứng viêm niêm mạc và teo nhung mao, gây kém hấp thu. Triệu chứng thường bao gồm tiêu chảy... đọc thêm

Sự tiêu hóa và hấp thụ thức ăn diễn ra như thế nào
) làm suy yếu sự hấp thu hầu hết các chất dinh dưỡng, vitamin, và khoáng chất (sự kém hấp thu toàn thể); những bệnh lý khác (ví dụ: thiếu máu ác tính) gây kém hấp thu chọn lọc.

Suy tụy gây kém hấp thu nếu > 90% chức năng bị mất. Tăng axit trong ống tiêu hóa (vd., Hội chứng Zollinger-Ellison U tiết gastrin (Xem thêm Tổng quan về u nội tiết tụy.) U tiết gastrin là u sản xuất ra gastrin, thường khu trú ở tụy hay thành tá tràng. Gây tăng tiết acid dạ dày và loét dạ dày tá tràng nặng, dai dẳng khó... đọc thêm ) ức chế lipase và chất béo tiêu hóa. Xơ gan Xơ gan Xơ gan là một giai đoạn muộn của xơ hoá gan là hậu quả của quá trình lan tỏa biến đổi cầu trúc bình thường của tế bào gan. Xơ gan được đặc trưng bởi các nốt tái tạo bao quanh bởi các mô xơ dày... đọc thêm và ứ mật làm giảm tổng hợp mật gan hoặc cung cấp muối mật vào tá tràng, gây giảm hấp thu. Các nguyên nhân khác được thảo luận ở phần khác trong chương này.

Nhiễm vi khuẩn, virus và ký sinh trùng cấp tính (xem thêm Tổng quan về viêm dạ dày ruột Tổng quan về viêm dạ dày ruột Viêm dạ dày ruột là tổn thương viêm của lớp lót phía trong dạ dày và ruột non và đại tràng. Hầu hết các trường hợp đều do nhiễm trùng, mặc dù viêm dạ dày ruột có thể xảy ra sau uống thuốc và... đọc thêm ) có thể gây kém hấp thu tạm thời, có thể là do thương tổn tạm thời, nông ở các lông mao và vi lông mao. Nhiễm trùng do vi khuẩn mạn tính ở ruột non là không phổ biến, ngoại trừ quai ruột mù, xơ cứng hệ thống Xơ cứng bì toàn thể Xơ cứng bì toàn thể là bệnh mạn tính hiếm gặp chưa rõ nguyên nhân được đặc trưng bởi xơ hóa lan tỏa và tổn thương mạch ở da, khớp và các cơ quan nội tạng (đặc biệt là thực quản, đường tiêu hóa... đọc thêm

Sự tiêu hóa và hấp thụ thức ăn diễn ra như thế nào
, và gây ra túi thừa Bệnh túi thừa của dạ dày và ruột non Túi thừa là những túi niêm mạc nhô ra từ cấu trúc ống (xem thêm Định nghĩa của bệnh túi thừa). Túi thừa hiếm khi ở dạ dày nhưng có ở tá tràng với tới 25% số người. Hầu hết các túi thừa tá tràng... đọc thêm . Vi khuẩn đường ruột có thể dùng vitamin nhóm thực phẩm B12 và các chất dinh dưỡng khác, có thể gây cản trở hệ thống enzyme, và gây tổn thương lớp màng nhầy.

Triệu chứng và Dấu hiệu

Hậu quả của không hấp thu các chất dinh dưỡng, đặc biệt là giảm hấp thu toàn thân, bao gồm tiêu chảy, chứng đi ngoài phân mỡ, đầy bụng và chướng hơi. Các triệu chứng khác là kết quả của sự thiếu hụt dinh dưỡng. Bệnh nhân thường giảm cân mặc dù ăn uống đầy đủ.

Tiêu chảy mạn tính là triệu chứng phổ biến nhất và để gợi ý đánh giá bệnh nhân. Đi ngoài phân mỡ, dấu hiệu của sự kém hấp thu, xảy ra khi > 7 g / ngày chất béo bị bài tiết. Đi ngoài phân mỡ thường có mùi hôi, bạc màu, số lượng nhiều kèm nhầy.

Sự thiếu hụt nghiêm trọng vitamin và khoáng chất xảy ra khi kém hấp thu mức độ nặng; các triệu chứng liên quan đến sự thiếu hụt dinh dưỡng cụ thể (xem Bảng: Triệu chứng của kém hấp thu Triệu chứng của kém hấp thu Chứng kém hấp thu là sự tổng hợp không đầy đủ các chất có trong chế độ ăn uống do các rối loạn trong quá trình tiêu hóa, hấp thu, hoặc vận chuyển. Kém hấp thu có thể ảnh hưởng đến các chất dinh... đọc thêm ). Thiếu hụt vitamin B12 Thiếu Vitamin B12 (Xem thêm Tổng quan về các Vitamin.) Cobalamin là một thuật ngữ chung cho các hợp chất hoạt động sinh học vitamin B12. Các hợp chất này liên quan đến quá trình chuyển hóa axit nucleic, vận chuyển... đọc thêm có thể xảy ra trong hội chứng quai ruột mù hoặc sau khi phẫu thuật mở rộng đoạn cuối hồi tràng hoặc dạ dày. Thiếu sắt Sự thiếu hụt sắt Sắt (Fe) là một thành phần của hemoglobin, myoglobin, và nhiều enzyme trong cơ thể. Sắt Heme, chủ yếu chứa trong các sản phẩm động vật, được hấp thụ tốt hơn sắt không heme (ví dụ như ở thực... đọc thêm có thể là triệu chứng duy nhất ở bệnh nhân suy giảm hấp thu mức độ nhẹ.

Vô kinh Vô kinh Vô kinh (không có kinh nguyệt) có thể là nguyên phát hoặc thứ phát. Vô kinh nguyên phát là sự mất kinh nguyệt xảy ra bởi một trong những đặc điểm sau đây: Tuổi 16 hoặc 2 năm, sau khi đã có những... đọc thêm có thể là hậu quả của suy dinh dưỡng và là biểu hiện quan trọng của bệnh celiac ở phụ nữ trẻ.

Chẩn đoán

  • Chẩn đoán lâm sàng điển hình rõ ràng từ một bệnh sử bệnh nhân chi tiết

  • Xét nghiệm máu để đánh giá hậu quả của sự kém hấp thu

  • Xét nghiệm tìm chất béo trong phân để xác nhận hấp thu kém (nếu không rõ ràng)

  • Nguyên nhân được chẩn đoán bằng nội soi, chụp X quang có thuốc cản quang, hoặc các xét nghiệm khác dựa trên kết quả

Nghi ngờ giảm hấp thu máu ở bệnh nhân tiêu chảy mãn tính, sụt cân và thiếu máu. Bệnh nguyên đôi khi rõ ràng. Ví dụ, bệnh nhân giảm hấp thu do viêm tụy mãn Viêm tụy mạn tính Viêm tụy mãn là viêm tụy dai dẳng dẫn đến tổn thương cấu trúc vĩnh viễn với xơ hóa và chèn ép ống dẫn, tiếp theo là giảm chức năng ngoại tiết và nội tiết. Uống rượu và hút thuốc lá là hai yếu... đọc thêm thường có các đợt viêm tuỵ cấp. Bệnh nhân có bệnh celiac Bệnh celiac Bệnh Celiac là một bệnh qua trung gian miễn dịch di truyền ở người do không dung nạp gluten, dẫn đến chứng viêm niêm mạc và teo nhung mao, gây kém hấp thu. Triệu chứng thường bao gồm tiêu chảy... đọc thêm

Sự tiêu hóa và hấp thụ thức ăn diễn ra như thế nào
có thể biểu hiện bởi tiêu chảy kéo dài bị trầm trọng thêm bởi các sản phẩm gluten và có thể có viêm da mụn rộp. Bệnh nhân bị xơ gan và ung thư tuyến tụy có thể xuất hiện vàng da. Đau bụng ,nhiều hơi trong dạ dày, và tiêu chảy nước xảy ra trong vòng 30 đến 90 phút sau khi ăn carbohydrate gợi ý việc thiếu enzyme disaccharidase, thường là lactase. Các trường hợp phẫu thuật bụng nặng nề trước đây gợi ý hội chứng ruột ngắn Hội chứng ruột ngắn Hội chứng ruột ngắn là giảm hấp thu do phẫu thuật cắt đoạn ruột non (thường là hơn 2/3 chiều dài của ruột non). Các triệu chứng phụ thuộc vào độ dài và chức năng của ruột non còn lại, nhưng... đọc thêm .

Nếu tiền sử cho thấy một nguyên nhân cụ thể, xét nghiệm nên được hướng đến nguyên nhân đó (xem Hình: Các xét nghiệm gợi ý hội chứng kém hấp thu. Các xét nghiệm gợi ý hội chứng kém hấp thu. Chứng kém hấp thu là sự tổng hợp không đầy đủ các chất có trong chế độ ăn uống do các rối loạn trong quá trình tiêu hóa, hấp thu, hoặc vận chuyển. Kém hấp thu có thể ảnh hưởng đến các chất dinh... đọc thêm ). Nếu không có nguyên nhân rõ ràng, xét nghiệm máu có thể được sử dụng làm công cụ sàng lọc (ví dụ: CTM, chỉ số hồng cầu, ferritin, vitamin B12, folate, canxi, albumin, cholesterol, PT). Kết quả xét nghiệm có thể gợi ý chẩn đoán và định hướng các cận lâm sàng khác.

Các xét nghiệm gợi ý hội chứng kém hấp thu.

Sự tiêu hóa và hấp thụ thức ăn diễn ra như thế nào

Thiếu máu hồng cầu to Thiếu máu hồng cầu to nguyên hồng cầu khổng lồ Thiếu máu nguyên hồng cầu khổng lồ hầu hết do thiếu vitamin B12 và folate. Sinh máu không hiệu quả ảnh hưởng đến tất cả các tế bào nhưng đặc biệt là hồng cầu Chẩn đoán thường dựa trên một xét... đọc thêm

Sự tiêu hóa và hấp thụ thức ăn diễn ra như thế nào
cần nhanh chóng đo lượng folate huyết thanh và nồng độ B12. Thiếu folate phổ biến ở các rối loạn lớp nhầy vùng đầu ruột non, bệnh celiac Bệnh celiac Bệnh Celiac là một bệnh qua trung gian miễn dịch di truyền ở người do không dung nạp gluten, dẫn đến chứng viêm niêm mạc và teo nhung mao, gây kém hấp thu. Triệu chứng thường bao gồm tiêu chảy... đọc thêm
Sự tiêu hóa và hấp thụ thức ăn diễn ra như thế nào
, Viêm loét ruộttiêu chảy nhiệt đới Tiêu chảy nhiệt đới Tiêu chảy nhiệt đới là một bệnh mắc phải hiếm có, có thể do nguyên nhân nhiễm khuẩn, đặc trưng bởi kém hấp thu và thiếu máu hồng cầu lớn. Chẩn đoán là lâm sàng và sinh thiết ruột non. Điều trị... đọc thêm , Bệnh Whipple Bệnh Whipple Bệnh Whipple là một bệnh hệ thống hiếm gặp gây ra bởi vi khuẩn Tropheryma whipplei. Các triệu chứng chính là viêm khớp, giảm cân, đau bụng, và tiêu chảy. Chẩn đoán là sinh thiết ruột non. Điều... đọc thêm ). Nồng độ B12 thấp có thể xảy ra ở bệnh thiếu máu ác tính, viêm tụy mãn tính,vi khuẩn phát triển quá mức,và bệnh đoạn cuối hồi tràng. Nồng độ B12 giảm thấp kết hợp với nồng độ folate cao gợi ý tình trạngvi khuẩn phát triển quá mức Hội chứng loạn khuẩn Loạn khuẩn ở ruột non có thể là kết quả của sự thay đổi trong giải phẫu ruột hoặc nhu động ruột, hoặc sự thiếu hụt acid trong dạ dày. Tình trạng này có thể dẫn đến thiếu hụt vitamin, giảm hấp... đọc thêm , vì vi khuẩn đường ruột sử dụng vitamin B12 và tổng hợp folate.

Thiếu máu hồng cầu nhỏ gợi ý tới thiếu sắt, có thể xảy ra ở bệnh celiac. Albumin là một chỉ số chung về tình trạng dinh dưỡng. Albumin thấp có thể là kết quả của việc thiếu ăn, giảm tổng hợp trong xơ gan, hoặc mất protein. Carotene huyết thanh thấp (tiền chất vitamin A) cho thấy sự hấp thu kém trong điều kiện được cung cấp đầy đủ.

Chẩn đoán xác định hội chứng kém hấp thu

Các xét nghiệm để chẩn đoán xác định kém hấp thu là cần thiết khi các triệu chứng lâm sàng mơ hồ và nguyên nhân không rõ ràng. Hầu hết các xét nghiệm đánh giá kém hấp thu bao gồm kém hấp thu chất béo vì nó tương đối dễ đo lường. Chẩn đoán rối loạn hấp thu carbohydrate không chính xác khi bệnh nhân có ỉa phân mỡ Các xét nghiệm chẩn đoán kém hấp thu protein hiếm khi được sử dụng vì sản phẩm chứa nitơ trong phân khó đo lường được.

Đo trực tiếp mỡ phân từ 1 mẫu phân 72 giờ là tiêu chuẩn vàng cho việc chẩn đoán phân mỡ nhưng không cần thiết với chứng phân mỡ nặng có nguyên nhân rõ ràng. Tuy nhiên, xét nghiệm này chỉ được thực hiện thường quy ở một vài trung tâm. Phân được thu thập trong thời gian 3 ngày mà bệnh nhân tiêu thụ 100 g chất béo / ngày. Tổng lượng chất béo trong phân được đo. Mỡ phân > 7 g/ngày là bất thường. Mặc dù kém hấp thu chất béo mức độ nghiêm trọng (mỡ trong phân 40 g / ngày) gợi ý giảm chức năng tụy hoặc bệnh niêm mạc ruột non, test này không thể xác định nguyên nhân cụ thể của sự giảm hấp thu. Bởi vì xét nghiệm phức tạp, khó chịu và tốn thời gian, nó không được chấp nhận bởi hầu hết bệnh nhân và khó làm.

Nhuộm Sudan III tiêu bản phân là một xét nghiệm sàng lọc mỡ trong phân đơn giản và trực tiếp nhưng không có giá trị định lượng. Acid steatocrit là một phép thử phân tích trọng lượng được thực hiện trên một mẫu phân; nó có độ nhạy và độ đặc hiệu cao (sử dụng mẫu phân 72 giờ theo tiêu chuẩn). Phân tích phản xạ cận hồng ngoại (NIRA) đồng thời kiểm tra phân cho chất béo, nitơ, và carbohydrate và có thể trở thành thử nghiệm thông dụng trong tương lai; xét nghiệm này hiện chỉ có ở một vài trung tâm.

Đo lượng elastase và chymotrypsin trong phân cũng có thể giúp phân biệt nguyên nhân do tụy hay đường ruột của chứng kém hấp thu; cả hai đều giảm trong suy tụy ngoại tiết, trong khi cả hai đều là bình thường trong các nguyên nhân đường ruột.

Nghiệm pháp hấp thu d-xylose có thể được thực hiện nếu nguyên nhân không rõ ràng; tuy nhiên, hiện nay hiếm khi nó được sử dụng vì sự xuất hiện của các xét nghiệm nội soi và chẩn đoán hình ảnh tiên tiến. Mặc dù nó có thể đánh giá không xâm lấn tính toàn vẹn niêm mạc đường ruột và giúp phân biệt với niêm mạc trong bệnh tụy, bất thường nghiệm pháp d-xylose cần kiểm tra bằng nội soi có sinh thiết niêm mạc ruột non. Do đó, sinh thiết ruột non đã thay thế nghiệm pháp này để chẩn đoán bệnh niêm mạc ruột.

d-Xylose được hấp thụ bởi sự khuếch tán thụ động và không đòi hỏi enzyme tụy để tiêu hóa. Kết quả nghiệm pháp d-xylose bình thường trong phân mỡ mức độ từ vừa đến nặng cho thấy suy tụy ngoại tiết chứ không phải là bệnh niêm mạc ruột non. Sự phát triển quá mức của vi khuẩn có thể gây ra các kết quả bất thường vì vi khuẩn đường ruột tổng hợp pentose, do đó làm giảm d-xylose sẵn có để hấp thụ.

Sau khi nhịn ăn, bệnh nhân được uống 25 g d-xylose pha trong 200 đến 300 ml nước. Nước tiểu được lấy trong 5h, mẫu máu tĩnh mạch được lấy sau 1h d-xylose trong huyết thanh < 20 mg / dL hoặc < 4 g trong mẫu nước tiểu cho thấy sự hấp thu bất thường. Nồng độ thấp giả tạo cũng có thể xảy ra trong bệnh thận, tăng áp tĩnh mạch cửa, cổ chướng, hoặc giảm thời gian làm rỗng dạ dày.

Chẩn đoán nguyên nhân của sự kém hấp thu

Xét nghiệm chẩn đoán đặc hiệu hơn (như nội soi đại tràng, nội soi ruột non, chụp barium) được chỉ định để chẩn đoán một số nguyên nhân gây chứng kém hấp thu.

Nội soi tiêu hóa trên với sinh thiết ruột non được tiến hành khi nghi ngờ bệnh lý niêm mạc ruột hoặc test d-xylose cho kết quả bất thường ở bệnh nhân phân nhiễm mỡ nhiều. Nội soi cho phép đánh giá hình ảnh niêm mạc ruột non và giúp sinh thiết trực tiếp đến các vùng bị ảnh hưởng. Bệnh phẩm hút từ ruột non có thể được gửi nuôi cấy vi khuẩn và đếm số khuẩn lạc để ghi lại sự loạn khuẩn nếu có nghi ngờ lâm sàng. Nội soi đầu dò video Nội soi viên nang video Các ống nội soi mềm được trang bị máy quay video để có thể quan sát ống tiêu hóa trên từ họng đến tá tràng và ống tiêu hóa dưới từ hậu môn đến đại tràng lên (và đôi khi đến đoạn cuối hồi tràng)... đọc thêm

Sự tiêu hóa và hấp thụ thức ăn diễn ra như thế nào
bây giờ có thể được sử dụng để kiểm tra các vùng xa của ruột non xa hơn tầm soi nội soi thông thường. Các đặc điểm mô học về sinh thiết ruột non (xem Bảng: Hình thái niêm mạc ruột non ở một số bệnh giảm hấp thu Hình thái niêm mạc ruột non ở một số bệnh giảm hấp thu Chứng kém hấp thu là sự tổng hợp không đầy đủ các chất có trong chế độ ăn uống do các rối loạn trong quá trình tiêu hóa, hấp thu, hoặc vận chuyển. Kém hấp thu có thể ảnh hưởng đến các chất dinh... đọc thêm ) có thể thành lập được bệnh niêm mạc cụ thể.

X-quang tá tràng (ví dụ như chụp lưu thông, thụt đường ruột, CT ổ bụng) có thể phát hiện ra các cấu trúc giải phẫu có khuynh hướng loạn khuẩn. Chúng bao gồm các túi mật tràng, rò, các đoạn ruột mù được tạo ra bằng phẫu thuật và nối thông, loét và các vết rạn da. X quang bụng thẳng có thể cho thấy vôi hóa tụy, cho thấy viêm tụy mãn tính. Chụp cản quang ruột non bằng Barit vừa không nhạy và không đặc hiệu nhưng có thể cho thấy những dấu hiệu gợi ý về bệnh niêm mạc (ví dụ như giãn các vòng ruột nhỏ, niêm mạc mỏng đi hoặc dày lên, sự phân mảnh thô của cột bari). CT, MRI, và ERCP có thể chẩn đoán viêm tụy mãn tính.

Nghiệm pháp đánh giá suy tụy Chẩn đoán Viêm tụy mãn là viêm tụy dai dẳng dẫn đến tổn thương cấu trúc vĩnh viễn với xơ hóa và chèn ép ống dẫn, tiếp theo là giảm chức năng ngoại tiết và nội tiết. Uống rượu và hút thuốc lá là hai yếu... đọc thêm (ví dụ, xét nghiệm kích thích secretin, xét nghiệm bentiromid, xét nghiệm pancreolauryl, trypsinogen huyết thanh, elastase phân, chitotympsin phân) được thực hiện nếu tiền sử gợi ý nhưng không nhạy cảm với bệnh tụy tụy nhẹ.

14Nghiệm pháp hơi thở C-xylose giúp chẩn đoán loạn khuẩn. 14C-xylic được cho uống, và thở ra 14CO2 nồng độ được đo. Giáng hóa của xylose bởi loạn khuẩn làm 14CO2 xuất hiện trong khí thở ra.

Nghiệm pháp hydro (H2) hơi thở đo lượng khí hydro được thở ra do sự phân hủy của cácbon hydrat của vi khuẩn. Ở những bệnh nhân có thiếu hụt disaccharidase, vi khuẩn đường ruột trong đại tràng phân hủy carbohydrate không hấp thụ, làm tăng hiđrô thở ra. Thử nghiệm thở bằng hơi lactose-hydro chỉ hữu ích để khẳng định thiếu lactase Không dung nạp carbohydrat Không dung nạp carbohydrate là tình trạng không có khả năng tiêu hóa các carbohydrate nhất định do thiếu một hoặc nhiều enzym đường ruột. Triệu chứng bao gồm tiêu chảy, đau bụng, và đầy hơi... đọc thêm và không được sử dụng làm xét nghiệm chẩn đoán ban đầu trong việc đánh giá sự hấp thu kém. 14 Test c-xylose và hydro đã thay thế các vi khuẩn của aspira trong quá trình nội soi để chẩn đoán hội chứng loạn khuẩn Hội chứng loạn khuẩn Loạn khuẩn ở ruột non có thể là kết quả của sự thay đổi trong giải phẫu ruột hoặc nhu động ruột, hoặc sự thiếu hụt acid trong dạ dày. Tình trạng này có thể dẫn đến thiếu hụt vitamin, giảm hấp... đọc thêm .

Nghiệm pháp Schilling đánh giá sự hấp thu vitamin B12. 4 giai đoạn của bệnh xác định xem sự thiếu hụt có phải là kết quả của thiếu máu ác tính, suy giảm ngoại ý tụy, tăng trưởng vi khuẩn, hoặc bệnh đường ruột.

  • Giai đoạn 1: Bệnh nhân được cho 1 mcg cyanocobalamin có chứa phóng xạ Po đồng thời với 1000 mcg IM không mang nhãn dán cobalamin để làm đậm màu các tế bào gan. Một mẫu nước tiểu 24-giờ được phân tích về phóng xạ; bài tiết qua nước tiểu < 8% liều uống cho thấy sự hấp thu cobalamin kém.

  • Giai đoạn 2: Nếu giai đoạn 1 là bất thường, xét nghiệm được lặp lại với việc bổ sung các yếu tố nội. Thiếu máu ác tính có mặt nếu các yếu tố nội bình thường hóa sự hấp thụ.

  • Giai đoạn 3: Giai đoạn 3 được thực hiện sau khi bổ sung các men tụy; kết quả bình thường trong giai đoạn này cho thấy giảm hấp thu cobalamin thứ phát do suy tụy

  • Giai đoạn 4: Giai đoạn 4 được thực hiện sau khi điều trị kháng sinh phổ rộng (bao gồm cả vi khuẩn yếm khí);kết quả bình thường sau khi điều trị kháng sinh cho thấy sự phát triển quá mức của vi khuẩn.

Thiếu cobalamin thứ phát do bệnh hồi tràng hay cắt đoạn hồi tàng dẫn đến bất thường ở tất cả các giai đoạn.

Các xét nghiệm đối với những nguyên nhân ít gặp hơn gây giảm hấp thu bao gồm gastrin huyết thanh (hội chứng zollinger-Ellison), yếu tố nội và các kháng thể tế bào ở vùng (thiếu máu ác tính), Cl mồ hôi (xơ nang), điện di lipoprotein (abetalipoproteinemia) và cortisol huyết thanh (bệnh Addison).

Để chẩn đoán suy giảm chức năng hấp thu của acid mật, có thể xảy ra với các bệnh của đoạn cuối hồi tràng (ví dụ như bệnh Crohn, cắt bỏ nhiều phần tận cùng của hồi tràng), bệnh nhân có thể được điều trị thử thuốc có chứa chất gắn kết axit mật (ví dụ cholestyramine). Ngoài ra, test selenium homocholic acid taurine (SeHCAT) có thể được thực hiện. Trong test này, uống acid mật được đánh dấu bằng 75Se và sau 7 ngày, axit mật giữ lại được đo bằng máy quét toàn bộ hoặc máy ảnh gamma. Nếu sự hấp thu axit mật không bình thường, tỷ lệ giữ dưới 5%.