Tính năng sản của tín hiệu ngôn ngữ là gì

Câu hỏi: Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu đặcbiệt được thể hiện như thế nào?

Trả lời:

Hệ thống tín hiệu ngôn ngữ khác hệ thống tín hiệu khác không chỉ ở giá trị khu biệt của mỗi tín hiệu ngôn ngữ cụ thể mà ở phương diện hệ thống của nó, biểu hiện ở mặt sau:

* Tính phức tạp, nhiều tầngbậc:

- Hệ thống tín hiệu ngôn ngữ bao gồm nhiều hệ thống nhỏ: Ví dụ: hệ thống hình vị, từ, cụm từ, hệ thóng câu... Các hệ thống của ngôn ngữ có quan hệ với nhau, các yếu tố trong cùng hệ thống cũng có MQH lẫn nhau. Ví dụ hệ thống hình vị là đơn vị cấu tạo từ. Trong hệ thống hình vị, hệ thống âm vị phụ âm đầu có MQH với hệ thống âm chính, âm cuối về khả năng kết hợp để cấu tạotừ.

- Biểu hiện ngôn ngữ nhiều cấp độ, tầng bậc các đơn vị ngôn ngữ. Mỗi yếu tố/ một đơn vị ngôn ngữ tạo nên một hệ thống ngôn ngữ quan hệ cấp độ, tầng bậc với nhau [quan hệ bao chức và quan hệ thành tố trong ngônngữ].

- Đơn vị cấp thấp làm thành phần cấu tạo đơn vị cấp cao hơn. Đơn vị cấp cao hơn bao chức đơn vị cấp thấp.

Ví dụ: hình vị là đơn vị cấu tạo từ, từ là đơn vị cấu tạo nên câu...

* Tính đa trị của tín hiệu ngônngữ:

- MQH giữa CBH và CĐBH có tính đơn trị và đa trị. Tính đơn trị biểu đạt hiện tượng từ 1 nghĩa; tức là 1 CBH tương ứng một CĐBH, tính đa trị là hiện tượng từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, 1 CBH tương ứng nhiềuCĐBH.

- Tính đa trị của tín hiệu ngôn ngữ còn biểu hiện chức năng của tín hiệu ngôn ngữ. Ngoài 2 chức năng cơ bản là chức năng giao tiếp và chức năng tư duy còn có nhiều chức năng khác nữa như: chức năng biểu cảm, biểu thị khái niệm, chức năng t chức, giải trí, biểuhiện....

* Tính hình tuyến của tín hiệu ngônngữ:

- Các tín hiệu ngôn ngữ lần lượt xuất hiện theo tuyến tính [thời gian] tạo thành chuỗi lời nói [hoặc trên chữ viết]. Điều này khác với các tín hiệu khác như: bắn pháo hoa có thể đồng thời nhiều quả cùng một lực. Vì vậy, trật tự sắp xếp các từ quy định nghĩa của câu hay ngôn bản.

- Tính hình tuyến của tín hiệu ngôn ngữ thể hiện ở chỗ chúng phải lần lượt kế tiếp nhau mà không thể xuất hiện đồng thời. Âm nọ rồi đến âm kia, từ này rồi đến từ khác tạo thành một chuỗi [biểu hiện ngôn ngữ âm thanh và chữ viết].

- Ngôn ngữ được tổ chức theo nguyên tắc tín hiệu: dùng âm thanh/ chữ viết để biểu đạt những ND nhận thức về thế giới khách quan, biểu đạt tư tưởng, tình cảm của con người. TH ngôn ngữ có tính võ đoán rất cao và có tính hình tuyến rõ rệt.

* Tính năng sản của tín hiệu ngôn ngữ:

- Tín hiệu ngôn ngữ khác tín hiệu khác ở chỗ: tín hiệu ngôn ngữ có thể tạo ra các tín hiệu ngôn ngữ theo phương thức ghép hoặc láy các tín hiệu ngôn ngữ với nhau. Đó là phương thức tạo từ ghép và từ láy trong tiếng Việt làm cho hệ thống tín ngôn ngữ thêm phong phú hơn.

- Bên cạnh đó, lớp từ mới hình thành cũng là điều kiện tăng só lượng tín hiệu ngôn ngữ nhiều hơn về số lượng tạo điều kiện cho con người lựa chọn tín hiệu ngôn ngữ để sử dụng đạt hiệu quả giao tiếp cao nhất. Đó là sự biểu hiện tính năng sản của tín hiệu ngôn ngữ.

Ví dụ:

- xanh, xanh lè, xanh om, xanh ngắt, xanh cốm, xanh lục, xanh lam...

- bàn, bàn bạc, bàn luận, bàn thảo, bàn tán, ..

- đu, đu tàu, đu sông, đu làng, đu cu...

- nhỏ, nhô nhỏ, nhỏ nhắn, nhỏ nhoi,...

- internet, di động, máy in, máy phô tô coppy..

* Tính độc lập của tín hiệu ngôn ngữ:

- Ngôn ngữ có tính xã hội, có quy luật phát triển nội tại của mình, không lệ thuộc vào ý muốn cá nhân. Ngôn ngữ tồn tại với tư cách là một thực thể độc lập qua các thời kì, xã hội chế độ khác nhau.

- Chính sách về ngôn ngữ là điều kiện ngôn ngữ được phát triển. Vì thế, ta nói ngôn ngữ có tính độc lập tương đối.

Trong đời sống của mình, loài người phát hiện, làm quen, xây dựng và sử dụng nhiều kiểu loại tín hiệu khác nhau. Việc nghiên cứu toàn diện các loại tín hiệu đó, là nhiệm vụ trung tâm của khoa tín hiệu học [semiology]

Khái niệm tín hiệu

Đã có nhiều quan niệm khác nhau và nhiều cách phân loại khác nhau đối với tín hiệu. Để cho vấn đề ở đây trở nên giản tiện, đỡ phức tạp, chúng ta quan niệm về tín hiệu như sau:

Tín hiệu là một sự vật [hoặc một thuộc tính vật chất, một hiện tượng] kích thích vào giác quan của con người, làm cho con người ta tri giác được và lí giải, suy diễn tới một cái gì đó nằm ngoài sự vật ấy.

Ví dụ: Cái đèn đỏ trong bảng đèn tín hiệu giao thông đường bộ là một tín hiệu, bởi vì, khi nó hoạt động [sáng lên], người ta thấy nó và suy diễn tới sự cấm đoán, không được đi qua chỗ nào đó.

Vậy, một sự vật sẽ là một tín hiệu nếu nó thoả mãn các yêu cầu sau đây:

  • Phải là một sự vật hoặc thuộc tính vật chất được cảm nhận qua giác quan của con người, chẳng hạn: âm thanh, màu sắc, ánh sáng, hình vẽ, vật thể,... Nói cách khác, tín hiệu phải là vật chất, kích thích đến giác quan của con người và con người cảm nhận được.
  • Phải đại diện cho một cái gì đó, gợi ra cái gì đó không phải là chính nó. Tức là cái mà nó đại diện cho, không trùng với chính nó. Ví dụ: Tín hiệu đèn đỏ báo hiệu nội dung cấm đi. Nội dung này và bản thể vật chất của cái đèn đỏ không hề trùng nhau.
  • Mặt khác, nó cũng sẽ chỉ là tín hiệu khi mối liên hệ giữa nó với "cái mà nó chỉ ra" được người ta nhận thức, tức là người ta phải biến liên hội nó với cái gì.
  • Sự vật đó phải nằm trong một hệ thống tín hiệu nhất định để được xác định tư cách tín hiệu của mình cùng với các tín hiệu khác. Chẳng hạn, cái đèn đỏ vừa nói bên trên là một tín hiệu, thế nhưng, nếu tách nó ra, đưa vào chùm đèn trang trí thì nó lại không phải là tín hiệu nữa. Sở dĩ như thế là vì chỉ có nằm trong hệ thống tín hiệu đèn giao thông, nó mới có tư các tín hiệu, được xác định cùng với đèn xanh, đèn vàng nhờ vào sự đối lập quy ước giữa chúng với nhau.

Theo Mai Ngọc Chừ; Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến: Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt. Nxb Giáo dục, H., 1997, trang 20–21

Bản chất tín hiệu của ngôn ngữ

Khi nói về bản chất tín hiệu của ngôn ngữ, chúng ra bàn về đặc trưng cấu trúc ngôn ngữ. Còn khi nói về bản chất xã hội của ngôn ngữ là chúng ta nói về các mặt chức năng khác nhau của ngôn ngữ trong xã hội. Như là một sự kiện quan trọng của đời sống nhân loại, ngôn ngữ mang trong mình nó cả những đặc điểm của cấu trúc lẫn chức năng.

Bởi vì con người là những thực thể vật chất rất cụ thể cho nên những gì đối với con người là quen thuộc thì cũng phải được vật chất hoá như vậy. Chính vì vậy, khi nói về bản chất tín hiệu của ngôn ngữ, người ta thường nói về hình thức tín hiệu, đó chính là phương tiện vật chất rất cụ thể mà trong ý thức con người, người ta có thể cảm nhận được thông qua các giác quan cụ thể của mình.

Các tín hiệu ngôn ngữ đã tác động trực tiếp đến con người thông qua hai giác quan quan trọng nhất là thính giác và thị giác. Trong hai kênh để truyền tín hiệu đó thì kênh thông quan thính giác là kênh cổ xưa hơn rất nhiều [trong vòng 5000 năm trở lại đây mới có chữ viết]. Điều này có thể giải thích như J. Lyons đã từng giải thích:

  • Trong quá trình lao động, khi đôi tay phải làm việc, đôi chân phải trụ thì chỉ có mắt và tai là rỗi. Tuy nhiên, trong hai cơ quan ấy thì mắt bận rộn hơn do phải thâu nhận hơn 90% thông tin cuộc sống. Chính vì thế, một cách tiêu cực, có thể suy ra rằng tai [thính giác] là có khả năng được sử dụng nhiều hơn cho thông tin về lời nói.
  • Mặt khác, khi sử dụng thị giác thì đương nhiên sẽ liên quan đến vấn đề ánh sáng trong khi những thông tin cần phải trao đổi giữa con người với nhau thì lại bất kể tối sáng.
  • Lí do thứ 3 mà loài người chọn âm thanh là do điều kiện lao động của người nguyên thuỷ. Môi trường làm việc lúc bấy giờ là các khu rừng sâu có nhiều cây cối che lấp. Với điều kiện như vậy, thị giác rất khó làm việc [1]. Chính vì vậy, loài người ngay từ cổ xưa đã chọn kênh thính giác làm kênh thông tin chủ yếu để giao tiếp.

Engels đã từng nói: “trước hết là lao động và sau đó đồng thời với lao động là ngôn ngữ đã biến bầy vượn thành loài người”. Sự khẳng định này của Engels cũng đồng thời nhấn mạnh rằng: ngôn ngữ nảy sinh từ lao động và chính nhờ lao động, con người đã tìm ra một kênh tối ưu nhất cho việc truyền tải các thông tin qua phương tiện âm thanh.

Bên cạnh kênh âm thanh, loài người, sau khi đã phát kiến ra chữ viết, còn sử dụng kênh thị giác cho việc truyền tải các thông tin trong giao tiếp giữa người với người. Tuy nhiên, do hạn chế về phương diện truyền, điều kiện chọn lựa người truyền nên phương tiện thông qua văn tự, chữ viết vẫn chỉ là một dạng phương tiện phái sinh trên một phương tiện vạn năng hơn là ngôn ngữ có âm thanh.

Với mỗi một tín hiệu ngôn ngữ, theo nguyên lí chung của việc thành lập một tín hiệu, bao giờ cũng phải có hai mặt: Đó là mặt biểu hiện [hình thức tín hiệu] và mặt được biểu hiện [nội dung tín hiệu]. Mặt hình thức của tín hiệu là những dạng âm thanh khác nhau mà trong quá trình nói năng con người đã thiết lập lên mã cụ thể cho mình, đó chính là đặc trưng âm thanh cụ thể của từng ngôn ngữ. Còn mặt nội dung [cái được biểu hiện] là những thông tin, những thông điệp về những mảnh khác nhau của thế giới hiện tại mà con người đang sống, hoặc những dấu hiệu hình thức để phân cắt tư duy, phân cắt thực tại.

Như vậy, để trở thành một tín hiệu, bất kì một hiện tượng ngôn ngữ nào đã xuất hiện trong giao tiếp của loài người cũng phải bao gồm 2 mặt khác nhau là mặt biểu hiện và mặt được biểu hiện. Mặt biểu hiện làm nhiệm vụ trung chuyển những ý nghĩ, tình cảm, xúc cảm, nhu cầu khác nhau của người nói tới được cơ quan thụ cảm của người nghe. Nếu không có cái biểu hiện thì quá trình giao tiếp giữa người nói và người nghe sẽ bị hoàn toàn cắt đứt. Lúc đó, người ta gọi là ngôn ngữ không hành chức.

Mối liên hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện là mối liên hệ rất đặc trưng của ngôn ngữ. Đặc trưng này được thể hiện ở chỗ: mỗi một cái biểu hiện luôn chỉ có một cái được biểu hiện tương ứng. Khi mối liên hệ 1–1 này bị cắt đứt thì các quá trình giao tiếp sẽ bị ảnh hưởng hoặc không thể thực hiện được. Do tính chất và số lượng của các từ trong một ngôn ngữ là vô cùng lớn nên ngôn ngữ học cấu trúc luận cho rằng mối liên hệ 1–1 này phải được coi là võ đoán với nhau và phải được quy ước.

Cơ chế tạo nên quan hệ 1–1 được hình dung theo tạo sinh luận như sau:

Trong mỗi ngôn ngữ đều có một bộ hay một tập tín hiệu gọi là bộ từ vựng [lexicon] của một ngôn ngữ. Nhưng để một bộ từ vựng có thể hành chức còn cần thêm các luật ngữ pháp [grammartical rules] là quy tắc nối kết các hạng tử [items] có trong bộ từ vựng theo những quy tắc nhằm bộc lộ những thông điệp có riêng trong một ngôn ngữ. [Như vậy, khái niệm ngữ pháp của tạo sinh luận là rộng hơn rất nhiều so với quan niệm thông thường của chúng ta].

Tổng hợp của bộ từ vựng và bộ ngữ pháp tạo thành cơ chế phân định và thiết lập mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện của từng tín hiệu trong ngôn ngữ. Khi mối quan hệ cơ giới 1–1 bị phá vỡ thì nó có nguy cơ làm phương hại tới quá trình giao tiếp của một cộng đồng nói năng cụ thể. Nguyên nhân của sự phá vỡ này có thể là:

  • Vì cơ chế của bộ từ vựng một ngôn ngữ là cơ chế mở [open] để đáp ứng nhu cầu phản ánh thực tại.
  • Các luật ngữ pháp có những biến động do có sự tiếp xúc văn hoá [culture contact] từ những ngôn ngữ khác. Chính những biến động như vậy sẽ làm ngôn ngữ phát triển nhưng cũng có thể sẽ làm ngôn ngữ bị phân tầng, phân lớp mạnh mẽ có khi đến mức không thể kiểm soát được.

Trong lí thuyết tín hiệu học hiện đại, bộ từ vựng và bộ ngữ pháp của một ngôn ngữ còn được gọi là mã của ngôn ngữ đó.

Trong ngôn ngữ học, mặc dù cái được biểu hiện [hay mặt nội dung] là quan trọng nhưng trong việc nghiên cứu ngôn ngữ học, do nguyên tắc tín hiệu học quy định, người ta thường chú trọng rất nhiều đến cái biểu hiện hay mặt hình thức của ngữ nghĩa. Theo nguyên tắc của chủ nghĩa miêu tả Mĩ thì thậm chí người ta có thể bỏ mặt cái được biểu hiện mà vẫn có thể khái quát hoá được đặc trưng của ngôn ngữ. Đó chính là khuynh hướng hình thức hoá trong việc nghiên cứu ngôn ngữ mà trường phái hậu tạo sinh luận đang kế tục và phát huy.

Tuy nhiên, khi nghiên cứu về các đặc trưng tín hiệu của ngôn ngữ thì việc nghiên cứu các quan hệ giữa các tín hiệu cũng là một công việc rất quan trọng. Bởi, giá trị của một yếu tố [một tín hiệu] ngoài việc được xác định bằng các đặc trưng của cái được biểu hiện – mặt ngữ nghĩa của tín hiệu – thì còn được xác định, trong tuyệt đại đa số các trường hợp, bằng các đặc điểm phân bố của yếu tố đó trong các phát ngôn khác nhau. Các đặc điểm phân bố này chính là sự thể hiện ra bên ngoài của các mối quan hệ có thật giữa các tín hiệu trong một ngôn ngữ. Ngôn ngữ học thường chia các quan hệ này theo các cấp độ mang tính phổ quát của tất cả các ngôn ngữ. Đó là các cấp độ âm vị học và mối quan hệ âm vị học; cấp độ hình thái học [từ] và các quan hệ từ pháp học; cấp độ cú pháp học [câu, phát ngôn] và các quan hệ cú pháp học; cấp độ văn bản [trên câu và phát ngôn] và các quan hệ liên kết trong văn bản. Thông tin do các quan hệ này đưa lại thường không phải là các thông tin về định danh học [nghĩa từ vựng của từ] cũng không phải là các thông tin logic học [thông tin logic của một câu] mà là những thông tin về giá trị của tín hiệu thông
tin đó trong hệ thống, những thông tin về hệ thống, cấu trúc hay nói như Nguyễn Tài Cẩn đó là các nghĩa cấu trúc.

  Tín hiệu [hạng tử] Các tín hiệu [quy luật]
Thực thể - cbh: vật chất hoá tín hiệu
- cđbh: phi vật chất, ý niệm
→ mã ngôn ngữ
- tín hiệu: đơn vị
- quan hệ tín hiệu: theo các cấp độ xác định [4 cấp]
Sự dùng [usage] - định danh, phân cắt
- dấu hiệu ngữ pháp
phản ánh tính trọn vẹn của thực tại vào tư duy

Theo nội dung bài giảng của TS H.C.Cương tại lớp K46 Ngôn ngữ, 2004.

[Nguồn: ngonngu.net]

Video liên quan

Chủ Đề