Tuổi thọ trung bình người hưu trí việt nam năm 2024
Về trợ cấp hưu trí xã hội, đại biểu Nguyễn Hữu Thông (đoàn Bình Thuận) cho biết, dự thảo luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi quy định về độ tuổi được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội là đủ 75 tuổi trở lên. Theo đại biểu, độ tuổi này là cao so với độ tuổi trung bình của dân số nước ta hiện nay. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong năm 2023, độ tuổi trung bình của dân số nước ta là 73,7 tuổi, năm 2022 là 73,6 tuổi. Vì vậy, đại biểu Nguyễn Hữu Thông đề nghị tính toán hạ độ tuổi này xuống cho phù hợp với thực trạng độ tuổi trung bình của dân số Việt Nam hiện nay. Như vậy, chính sách này thực sự là mang lại ý nghĩa trong thực tiễn. Đại biểu Nguyễn Hữu Thông (Ảnh: Quang Vinh). Về điều kiện để được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội, đại biểu đoàn Bình Thuận cho biết, có những người đã thỏa mãn được 2 điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí xã hội như dự thảo nhưng lại có thu nhập rất cao từ các nguồn khác. Đại biểu dẫn chứng, nguồn hỗ trợ của con hoặc là các nguồn thu nhập hợp pháp khác nhưng vẫn thuộc đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội. Mặc dù, người được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội có quyền từ chối hưởng nhưng quy định này không thu hẹp được đối tượng thuộc diện hưởng. Từ những vấn đề trên, đại biểu kiến nghị chỉnh quy định thiết kế theo hướng là hạ điều kiện về độ tuổi bằng hoặc thấp hơn tuổi thọ trung bình của người Việt hiện nay. Đồng thời, bổ sung thêm điều kiện không có nguồn thu nhập ổn định khác để phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Hỗ trợ người không có lương hưu Cũng thảo luận về vấn đề này, đại biểu Thạch Phước Bình (đoàn Trà Vinh) cho rằng, quy định trong dự thảo luật đang xác định đối tượng và điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí xã hội là người đủ 75 tuổi trở lên, không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng và trợ cấp xã hội hằng tháng khác, gồm trợ cấp hằng tháng, bảo hiểm y tế và trợ cấp mai táng. Theo đó, quy định về trợ cấp hưu trí xã hội trong dự thảo luật có nội dung tương tự chính sách trợ cấp xã hội hằng tháng quy định tại luật Người cao tuổi năm 2009. Tuy nhiên, đại biểu cho biết, theo Điều 17 luật Người cao tuổi 2009 trợ cấp xã hội hằng tháng này áp dụng cho người cao tuổi từ đủ 80 tuổi trở lên không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 17 luật này mà không có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng, mức hưởng hiện nay là 360.000 đồng. Đại biểu Thạch Phước Bình (Ảnh: Quang Vinh). Còn lại, người cao tuổi từ đủ 75 đến 80 tuổi trong luật Người cao tuổi năm 2009 phải có điều kiện thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo. "Có thể thấy quy định trên tại dự thảo luật là bước tiến trong bảo vệ, hỗ trợ cho người cao tuổi không có lương hưu", đại biểu Thạch Phước Bình khẳng định. Tuy nhiên, đại biểu cho rằng cũng cần xét đến mức hưởng có lợi nhất cho chủ thể để đủ điều kiện áp dụng và cân đối chi phí từ ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, tuổi thọ bình quân của người Việt Nam hiện nay cũng là yếu tố cần xét đến. Theo Tổng cục Dân số, tuổi thọ trung bình của người Việt Nam là 73,6 tuổi. Do đó, đại biểu Thạch Phước Bình cho rằng, đánh giá thẩm định giới cần tính đến cả bình quân bình đẳng giới với nam giới, tránh tình trạng chính sách hỗ trợ không bao phủ hết đối tượng do chưa đủ điều kiện hưởng thì đã hết thời hạn hưởng. Về đối tượng và điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí xã hội, đại biểu Hà Hồng Hạnh (đoàn Khánh Hòa) đề nghị xây dựng cụ thể lộ trình giảm độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội nhằm đạt được mục tiêu đề ra của Nghị quyết số 28. Cụ thể, phấn đấu có khoảng 55% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội hàng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội đến năm 2025 và 60% đến năm 2030. Bên cạnh đó, theo Tổng điều tra dân số, nhóm người cao tuổi ở độ tuổi từ 60 đến 69 tuổi có tốc độ tăng cao nhất. Do đó, theo đại biểu, trong thời gian tới, đây sẽ là nhóm đông nhất có nhu cầu về trợ cấp hưu trí, xã hội. Nhân Ngày Dân số thế giới (11/7), Bộ Y tế và Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) tổ chức Lễ mít tinh hưởng ứng để cùng nhìn lại những tiến bộ toàn cầu trong quá trình thực hiện cam kết về sức khỏe tình dục, sức khỏe sinh sản và các quyền, thảo luận những ưu tiên nhằm giải quyết những vấn đề đang còn tồn đọng trong bối cảnh nhân khẩu học thay đổi nhanh chóng trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Tại Lễ mít tinh, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan cho biết, trong 30 năm qua, Việt Nam đã nỗ lực giải quyết tình trạng bất bình đẳng và thu hẹp khoảng cách về thực trạng kinh tế - xã hội giữa các vùng cũng như các nhóm dân cư. Cụ thể, chỉ số phát triển con người được cải thiện đáng kể và đạt mức trung bình so với các nước trên thế giới. Thể hiện rõ nhất là tình trạng suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, tử vong trẻ em giảm mạnh. Tỷ suất tử vong mẹ đã giảm 6 lần trong 30 năm qua, từ mức 233/100.000 trẻ đẻ sống năm 1990 xuống còn khoảng 40/100.000 trẻ đẻ sống những năm gần đây. Từ năm 1993, tỷ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi cũng giảm từ 43,3 xuống 12,1 trên 1.000 trẻ đẻ sống năm 2020. Đặc biệt, tuổi thọ trung bình của người Việt Nam tăng nhanh, từ 65,5 tuổi năm 1993 lên 74,5 tuổi năm 2023, cao hơn nhiều quốc gia có cùng mức thu nhập bình quân đầu người. Tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em giảm mạnh - Ảnh: VGP/HM Tốc độ gia tăng dân số nhanh cũng đã được Việt Nam khống chế thành công, tỷ lệ tăng dân số hàng năm giảm từ 1,7% giai đoạn 1989-1999 xuống 1,14% giai đoạn 2009-2019. Việt Nam đạt mức sinh thay thế từ năm 2006 và tổng tỷ suất sinh (TFR) được duy trì ở mức 2,0 - 2,1 con/phụ nữ trong suốt thời gian qua. Cơ cấu dân số chuyển dịch tích cực theo hướng dân số trong độ tuổi lao động tăng mạnh, từ 56,1% năm 1989 lên 67,5% năm 2023. Việt Nam bước vào thời kỳ "dân số vàng" từ 2007 với lực lượng lao động trẻ, dồi dào và cần được tiếp tục đầu tư cho an sinh xã hội, y tế, giáo dục, việc làm, nâng cao năng suất lao động, hướng tới phát triển bền vững. Phân bố dân số đã có hợp lý hơn, tỷ lệ dân số đô thị tăng từ 20% năm 1993 lên 38,1% năm 2023. Vẫn còn nhiều thách thứcTuy nhiên, Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức đang tác động trực tiếp đến đời sống, xã hội và sự phát triển bền vững trong hiện tại và tương lai như: nguy cơ không đạt được mục tiêu duy trì mức sinh thay thế trên phạm vi toàn quốc, xuất hiện xu thế mức sinh xuống thấp; tốc độ già hóa dân số nhanh và sớm trở thành quốc gia dân số già; tỉ số giới tính khi sinh vẫn luôn ở mức cao sẽ dẫn tới nguy cơ mất cân bằng giới tính; tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết vẫn chậm khắc phục; tỷ lệ mang thai ở người chưa thành niên còn cao, nhất là khu vực miền núi phía bắc và Tây Nguyên; những lợi thế của cơ cấu dân số vàng mang lại chưa được khai thác tốt; tầm vóc, thể lực, chất lượng cuộc sống người dân vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế so với vùng thành thị, đồng bằng... Để khắc phục những hạn chế trên, Ban chỉ đạo Quốc gia về dân số và phát triển và Bộ Y tế đề nghị các bộ, ngành thành viên Ban chỉ đạo, các tỉnh, thành phố quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân số; chỉ đạo lồng ghép các yếu tố dân số trong các chủ trương, chính sách, dự án phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, các ngành; đầu tư kinh phí, bố trí cán bộ đủ năng lực để thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ về công tác dân số của ngành, địa phương đã đề ra; chỉ đạo công tác phối hợp liên ngành; phân công nhiệm vụ, thực hiện cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan, đoàn thể, tổ chức tham gia thực hiện công tác dân số trên địa bàn… Cũng tại Hội thảo, bà Pauline Fatima Tamesis, Điều phối viên thường trú Liên Hợp Quốc tại Việt Nam cũng cho rằng, chúng ta phải hành động quyết liệt và ngay lập tức để đảm bảo mọi phụ nữ đều có thể tiếp cận các dịch vụ chăm sóc cần thiết khi mang thai và sinh con. Đầu tư vào sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục chính là đầu tư chấm dứt đói nghèo và chấm dứt bất bình đẳng. "Việt Nam chưa có kinh nghiệm trong khuyến khích tăng mức sinh ở vùng mức sinh thấp và thích ứng với già hóa dân số, trong bối cảnh còn nhiều hạn chế về nguồn lực đầu tư. Do vậy, tôi rất mong cộng đồng quốc tế chia sẻ, hỗ trợ nguồn tài chính và hỗ trợ kỹ thuật từ cộng đồng quốc tế", Bộ trưởng Đào Hồng Lan nhấn mạnh. |