Ưu nhược điểm của dạy học tiếp cận nội dung

VnDoc.com xin đưa ra những điểm khác biệt chính giữa việc học tập định hướng phát triển năng lực so với cách tiếp cận giáo dục truyền thống. Mời các thầy cô cùng tham khảo Tài liệu dạy học phát triển năng lực và tài liệu truyền thống ở Tiểu học.

Sự khác biệt dạy học tiếp cận nội dung và dạy học tiếp cận phát triển năng lực

  • 1. Thứ nhất, về mục tiêu dạy học:
  • 2. Thứ hai, về nội dung dạy học:
  • 3. Thứ ba, về phương pháp dạy học [PPDH]
  • 4. Thứ tư, về môi trường học tập:
  • 5. Thứ năm, về đánh giá:
  • 6. Thứ sáu, về sản phẩm giáo dục:

Trước đây, giáo dục [GD] Việt Nam theo định hướng dạy học tiếp cận nội dung [dạy học tiếp cận trang bị kiến thức], gần đây chuyển sang định hướng dạy học tiếp cận năng lực [hiện nay gọi là định hướng dạy học phát triển năng lực].

Từ cuốn “Tiêu chí đánh giá SGK theo định hướng phát triển năng lực” [NXB Giáo dục Việt Nam], PGS.TS. Nguyễn Thị Tố Mai [Trường ĐHSP Nghệ thuật Trung ương] lập bảng, làm rõ những điểm khác của dạy học tiếp cận nội dung với dạy học tiếp cận phát triển năng lực.

1. Thứ nhất, về mục tiêu dạy học:

Điểm khác biệt cơ bản của mục tiêu là dạy học theo định hướng nội dung chủ yếu đạt đến hình thành kiến thức, kỹ năng, thái độ cho người học mà chưa cụ thể thành phẩm chất và năng lực giải quyết các vấn đề áp dụng vào thực tiễn như dạy học phát triển năng lực.

2. Thứ hai, về nội dung dạy học:

Bảng so sánh cho thấy nội dung dạy học phát triển năng lực có điểm khác cơ bản so với dạy học trang bị kiến thức là: chú trọng các kỹ năng thực hành, vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, nội dung chương trình có tính mở; Sách giáo khoa không theo hệ thống kiến thức liền mạch. Việc không thành hệ thống nội dung liền mạch của Sách giáo khoa có thể là nhược điểm vì HS khó hệ thống kiến thức khi cần thiết?

3. Thứ ba, về phương pháp dạy học [PPDH]

Qua phần so sánh về PPDH cho thấy, đặc điểm cơ bản của dạy học phát triển năng lực là lấy người học làm trung tâm, sử dụng các PPDH tích cực kết hợp truyền thống, thầy chủ yếu giữ vai trò dẫn dắt, tổ chức, trò chủ động. Từ đó phát huy tối đa năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo và tự học của người học.

Còn dạy học theo tiếp cận nội dung thì thầy là trung tâm, sử dụng nhiều PPDH truyền thống. Đặc biệt, lối soạn giáo án theo phong cách truyền thống là chỉ soạn từng bước theo trình tự kiến thức [theo đường thẳng] bất di bất dịch như thường thấy, chỉ soạn cho một dạng đối tượng không phù hợp với dạy học theo năng lực là cần phân nhánh, phân loại trình độ cho đối tượng HS khác nhau.

4. Thứ tư, về môi trường học tập:

Môi trường học tập cũng có những điểm khác trong dạy học phát triển năng lực so với dạy học truyền thống là: người dạy có thể đứng phía sau, đứng ở gần, ở xa… để điều khiển nhóm học tập, tạo không khí cởi mở, thân thiện trong lớp học. Lớp học có thể ở không gian ngoài trời, ở thực địa, có thể kê bàn ghế quây vào nhau…

5. Thứ năm, về đánh giá:

Đánh giá của dạy học phát triển năng lực thể hiện rõ mục tiêu cần đạt của định hướng này, đó là sản phẩm “đầu ra” có vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn được hay không, học và có biết làm không? Một điểm đáng lưu ý trong đánh giá của dạy học phát triển năng lực là người học được tham gia vào quá trình đánh giá, nâng cao năng lực phản biện, một phẩm chất rất quan trọng của con người thời kỳ hiện đại.

6. Thứ sáu, về sản phẩm giáo dục:

Rõ ràng sản phẩm GD của hai mô hình phát triển GD là rất khác nhau. Đây chính là vấn đề quan trọng nhất. Bất cứ một chiến lược GD, mô hình GD nào cũng đi đến cuối cùng là sản phẩm của quá trình GD ra sao.

Từ các phần so sánh, PGS.TS. Nguyễn Thị Tố Mai cho thấy, trước đây và hiện tại [tính đến năm 2019], GD của Việt Nam tuy có nhiều sự đổi mới, có áp dụng PPDH tích cực, là các PP đặc trưng của dạy học theo phát triển năng lực nhưng vẫn chưa phải là mô hình dạy học theo phát triển năng lực; bởi vì mới chỉ áp dụng một vài thành tố là sử dụng các PPDH và một phần nào đó, áp dụng hình thức tổ chức dạy học.

Trong khi đó, mục tiêu, nội dung chương trình, sách giáo khoa, môi trường dạy học, phương thức kiểm tra đánh giá… trong dạy học phổ thông vẫn là của mô hình dạy học tiếp cận nội dung, tức là trang bị kiến thức, kỹ năng, thái độ cho người học.

Như vậy, Trong giáo dục truyền thống các bài đánh giá tổng kết sẽ diễn ra vào cuối năm học và học sinh phải tuân theo các lớp học, cấp học và tuân thủ nhịp độ học tập do giáo viên đề ra cho cả lớp, còn trong dạy học phát triển năng lực, các đánh giá tổng kết được thực hiện khi học sinh đã làm chủ một đơn vị kiến thức nào đó, học sinh nhận được hỗ trợ phù hợp cả trong trường và ngoài trường để có thể học nhanh hơn so với các bạn ở cùng lớp.

Ngoài Sự khác biệt dạy học tiếp cận nội dung và dạy học tiếp cận phát triển năng lực trên, các em học sinh còn có thể tham khảo toàn bộ đề thi học kì 1 tiểu học hay đề thi học kì 2 tiểu học mà VnDoc.com đã sưu tầm và chọn lọc. Hy vọng với những tài liệu này, các em học sinh sẽ học tốt các môn học tiểu học hơn.

II. CÁC CÁCH TIẾP CẬN PHÁT TRIỂN CHƯƠNG TRèNH

2.1 Tiếp cận nội dung Content Approach

Với quan niệm giáo dục là quá trình truyền thụ nội dung-kiến thức, chưong trình đào tạo chú trọng hình thành hệ thống nội dung đào tạo và việc trang bịcho người học hệ thống tri thức, kỹ năng cơ bản. Cách tiếp cận này tạo điều kiện hình thành ở ngưòi học hệ thống các tri thức khoa học đầy đủ song dễ gâyhiện tượng dạy học thụ động, quá tải, năng về ghi nhớ , nhồi nhét nội dung trong một thời gian đào tạo hạn chế, không phù hợp với sự phát triển nhanhchóng về khoa học và cơng nghệ hiện nay khi mà có sự bùng nổ theo hàm số mũ về tri thức khoa học ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Người ta đã dự tính sau 5-6năm khối lượng tri thức nhân loại tăng gấp đôi.Chưong trình đào tạo được thiết kế xuất phát từ mục tiêu đào tạo. Chương trình thể hiện cả quá trình đào tạo mục tiêu, nội dung, phương pháp , quytrình, đánh giá và chú trọng kết quả đầu ra mục tiêu của quá trình đào tạo. Mục tiêu đựoc xác định rõ ràng, cụ thể, có thể định lượng được để là cơ sở đánhgiá. Ưu điểm cơ bản của cách tiếp cận này là tạo sự tường minh và quy trình chặt chẽ, quy chuẩn của cả quá trình đào tạo , dễ kiểm tra, đánh giá nhưng cũngcó nhược điểm là tạo ra sự cứng nhắc, khuôn mẫu, đồng nhất trong quá trình đào tạo chưa quan tâm đến tính đa dạng và nhiều khác biệt của các nhân tốtrong quá trình đào tạo như người học, mơi trưòng văn hố-xã hội..v.vTrên cơ sở quan niệm “ Chương trình là một quá trình và giáo dục là sự phát triển “, Giáo dục là quá trình học tập suốt đời khơng chỉ đơn thuần vì mộtmục đích cuối cùng cụ thể nào và phải góp phần phát triển tối đa mọi năng lực tiềm ẩn trong mỗi con ngưòi do đó chương trình đào tạo phải chu trọng đến sựphát triển hiểu biết và năng lực, đến nhu cầu , lợi ích, định hướng giá trị ở ngưòi học hơn là truyền thụ nội dung kiến thức đã được xác định trước hay tạonên sự thay đổi hành vi nào đó ở ngưòi học. Các tiếp cận này tập trung vào tổ chức hoạt động dạy-học với nhiều hinh thức linh hoạt và đa dạng, tao cơ hộicho người học tìm kiếm, thu thập thơng tin và chiếm lĩnh tri thức..vv Cách tiếp cận này có nhiều ưư điểm song cũng có những khó khăn khi tổ chức thực hiệndo tính đa dạng về sở thích, khả năng, nhu cầu của ngưòi học và những hạn chế về các điều kiện đào tạo phưong tiện, tài liệu..v.v..42.4. Tiếp cận hệ thống. Theo quan niệm chương trình là bản thiết kế tổng thể quá trình đào tạotừ khâu đầu tuyển chọn đến khâu cuối kết thúc khoa học với một hệ thống các hoạt động đào tạo theo một trình tự chặt chẽ, kết hựop và tác động qua lạilẫn nhau nhằm thực hiện các nội dung và đạt được các mục tiêu cụ thể trong các giai đoạn của quá trình đào tạo. Tiếp cận hệ thống cho phép thiết kế và xâydựng các chương trình đào tạo có tính hệ thống, chặt chẽ và logíc cao, làm rõ vai trò, vị trí, tác dụng của từng khâu, từng nội dung chương trình đào tạo đồngthời bảo đảm mối liên hệ, tác động qua lại giữa các thành tố của chưong trình.
Trong đời sống xã hội, bất cứ một hoạt động nào trong đó có hoạt động giáo dục đều hướng đến đạt được một kết quả, một mục đích, một kỳ vọng nàođó. Tính mục đích hay hướng đích của các hoạt động vừa mang tính định hướng vừa tạo động lực, động cơ thúc đẩy hoạt động trong các mơi trường, điều kiệnvà hồn cảnh nhất định. Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng , thuật ngũ mục tiêu được giải nghĩa là cái ” đích ” hướng tới của các hoạt động. Do các hoạtđộng đều diễn ra theo một quá trình nhất định với nhiều giai đoạn trung gian nên mục tiêu không chỉ đơn thuần là đích tận cùng, mục tiêu còn là những điểmmốc tham chiếu trung gian dùng để đánh giá sự tiến triển và để xác định xem hoạt động có đi đúng hướng hay khơng. Khơng có mục tiêu rõ ràng, tườngminh, chúng ta không thể đánh giá mức độ thành công của hoạt động, và cũng không thể nhận biết hoạt động có đi chệch hướng hay khơng, chệch đến mứcnào và làm thế nào để điều chỉnh cho đúng hướng. 3.2. Hệ mục tiêu giáo dụcTheo cách hiểu thông thường mục tiêu giáo dục là ‘ cái cái đích hướng tới ‘ của q trình giáo dục nhằm hình thành và phát triển nhân cách con người,nhân cách nghề nghiệp tướng ứng với một loaị hình lao dộng nghề nghiệp trong các giai đoạn phát triển cụ thể của đời sống xã hội.Theo từ điển Giáo dục học- NXB Từ điển bách khoa 2001 khái niệm mục tiêu giáo dục được định nghĩa là : ‘ Mơ hình nhân cách có tính định chuẩn củacả hệ thống giáo dục quốc dân hay của từng phân hệ giáo dục được xác định trên cơ sở những yêu cầu của xã hội về người công dân, về nguồn nhân lực ‘ .Mục tiêu giáo dục không chỉ dừng ở việc trang bị hệ thống kiến thức đơn thuần, hình thành kỹ năng hành nghề mà còn cần phát triển các phẩm chất trí tuệ và5

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề