Vai trò của việc đánh giá chương trình đào tạo

Tiểu luận phát triển chương trình và tổ chức quá trình đào tạo đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.58 KB, 17 trang )

TIỂU LUẬN
Học phần: Phát triển chương trình và tổ chức quá trình đào
tạo Đại học

Chủ đề tiểu luận:
Vì sao khi xây dựng chương trình Đào tạo phải quan tâm chuẩn đầu ra?

1. Đặt vấn đề

Nghị quyết số 29-NQ/TƯ ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI đã chỉ rõ những hạn chế của giáo dục đại học
hiện nay, đó là: Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh
doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục
đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và
đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất. Chiến lược phát triển giáo dục giai
đoạn 2011 2020 cũng đã chỉ ra một số tồn tại của lĩnh vực này như: Nội dung
chương trình, phương pháp dạy và học, công tác thi, kiểm tra, đánh giá chậm
được đổi mới. Nội dung chương trình còn nặng về lý thuyết nhà trường chưa
gắn chặt với đời sống kinh tế, xã hội; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu
xã hội; chưa chú trọng giáo dục kỹ năng sống, phát huy tính sáng tạo, năng lực
thực hành của học sinh, sinh viên (Chính phủ, 2011).
Trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo theo chủ
trương của Đảng và Nhà nước, các trường đại học muốn tồn tại và phát triển phải


hướng đến mục tiêu đào tạo sinh viên tốt nghiệp có thể làm việc được ngay và làm
việc có hiệu quả. Phát triển chương trình đào tạo (CTĐT) đáp ứng chuẩn đầu ra là
quá trình liên tục làm hoàn thiện CTĐT đại học có vai trò quan trọng trong việc
đảm bảo chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của nền
kinh tế xã hội. Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy chưa có nhiều trường đầu tư đúng
mức cho công việc này. CTĐT cùng khối ngành thường có nhiều môn học giống


nhau, không có đặc thù của từng trường, có trường tổ chức dạy những môn
mà nhà trường có giảng viên chứ không phải dạy những môn học mà xã hội và
người học cần; có trường quá tập trung vào lý thuyết; có trường lại quá tập trung
vào trang bị kỹ năng thực hành, không có nền tảng kiến thức vững; CTĐT không
theo kịp với sự phát triển, tức chưa đáp ứng được yêu cầu của xã hội Hoặc
thiếu người được đào tạo chuyên sâu về xây dựng chương trình
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

Giáo dục là một quá trình truyền thụ kiến thức với vai trò trung tâm của
người thầy được áp dụng một thời gian dài trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt
Nam, đã bộc lộ rõ những hạn chế, bất cập của nó: đó là sự quá tải về tri thức, kiến
thức nặng về tính hàn lâm, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của người học và đòi hỏi
của thực tiễn cuộc sống, sự thụ động của người học. Từ những hạn chế và bất cập
nêu trên, đứng trước yêu cầu của tình hình mới, đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu,
lựa chọn một quan điểm giáo dục mới, hiệu quả, phù hợp. Trong các quan điểm
giáo dục đang phổ biến trên thế giới và trong nước hiện nay, quan điểm lấy người
học làm trung tâm (đặc biệt hướng tới việc phát triển năng lực của người học) được
đánh giá cao và đã được kiểm chứng trong thực tiễn. Dựa trên quan điểm này,
chương trình đào tạo chuyển trọng tâm từ nội dung giáo viên muốn dạy sang nội
dung học viên cần học và vai trò của giáo viên thay đổi từ chỗ là nguồn chủ yếu
truyền thụ kiến thức sang giúp điều phối quá trình học tập của học viên. Việc tổ


chức hoạt động dạy học sao cho thuận lợi nhất đối với người học dù cho việc quản
lý có thể phức tạp và tốn kém hơn.
Hiện nay, trên thế giới có nhiều mô hình phát triển chương trình đào tạo, mỗi
mô hình có những ưu, nhược điểm riêng; trong đó có 02 mô hình dựa trên quan
điểm lấy người học làm trung tâm, đang được nhiều quốc gia nghiên cứu và áp
dụng, đó là: mô hình phát triển chương trình đào tạo đảo ngược kiểu truyền thống
và mô hình phát triển chương trình đào tạo có sự tham gia của các bên liên quan.

Để đáp ứng nhu cầu đa dạng của người học, cách tiếp cận cùng tham gia trong phát
triển chương trình cho rằng công việc phát triển chương trình không nên là công
việc của cá nhân mà phải là công việc của tập thể. Việc xây dựng chương trình đào
tạo vì vậy sẽ được tiến hành với sự tham gia của tất cả các nhóm có liên quan, tùy
theo nguồn lực và mối quan tâm của mỗi nhóm. Các bên liên quan ở đây là những
nhóm người hay cá nhân có mối quan tâm về đào tạo hoặc là những người được
hưởng lợi từ quá trình đào tạo (ví dụ: giáo viên, học viên, cơ quan quản lý, đơn vị
sử dụng nguồn nhân nhân lực). Những người trực tiếp sử dụng nhân lực, nắm rõ
các yêu cầu, tiêu chuẩn về kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp đối với từng chức danh,
vị trí công việc chính là khách hàng của các cơ sở đào tạo, sẽ đặt hàng các yêu cầu
cụ thể về mục tiêu đào tạo và tiêu chuẩn của từng vị trí công tác đối với từng
ngành, chuyên ngành. Đồng thời, sau một thời gian công tác tại các đơn vị, địa
phương, học viên sẽ tự nhìn nhận, đánh giá lại những kiến thức, kỹ năng mình tích
lũy được trong nhà trường có đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của công việc chuyên
môn đang đảm nhiệm không? bản thân họ sẽ tự rút ra những lý do giải thích cho
vấn đề này. Do vậy, đây là kênh thông tin tham khảo quan trọng để các nhà xây
dựng chương trình có cơ sở rà soát, bổ sung, chỉnh lý, hoàn thiện nội dung,
chương trình hiện hành.
Chương trình đào tạo đại học


Qua nghiên cứu các tài liệu trong và ngoài nước liên quan đến lĩnh vực
phát triển CTĐT, tác giả nhận thấy rằng thuật ngữ CTĐT có nhiều cách
hiểu khác nhau. Theo nghĩa rộng, CTĐT của một trường là tất cả các khóa học
được cung cấp. Ở các nước phát triển, CTĐT được xác định là tập hợp các học
phần mà nhà trường cung cấp, tùy thuộc vào lĩnh vực chuyên môn mà sinh
viên muốn theo đuổi. Một số quốc gia đang phát triển lại xem CTĐT là tập hợp các
chuyên đề hay môn học được quy định cho khóa học mà người học phải thực hiện
để đạt được trình độ giáo dục đó.
Ở các trường đại học Việt Nam, CTĐT được hiểu là một tập hợp các học

phần được thiết kế cho một ngành đào tạo nhằm bảo đảm cung cấp cho sinh viên
những kiến thức và kỹ năng cần thiết cho nghề nghiệp sau này. Ở khía cạnh rộng
hơn, CTĐT còn được hiểu bao gồm cả những chuyên đề không được cung cấp
trong nhà trường mà người học được yêu cầu phải tích lũy đủ kiến thức và kỹ
năng (ví dụ như các chứng chỉ ngoại ngữ, tin học).
CTĐT được hiểu theo cách tiếp cận đào tạo theo nhu cầu xã hội. Khi
đó, CTĐT có thể được định nghĩa là một tập hợp tất cả các hoạt động gắn kết với
nhau nhằm đạt đến mục tiêu giáo dục của nhà trường, bao gồm các yếu tố đầu vào
để thực hiện CTĐT và mục tiêu đào tạo trên cơ sở kết quả đầu ra, để phát triển khả
năng của người được đào tạo, giúp họ có được kiến thức, kỹ năng cũng như cải
thiện năng lực tư duy trong thực hiện những yêu cầu công việc ở trình độ được đào
tạo. Tham khảo các tài liệu trong nước, ngoài nước và xuất phát từ thực tế hiện
nay, theo tác giả, CTĐT đại học nên được hiểu là toàn bộ các học phần và các hoạt
động được nhà trường xây dựng nhằm trang bị cho sinh viên kiến thức, kỹ năng và
thái độ phù hợp với chuyên ngành lựa chọn.
Phát triển CTĐT đại học


Cũng giống như khái niệm CTĐT, khái niệm phát triển chương trình
đào tạo có nhiều cách hiểu khác nhau và chưa đi đến sự thống nhất chung. Chính
điều này dẫn đến việc có nhiều mô hình khác nhau trong phát triển CTĐT.
Do đó, việc đưa ra khái niệm phát triển CTĐT sẽ chi phối đến quan điểm tiếp cận
khi thực hiện công tác phát triển CTĐT đại học.
Qua nghiên cứu các tài liệu tham khảo, tác giả cho rằng, phát triển CTĐT là
quá trình liên tục làm hoàn thiện CTĐT. Như vậy, theo cách định nghĩa này,
phát triển CTĐT bao hàm cả việc biên soạn hay xây dựng một chương trình
mới hoặc cải tiến một CTĐT hiện có. Bên cạnh đó, chúng ta sử dụng thuật ngữ
phát triểnCTĐT thay cho từ xây dựng, thiết kế hay biên soạnCTĐT, vì
phát triển bao hàm cả sự thay đổi, bổ sung liên tục. Phát triển là một chu trình
mà điểm kết thúc sẽ lại là điểm khởi đầu, kết quả là một CTĐT mới và ngày càng

tốt hơn nữa. Các khái niệm khác chỉ có ý nghĩa là một quá trình và kết quả dừng lại
khi chúng ta có một chương trình mới. Các nghiên cứu về vấn đề phát triển CTĐT
ở Việt Nam trong thời gian qua có thể chia thành một số lĩnh vực như sau:Trong
nghiên cứu lý thuyết vấn đề phát triển CTĐT hiện nay (một số nhà nghiên
cứu tiêu biểu ngoài nước như Hilda Taba, John Deweys, Jon Wiles, Joseph
Bondi ở trong nước có Lâm Quang Thiệp, Lê Viết Khuyến, Trần Khánh Đức,
Nguyễn Đức Chính), nhiều nhà nghiên cứu ủng hộ quan điểm tiếp cận phát
triển. Trong khi đó, cách tiếp cận nội dung và tiếp cận mục tiêu có nhiều nhược
điểm hơn, đã lạc hậu và không còn phù hợp trong tình hình mới hiện nay. Cách
tiếp cận phát triển gắn với quan niệm người học là trung tâm, theo đó, các
bài giảng được tổ chức dưới dạng các hoạt động khác nhau nhằm giúp cho người
học lĩnh hội dần các kinh nghiệm học tập thông qua việc giải quyết các tình
huống, tạo cho sinh viên cơ hội được thử thách trước những thách thức khác
nhau. Người dạy phải hướng dẫn người học tìm kiếm và thu thập thông tin, gợi


mở giải quyết vấn đề, tạo cho người học có điều kiện thực hành, tiếp xúc với
thực tiễn, học cách phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề một cách sáng tạo. Với
cách hiểu như thế, CTĐT xây dựng mục tiêu đào tạo, lộ trình thực hiện, nguồn lực
cần có và những hoạt động cần thực hiện (kể cả trong và ngoài nhà trường). Khi
bất kỳ một yếu tố nào kể trên thay đổi, CTĐT cần thay đổi theo. Do đó, CTĐT
không phải là một công thức bất biến mà theo thời gian, cùng với thay đổi của yêu
cầu xã hội, CTĐT cũng cần thay đổi cho phù hợp.
Chuẩn đầu ra
Đến nay, có rất nhiều khái niệm về chuẩn đầu ra: Chuẩn đầu ra là sự khẳng
định của những điều kỳ vọng, mong muốn một người tốt nghiệp có khả năng LÀM
được nhờ kết quả của quá trình đào tạo (Jenkins and Unwin).
Chuẩn đầu ra là lời khẳng định của những điều mà chúng ta muốn sinh viên
của chúng ta có khả năng làm, biết, hoặc hiểu nhờ hoàn thành một khóa đào tạo
(Univ.New South Wales, Australia).

"Chuẩn đầu ra là sự khẳng định sinh viên tốt nghiệp làm được những gì và
kiến thức, kỹ năng, thái độ hành vi cần đạt được của sinh viên" (GS. Nguyễn Thiện
Nhân).
Có thể hiểu, chuẩn đầu ra như lời cam kết của nhà trường đối với xã hội về
những kiến thức, kỹ năng, thái độ, hành vi, qua đó, khẳng định những năng lực lao
động cụ thể mà sinh viên sẽ thực hiện được sau khi được đào tạo tại nhà trường.
Vai trò, ý nghĩa và giá trị của chuẩn đầu ra
-

Đối với nhà trường:

Chuẩn đầu ra là cơ sở để nhà trường xây dựng chương trình đào tạo phù hợp,
đảm bảo sản phẩm đào tạo đáp ứng nhu cầu nhân lực của xã hội; Thông qua chuẩn
đầu ra để giới thiệu với xã hội năng lực đào tạo của nhà trường, tạo được niềm tin


trong sinh viên, phụ huynh, người sử dụng lao động; Tăng cường khả năng hợp tác
giữa nhà trường với xã hội.
Chuẩn đầu ra là cơ sở hỗ trợ công tác đảm bảo chất lượng và hình thành các
chuẩn đào tạo; gắn kết giáo dục nghề nghiệp với giáo dục đại học tạo điều kiện học
liên thông và học suốt đời
-

Đối với giảng viên:

Chuẩn đầu ra là cơ sở để thiết kế lại nội dung giảng dạy; lựa chọn phương
pháp dạy học tích cực, lượng hóa rõ ràng về các tiêu chí đánh giá kết quả học tập
của sinh viên; cũng qua đó, thực hiện được tính tích cực trong dạy học.
Chuẩn đầu ra là cơ sở để đổi mới phương pháp học tập trung vào người học:
khắc phục một số vấn đề tồn tại gắn với cách truyền thống coi trọng đầu vào trong

phát triển chương trình đào tạo, giảng viên dạy những gì mà mình có, nhà trường
cung cấp dịch vụ giáo dục có đến đâu thì làm đến đó. Chuẩn đầu ra cũng là cơ sở
nâng cao mối quan hệ Dạy-Học-Đánh giá.
-

Đối với sinh viên:

Thông qua chuẩn đầu ra, sinh viên lượng hóa được mục đích học tập của
mình, xác định cụ thể các yêu cầu đối với bản thân, từ đó, không ngừng nỗ lực học
tập và rèn luyện theo các chuẩn đầu ra, đáp ứng yêu cầu của nhà trường và xã hộ.
Cũng nhờ vậy, sinh viên sẽ được tăng cường cơ hội học tập, cơ hội việc làm.
-

Đối với các cá nhân, tổ chức sử dụng lao động:

Chuẩn đầu ra của các trường là cơ sở để các cá nhân, tổ chức đánh giá khả
năng cung ứng nhân lực của các trường, xác định được nguồn cung cấp nhân lực
phù hợp với yêu cầu lao động. Bên cạnh đó, các cá nhân, tổ chức sử dụng lao động
cũng có thể lựa chọn chính xác nguồn nhân lực tiềm năng cho mình, từ đó, phối
hợp với các trường thực hiện đào tạo theo địa chỉ. Điều này vừa hỗ trợ hoạt động


cho các trường, vừa giảm được chi phí và thời gian đào tạo lại của nơi sử dụng
nhân lực.
-

Đối với xã hội:

Xã hội có cơ sở giám sát hoạt động đào tạo của các trường và có quyền đòi
hỏi các trường điều chỉnh hoạt động để thực hiện đúng chuẩn đầu ra đã được xác

định. Việc thực hiện chuẩn đầu ra giúp xã hội có được nguồn nhân lực chất lượng
cao.
Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010) xác định: Chuẩn đầu ra là quy định về nội
dung kiến thức chuyên môn; kỹ năng thực hành, khả năng nhận thức công nghệ và
giải quyết vấn đề; công việc mà người học có thể đảm nhận sau khi tốt nghiệp và
các yêu cầu đặc thù khác đối với từng trình độ, ngành đào tạo. Khái niệm trên có
thể hiểu rằng, chuẩn đầu ra được xem như lời cam kết của trường đại học đối với
xã hội về kiến thức, kỹ năng và thái độ mà sinh viên thu nhận được sau quá trình
đào tạo tại trường.
Năng lực
Có nhiều cách phát biểu về khái niệm năng lực, có thể kể ra một số khái
niệm khá phổ biến như sau: Weinert (2001) cho rằng: Năng lực là các khả năng và
kỹ năng nhận thức vốn có ở cá nhân hay có thể học được để giải quyết các vấn
đề đặt ra trong cuộc sống. Năng lực cũng hàm chứa trong nó tính sẵn sàng hành
động, động cơ, ý chí và trách nhiệm xã hội để có thể sử dụng một cách thành công
và có trách nhiệm các giải pháp trong những tình huống thay đổi. Theo OECD
(2002) thì: Năng lực là khả năng cá nhân đáp ứng các yêu cầu phức hợp và thực
hiện thành công nhiệm vụ trong một bối cảnh cụ thể. Theo Québec Ministère de
l'Education (2004) cho rằng: Năng lực là khả năng vận dụng những kiến thức, kinh
nghiệm, kỹ năng, thái độ và hứng thú để hành động một cách phù hợp và có hiệu


quả trong các tìn biểu trên về khái niệm năng lực chính là khả năng vận dụng kiến
thức, kỹ năng và thái độ để giải quyết một tình huống có thực trong cuộc sống.
Ở Việt Nam, khái niệm năng lực cũng thu hút sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu cũng như công luận khi giáo dục đang thực hiện công cuộc đổi mới căn
bản và toàn diện, chuyển từ giáo dục kiến thức sang giáo dục năng lực. Khái niệm
này cũng được định nghĩa khá tương đồng với các định nghĩa mà các nhà nghiên
cứu trên thếgiới đưa ra.
Chẳng hạn, các nhà tâm lí học cho rằng năng lực là tổng hợp các đặc điểm,

thuộc tính tâm lí của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một hoạt động
nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao. Người ta cũng chia
năng lực thành năng lực chung, cốt lõi và năng lực chuyên môn, trong đó, năng lực
chung, cốt lõi là năng lực cơ bản cần thiết làm nền tảng để phát triển năng lực
chuyên môn. Năng lực chuyên môn là năng lực đặc trưng ở những lĩnh vực nhất
định, ví dụ như năng lực toán học, năng lực ngôn ngữ. Tuy nhiên, năng lực chung
cốt lõi và năng lực chuyên môn không tách rời mà quan hệ chặt chẽ với nhau.
Trong một báo cáo nghiên cứu về năng lực và mức độ thành công trong kinh
doanh, nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Ngoại thương đã nêu rõ năng lực là
tổ hợp các thuộc tính về khả năng, tâm lí và phẩm chất của cá nhân phù hợp với
những yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo đạt kết quảnhư đề ra. Tương
tự như các định nghĩa về năng lực trong tâm lí hoặc kinh doanh, trong giáo dục các
nhà nghiên cứu cũng đưa ra các định nghĩa có nội hàm tương đương. Chẳng hạn,
Trần Khánh Đức, trong Nghiên cứu nhu cầu và xây dựng mô hình đào tạo theo
năng lực trong lĩnh vực giáo dục đã nêu rõ năng lực là khả năng tiếp nhận và vận
dụng tổng hợp, có hiệu quả mọi tiềm năng của con người (tri thức, kĩ năng, thái độ,
thể lực, niềm tin) để thực hiện công việc hoặc đối phó với một tình huống, trạng
thái nào đó trong cuộc sống và lao động nghền ghiệp. Ở một nghiên cứu khác về


phương pháp dạy học tích hợp, Nguyễn Anh Tuấn (Trường Đại học Sư phạm Kỹ
thuật TP. Hồ Chí Minh) đã nêu một cách khá khái quát rằng năng lực là một thuộc
tính tâm lí phức hợp, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố như tri thức, kỹ năng, kĩ xảo,
kinh nghiệm, sự sẵn sàng hành động và trách nhiệm. Như vậy, cho dù là khó định
nghĩa năng lực một cách chính xác nhất nhưng các nhà nghiên cứu của Việt Nam
và thế giới đã có cách hiểu tương tự nhau về khái niệm này. Tựu chung lại, năng
lực được coi là sự kết hợp của các khả năng, phẩm chất, thái độ của một cá nhân
hoặc tổ chức để thực hiện một nhiệm vụ có hiệu quả.
Kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực
KTĐG kết quả học tập là khâu then chốt cuối cùng của quá trình dạy học.

Đây là khâu quan trọng, tác động lớn đến quá trình nâng cao chất lượng đào tạo.
iệc kiểm tra đánh giá khách quan, nghiêm túc, đúng cách, đúng hướng sẽ là động
lực mạnh mẽ khích lệ sự vươn lên trong học tập, thúc đẩy sự tìm tòi sáng tạo
không ngừng của. Một yêu cầu tất yếu là khi chuyển mục đích dạy học sang phát
triển năng lực của người học thì việc KTĐG kết quả học tập cũng phải thực hiện
theo năng lực người học. Theo Nguyễn Công Khanh: Đánh giá người học theo
cách tiếp cận năng lực là đánh giá theo chuẩn về sản phẩm đầu ra nhưng sản
phẩm đó không chỉ là kiến thức, kĩ năng, mà chủ yếu là khả năng vận dụng kiến
thức, kĩ năng và thái độ cần có để thực hiện nhiệm vụ học tập đạt tới một chuẩn
nào đó. Theo khái niệm trên đây, năng lực là một thể thống nhất bao gồm kiến
thức, kĩ năng và thái độ không tách biệt lẫn nhau. Do đó, đánh giá theo năng lực là
việc đánh giá dựa trên khả năng thực hiện một nhiệm vụ ở một mức độ phức tạp
thích hợp để tìm ra cách giải quyết một hoặc nhiều vấn đề trong thực tế cuộc sống.
Trong đó, bản chất của KTĐG theo năng lực là sử dụng nhiều phương pháp
khác nhau để tập trung đánh giá những năng lực cốt lõi được chú trọng trong nhiều


khung năng lực: Năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo,
năng lực giao tiếp xã hội, năng lực sử dụng công nghệ
Những đặc trưng của KTĐG theo năng lực là:
Đánh giá khả năng vận dụng kiến thức, kỹ năng và thái độ vào việc giải
quyết tình huống thực tiễn;
Đánh giá cả quá trình học tập của sinh viên, không đánh giá kiến thức tại
một số thời điểm;
Đánh giá trình độ tư duy th ng qua việc thực hiện bài thi.
Sự khác nhau KTĐG truyền thống và KTĐG theo năng lực
Dựa vào đặc trưng của hình thức KTĐG truyền thống và KTĐG theo năng
lực, chúng ta có thể thấy những điểm khác biệt giữa hai cách đánh giá này như sau:
TT KTĐG theo năng lực
Sinh viên phải thực hiện một nhiệm vụ

thực tế.
Tình huống diễn ra trong đời sống nghề
nghiệp tương lai.
Trình độ tư duy ở mức độ cao (Phân
tích, Đánh giá, Sáng tạo).
Vận dụng kiến thức, kỹ năng, thái độ để
giải quyết tình huống thực.

KTĐG truyền thống
Sinh viên viết đáp án hoặc câu trả lời
Mô phỏng
Trình độ tư duy ở mức độ thấp (Biết,
Hiểu, Áp dụng).
Tái hiện kiến thức hoặc kỹ năng đã học

3. Cơ sở của xây dựng chương trình đào tạo theo chuẩn đầu ra

Bối cảnh thế giới và trong nước
Thế kỷ XXI được đánh dấu bởi cuộc cách mạng khoa học công nghệ, với sự
phát triển của công nghệ thông tin; cùng với đó là xu thế toàn cầu hóa, hội nhập
quốc tế của các vùng lãnh thổ, quốc gia, khu vực trên thế giới. Đây là những tiền
đề quan trọng làm chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức.


Nền kinh tế thị trường của Việt Nam đang được hình thành, song hàm lượng
chất xám trong sản phẩm còn thấp, dẫn đến năng lực cạnh tranh thấp khi hội nhập
với kinh tế khu vực và thế giới. Trong thị trường hiện đại, với trình độ khoa học và
công nghệ của sản xuất ngày càng cao, việc sản xuất các loại sản phẩm có hàm
lượng trí tuệ cao có giá trị rất lớn. Như vậy, vai trò của tri thức trong nền kinh tế thị
trường ngày càng được khẳng định; yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao, có

khả năng hội nhập, thích ứng đa dạng đang đặt ra cho nền giáo dục Việt Nam.
Giáo dục dựa trên năng lực
Giáo dục dựa trên năng lực (Competencybased education - CBE) nổi lên từ
những năm 1970s ở Mỹ. Với hình thái này, giáo dục hướng tới việc đo lường chính
xác kiến thức, kĩ năng và thái độ của người học sau khi kết thúc mỗi chương trình
học. Nếu giáo dục truyền thống được coi là giáo dục theo nội dung, kiến thức
(content-based education) tập trung vào việc tích lũy kiến thức, nhấn mạnh tới các
năng lực nhận thức và việc vận dụng kiến thức tập trung vào việc thực hành kĩnăng
chứ không hướng tới việc chứng minh khả năng đạt được, và đánh giá của giáo dục
truyền thống cũng tập trung đo lường kiến thức thông qua các bài thi viết và nói thì
giáo dục theo năng lực tập trung vào phát triển các năng lực cần thiết đểngười học
có thể thành công trong cuộc sống cũng như trong công việc. Các năng lực thường
được tập trung phát triển bao gồm năng lực xử lí thông tin, giải quyết vấn đề, phản
biện, năng lực học tập suốt đời.
Giáo dục theo năng lực không chỉ dành cho dạy nghề. Trong những thập kỉ
gần đây với sự phát triển mạnh của khoa học kĩ thuật cũng như tri thức, giáo dục
nếu chỉ hướng tới việc nắm vững kiến thức là không đủ, bởi kiến thức hôm qua còn
mới, hôm nay đã trở thành lạc hậu. Do đó nhiều hệ thống giáo dục đã hướng tới
việc giáo dục để người học có đủ khả năng làm chủ kiến thức và sử dụng kiến thức
đểgiải quyết các vấn đề trong khoa học cũng như trong thực tế. Khi mục tiêu và


hình thái giáo dục chuyển đổi thì phương pháp giảng dạy và đánh giá cũng thay đổi
theo. Các hệ thống giáo dục tiên tiến đã áp dụng phương pháp giảng dạy theo năng
lực thay vì giảng dạy theo nội dung, kiến thức.
Giảng dạy theo năng lực là hướng tiếp cận tập trung vào đầu ra của quá trình
dạy và học, trong đó nhấn mạnh người học cần đạt được các mức năng lực
nhưthếnào sau khi kết thúc một chương trình giáo dục. Nói cách khác, chất lượng
đầu ra đóng vai trò quan trọng nhất đối với giảng dạy theo năng lực. Điều này có
nghĩa là đểchương trình giảng dạy theo năng lực có hiệu quả, cần phải bắt đầu với

bức tranh rõ ràng vềnăng lực quan trọng mà người học cần phải đạt được, tiếp đến
là xây dựng và phát triển chương trình dạy và học, sau đó giảng dạy và xây dựng
các phương pháp đánh giá nhằm đảm bảo rằng mục đích của giáo dục theo năng
lực đạt được mục tiêu đề ra. Có thể thấy, yếu tố quan trọng của giáo dục năng lực
là xây dựng được các tiêu chuẩn đầu ra rõ ràng thể hiện rõ mục tiêu của giáo dục,
thiết lập được các điều kiện và cơ hội để khuyến khích người học có thể đạt được
các mục tiêu ấy. Rất nhiều nghiên cứu gần đây đã tập trung nghiên cứu mối liên
hệgiữa giáo dục năng lực và xây dựng chương trình và đánh giá theo năng lực.
Điều này cũng có nghĩa là các năng lực mà người học cần đạt được phải rõ ràng, cụ
thể.
Rõ ràng là, chuyển từ giáo dục kiến thức sang giáo dục theo năng lực là hình
thức chuyển đổi từ việc nhấn mạnh việc giáo viên tin là người học cần phải biết gì
sang việc người học phải nắm rõ mình cần biết gì và có thểlàm gì trong các tình
huống và bối cảnh khác nhau. Do đó, giảng dạy theo năng lực là lấy người học làm
trung tâm và giáo viên giữ vai trò như người hướng dẫn. Phương pháp này giúp
người học chủ động hơn trong việc đạt được năng lực cần phải có theo yêu cầu đặt
ra phù hợp với từng điểm mạnh, điểm yếu của cá nhân. Giảng dạy theo năng lực là
một hình thái giáo dục có thể áp dụng cho nhiều lĩnh vực và bối cảnh. Chính vì thế,


giáo dục theo năng lực tập trung vào đầu ra gắn liền với nhu cầu của thị trường lao
động và xã hội, hoặc cấp học trên.
Bảng 1. Sự khác nhau giữa tiếp cận nội dung và tiếp cận năng lực :
Tiêu thức
Tiếp cận nội dung
Tiếp cận năng lực
Quan niệm Học là quá trình tiếp thu và lĩnh hội Học là quá trình kiến tạo, SV tự tìm
tri thức qua đó hình thành kỹ năng tòi, khám phá, phát hiện, tự hình
thành hiểu biết, năng lực
Mục tiêu Chú trọng cung cấp tri thức, kỹ năng, Chú trọng hình thành các năng lực

giảng dạy kỹ xảo
(sáng tạo, hợp tác,)
Mục tiêu Học để đối phó với thi cử; Sau khi thi Học để đáp ứng yêu cầu công việc;
học tập
xong, những điều đã học thường bị Những điều đã học cần thiết bổ ích
quên, ít dùng đến
cho cuộc sống và công việc sau này
Mục tiêu Chung chung
Chi tiết, đánh giá được
nêu ở bài
học
Yêu cầu đối Biết cái gì ?
Làm được gì từ những điều đã biết
với người
học
Nội dung Được quy định chi tiết trong chương Được lựa chọn nhằm đạt được chuẩn
giảng dạy trình;
đầu ra ;
Từ giáo trình và người dạy; Chương Từ tình huống thực tế; Những vấn đề
trình được xác định là chuẩn, không mà SV quan tâm.
được phép xê dịch.
P.pháp
Diễn giảng; GV là người truyền thụ GV là người tổ chức, hỗ trợ SV tự lực
giảng dạy kiến thức, SV tiếp thu thụ động
và lĩnh hội tri thức; Dạy học tương
tác.
Hình thức Chủ yếu dạy lý thuyết trên lớp học cố Tổ chức các hình thức học tập đa dạng
tổ chức
định trong 4 bức tường
, cơ động, linh hoạt. Học ở lớp, trong

thực tế, Học đôi bạn, học theo nhóm,
học theo lớp

Phương pháp tiếp cận CDIO và chuẩn đầu ra
CDIO là chữ viết tắt của các từ: Conceive - hình thành ý tưởng, Design thiết kế, Implement triển khai và Operate - vận hành, xuất phát từ ý tưởng của
các khối ngành kỹ thuật thuộc 4 trường đại học (ĐH), học viện: ĐH Công nghệ
Chalmers ở Göteborg, Học viện Công nghệ Hoàng gia ở Stockholm, ĐH


Linköping ở Linköping (Thụy Điển) và Học viện Công nghệ Massachusetts (Hoa
Kỳ) vào những năm 1990. PGS,TS. Hồ Tấn Nhựt, Trường ĐH Northridge (Hoa
Kỳ) cho rằng, CDIO là một đề xướng quốc tế lớn được hình thành để đáp ứng nhu
cầu một thập kỷ mới của các doanh nghiệp và các bên liên quan khác trên toàn thế
giới trong việc nâng cao khả năng của sinh viên (SV) tiếp thu các kiến thức cơ bản,
đồng thời đẩy mạnh việc học các kỹ năng cá nhân và giao tiếp, kỹ năng kiến tạo
sản phẩm, quy trình và hệ thống

Hình 1. Phương pháp tiếp cận CDIO
Cho tới nay, chương trình này đã mở rộng hơn 50 trường ĐH trên 25 Quốc
gia. Những quốc gia có các trường ĐH đã áp dụng CDIO: Mỹ có ĐH California,
Daniel Webster, Học viện Công nghệ Massachusetts, Học viện Naval; Ca-na-da có
ĐH Hoàng Gia, Ontario, Calgary, Manitoba,; Pháp có Telecom Bretagne; New
Zealand có ĐH Auckland; Vương quốc Anh có ĐH Lancaster, Liverpool, Leeds,
Aston (Anh) và ĐH Hoàng Gia Belfast (Bắc Ireland); Thụy Điển có ĐH Kỹ thuật
Chalmers, Jönköping, Linköping; Phần Lan có ĐH Khoa học ứng dụng KemiTornio; Nam Phi có ĐH Pretoria; Bồ Đào Nha có Học viện cao cấp Engenharia do
Porto; Sin-ga-pore có ĐH Bách khoa,v.v. Ở Việt Nam, việc áp dụng CDIO đang ở
bước đầu thử nghiệm. Năm học 2009-2010, ĐHQG Hà Nội và ĐHQG Thành phố


Hồ Chí Minh bắt đầu áp dụng CDIO để đào tạo một số ngành tại các trường thành

viên.
Chuẩn đầu ra (CĐR) đối với những ngành đào tạo kỹ sư theo mô hình CDIO
được xây dựng dựa vào việc khảo sát, nghiên cứu rất kỹ yêu cầu thị trường, được
thể hiện ở 4 khối kiến thức, kỹ năng chính: (1) kiến thức chuyên ngành và lập luận
kỹ thuật (technical knowledge and reasoning); (2) kỹ năng, thái độ cá nhân và nghề
nghiệp (professional and personal skills and attitudes), (3) kỹ năng, thái độ XH
(interpersonal skills and attitudes); (4) kiến thức, kỹ năng CDIO trong bối cảnh XH
và doanh nghiệp (CDIO in social and enterprise context). Ba nhóm kiến thức, kỹ
năng đầu làm nền tảng cho nhóm kiến thức, kỹ năng thứ 4. Nghĩa là, khi đó SV tốt
nghiệp sẽ đạt được C-D-I-O: hình thành ý tưởng thiết kế ý tưởng thực hiện và
vận hành. Khi xây dựng xong chuẩn đầu ra, giảng viên phải tích hợp nó vào đề
cương môn học của mình phụ trách. Theo TS. Vũ Anh Dũng và PGS,TS. Phùng
Xuân Nhạ, Trường ĐH Kinh tế (ĐHQG Hà Nội), quá trình này cần phải tiến hành
qua 5 bước: (1) Hội thảo phổ biến, tập huấn cho giảng viên và các đối tượng có
liên quan về chuẩn đầu ra CDIO; (2) GV tích hợp chuẩn đầu ra vào đề cương môn
học; (3) Hội đồng nghiệm thu đề cương môn học đó; (4) GV hoàn chỉnh đề cương
theo ý kiến của hội đồng; (5) Hội đồng phê duyệt nghiệm thu đề cương 1. Tuy vậy,
CDIO không là một nguyên tắc cứng nhắc, bởi người thiết kế chương trình có thể
dựa trên chuẩn đầu ra điều chỉnh một cách linh hoạt sao cho phù hợp với chuyên
ngành không thuộc khối kỹ thuật.
Theo cách tiếp cận CDIO, khi xây dựng, phát triển chương trình đào tạo,
phải tuân thủ các quy trình một cách chặt chẽ: xây dựng chuẩn đầu ra, thiết kế
khung chương trình và cách chuyển tải nó trong thực tiễn, đồng thời đánh giá kết
quả học tập cũng như toàn bộ chương trình đào tạo. Mấu chốt của CDIO là đề
1 Xem TS. Vũ Anh Dũng và PGS,TS. Phùng Xuân Nhạ, Trường ĐH Kinh tế (ĐHQG Hà Nội), Kỷ yếu Hội thảo
Quốc tế về CDIO, Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh, 13-14/12/2010.


cương CDIO. Đây là tuyên bố về mục tiêu của chương trình đào tạo mà 12 tiêu
chuẩn CDIO được thiết kế nhằm đạt mục tiêu đó.

4. Kết luận

Để thu hẹp khoảng cách giữa đào tạo nhân lực trong các cơ sở đào tạo với
yêu cầu của thị trường lao động thì cần thiết phải đổi mới, từ việc xây dựng nội
dung chương trình đào tạo, xây dựng nội dung học phần đến đổi mới phương pháp
giảng dạy theo hướng tiêp cận năng lực người học.
Xuất phát từ những yêu cầu cấp bách về chất lượng nguồn nhân lực phục vụ
sự phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi mỗi cơ sở đào tạo cần nhanh chóng thoát
khỏi mô hình giáo dục truyền thống, chuyển sang mô hình giáo dục theo định
hướng tiếp cận năng lực người học, chuyển từ việc trang bị kiến thức sang phát
triển toàn diện phẩm chất và năng lực người học. Nghĩa là phải thay đổi quan
điểm, mục tiêu dạy học: từ chỗ chỉ quan tâm tới việc người học học được gì đến
chỗ quan tâm tới việc người học làm được cái gì qua việc học.