Vì sao lại gọi là dân tộc kinh

Người Việt, ai cũng phải khai là dân tộc Kinh một cách vô lý. “Kinh” nghĩa là gì? Tự tìm hiểu tôi mới nghiệm ra không có dân tộc nào là dân tộc Kinh cả.

Người Việt phải khai là 'Dân tộc Việt' trong cộng đồng 'Người Việt Nam' gồm 54 dân tộc anh em mà dân tộc Việt là đông nhất. Ảnh minh họa

Nhiều người lớn đang vò đầu bứt tai than vãn: “Xã hội bây giờ nhiễu nhương quá, chẳng còn tôn ti trật tự”. Ai cũng biết vậy. Cái gì cũng có căn nguyên, nhân nào thì quả đó. Xã hội nền nếp vì mọi thứ đều có quy chuẩn rõ ràng, ngô khoai minh bạch. Việt Nam lắm chuyện khác người, từ những việc rất nhỏ.

Làm sao có thể dạy trẻ con lịch sự, biết kính trọng tổ tiên, ông bà khi tên đường đặt rất tùy tiện. Từ những cách gọi lai căng như Bà Triệu [Triệu Thị Trinh], Trần Hưng Đạo [Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn]… đến những cách gọi thiếu tôn trọng như Thoại Ngọc Hầu [Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại], Lãnh Binh Thăng [Lãnh Binh Nguyễn Ngọc Thăng], Đề Thám [Đề Lĩnh Hoàng Hoa Thám]… Tệ nhất là cách gọi theo hỗn danh như Ký Con [Đoàn Trần Nghiệp, làm thư ký, nhỏ con], Đồng Đen [Nguyễn Văn Kịp]… Nếu những cách gọi này được phổ cập thì tiếng Việt sẽ thế nào? 

Bi hài nhất là chuyện khai lý lịch. Thời bao cấp, có năm khai vài chục bản, không biết để làm gì. Trẻ vào nhà trẻ, mẫu giáo cũng khai lý lịch với phần trước 1975 làm gì trong khi ba mẹ các cháu cũng chưa sinh ra. Mà toàn chữ nghĩa mông lung. Khổ nhất là phần tự khai “Ưu khuyết điểm”. Chẳng biết phải tự đánh giá về mình thế nào cho đúng mà không nguy hại đến công việc đang làm.  “Trình độ văn hóa” làm sao đo đếm, xác định? Thiên hạ chỉ nói trình độ học vấn thôi. Chuyện tiếu lâm kể là khi hỏi cung về “Nơi sinh”, có người dân tộc thiểu số đã thật thà trả lời: “Ai chẳng sinh ra từ chỗ đó mà còn hỏi?”. Rồi “quan hệ gia đình”, “quan hệ xã hội”. Từ quan hệ này có giống như “quan hệ bất chính” hay không?

Phần khai thành phần dân tộc càng khó hiểu. Người Việt, ai cũng phải khai là dân tộc Kinh một cách vô lý. “Kinh” nghĩa là gì? Tự tìm hiểu tôi mới nghiệm ra không có dân tộc nào là dân tộc Kinh cả. Chỉ có “người Kinh” trong khẩu ngữ. Khái niệm này có nguồn gốc từ thời nhà Nguyễn. Khi Nguyễn Ánh, sau nhiều năm bôn tẩu gian khổ, đã đánh bại Tây Sơn và lên ngôi vào năm 1802, lấy hiệu là Gia Long. Bài học xương máu Gia Long rút ra là mầm mống các cuộc nổi loạn luôn xuất phát từ đám nhà giàu, lợi dụng, xúi giục và tụ tập những người nghèo bất mãn để phản kháng theo ý đồ của mình. Những cuộc bạo loạn này sẽ nhanh chóng thành khởi nghĩa nếu được chính quyền địa phương hà hơi, tiếp sức. Phải dập tắt những bạo loạn từ trong trứng nước và nắm quyền kiểm soát chặt chẽ.

Sau khi lên ngôi, Gia Long đã cho tuyển chọn và bổ nhiệm người thân thích, họ hàng tỏa đi khắp nới nắm giữ các chức vụ từ làng xã cho đến huyện, phủ… Hết bà con thì lấy người đồng hương Phú Xuân, kinh đô nhà Nguyễn, đất tổ của Nguyễn Hoàng, Nguyễn Kim. Người Kinh có nghĩa là người Kinh đô. Dần dà, khái niệm “người Kinh” được mở rộng thành người miền xuôi, bao gồm cả người Hoa, người Chăm… Ngược lại là “người Thượng” nghĩa là người miền núi, người vùng cao. Nếu mình khai là dân tộc Kinh, chẳng lẽ các dân tộc thiểu số vùng cao sẽ khai chung là dân tộc “Thượng”? Khi đó người Việt chỉ có 2 dân tộc là “Kinh” và “Thượng”, chứ không phải 54 dân tộc như hiện nay.

Người Việt phải khai là “Dân tộc Việt” trong cộng đồng “Người Việt Nam” gồm 54 dân tộc anh em mà dân tộc Việt là đông nhất. Hiện nay, chỉ có duy nhất sách “Non nước Việt Nam”, tài liệu tham khảo nghiệp vụ du lịch do Tổng cục Du lịch xuất bản ghi rõ mục thành phần dân tộc cả nước và các địa phương là “Việt” có chữ Kinh trong ngoặc đơn [Kinh] kế bên để chú thích thêm; bên cạnh các dân tộc khác như Thái, Hoa, Chăm, H’ Mông, Tày, Nùng, Ê Đê… Có người bảo “Chuyện nhỏ, gọi dân tộc gì cũng được, miễn là đất nước giàu mạnh. Xã hội còn bao nhiêu chuyện lớn ngổn ngang”. Đúng là đất nước còn bao chuyện bức bách nhưng tôi không coi chuyện gọi sai tên dân tộc là chuyện nhỏ, không cần sửa. Chuyện nhỏ mà có tác hại lớn về nhận thức và cả hành động. Chuyện nhỏ không làm được sao có thể làm chuyện lớn?

Mong sao việc này được sửa sớm. Tôi chỉ muốn mình là dân tộc Việt chứ không thích làm dân tộc Kinh.

Nguyễn Văn Mỹ 

Dân tộc Kinh là gì?

Vương Sinh

  • Nước Việt Nam chỉ có dân tộc Việt thuần nhất về văn hóa, ngôn ngữ và phong tục tập quán, chiếm đa số [87%] trong 54 dân tộc. Nước Việt Nam không có dân tộc Kinh..  

  • Dân tộc Kinh là dân tộc thiểu số [khoảng 15 ngàn người] trong 56 dân tộc của Trung Quốc.

Đọc những tài liệu liên quan đền dân tộc Việt Nam phổ biến trên internet gần đây, chúng ta đều không khỏi ngạc nhiên về một nhóm từ mới dùng để chỉ dân tộc Việt: Dân tộc Kinh.

Vậy dân tộc Kinh là gì? Tại sao dân tộc Việt lại biến thành dân tộc Kinh?

Trước hết, chúng ta hãy nêu ra một vài dn chứng về sự đổi thay lạ lùng này:  

1.- Bài của Quốc Việt – biên soạn theo tài liệu nước ngoài –  [nguồn www.temvn.net]:

“DÂN TỘC KINH TẠI TRUNG QUỐCDân tộc Kinh [the Kinhs - the Jings – The Gins] là dân tộc chiếm đa số trong cộng đồng 56 dân tộc Việt Nam [thực ra là 54 – tác giả viết lầm] với hơn 70 triệu người. Tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa, dân tộc Kinh chỉ là một dân tộc thiểu số trong cộng đồng 56 dân tộc. “

2.- Bài của Thanh Trúc, phóng viên RFA:

Việt Nam là quốc gia có 54 dân tộc anh em, trong đó lớn nhất là dân tộc Kinh ở các tỉnh thành khắp ba miền đất nước”.

3.- Tài liu của trang Web Chim Viet Cành Nam v 54 dân tc Vit cũng gọi dân tc Vit là dân tc Kinh.

//chimviet.free.fr/dangnet/54dantoc/dtv00001.htm

Tìm hiều nguồn gốc danh từ “Kinh” và “Thượng”.

Trước năm 1975, tại miền Nam chúng ta thường hay nói “Kinh Thượng một nhà” để chỉ tình đoàn kết giữa đồng bào sống ở miền suôi [miền đồng bằng, kinh thành, kinh đô] với đồng bào sống ờ cao nguyên [thượng du, mạn ngược]. Người Kinh mà người Thượng thường hay gọi để chỉ những người dân sống dưới đồng bằng, kinh thành, kinh đô…  bao gồm người Việt, người Hoa, người Chàm, người Khơ Me…Ngưc lại, những người dưi đồng bằng gọi người dân sng ở cao nguyên là ngưi Thượng bao  gm nhiu  dân tộc thiểu số như Thổ, Mán,  H’Mông, BaNa, Gia Rai, Ê Đê…  

Nghĩa ngữ nhóm từ  “ngưi sinh sng tại mt địa phương” trong tiếng Việt được hiểu là “người địa phương đó”. Thí dụ những người sinh sống tại Hà Nội, ta gọi là “người Hà Nội”. Nếu ai sinh sống tại Sài Gòn, ta gọi là “người Sài Gòn”…”

Như  vậy, nhóm từ “người sinh sống tại một địa phương” không có nghĩa là một dân tộc của nước Việt Nam, nói cách khác, nước ta  không hề có dân tộc Hà Nội, dân tộc Sài gòn, dân tộc Kinh, dân tộc Thưng, mà chỉ có ngưi Hà Ni, ngưi  Sài gòn, ngưi Kinh [gồm nhiều dân tộc], ngưi Thưng [gồm nhiều dân tộc]…  

Ngoài ra, ngày nay, ngưi Vit di dân lên sinh sống ở cao nguyên ở rt đông. Thí dụ ở Tây Nguyên, s ngưi thuc dân tc Vit đã chiếm đa s vi khoảng 4 triu ngưi so vi nhng sc tc thiu s khác sinh sng tại đây [dưi 20% dân sTây Nguyên – theo Nguyên Ngọc //www.viet-studies.info/kinhte/NguyenNgoc_TayNguyen.pdf ]. Vì tình trạng chiến tranh trước đây, s ngưi sinh trưng tại cao nguyên mà ta gọi là ngưi Thưng, nay đã di cư xung ở min đng bng khá đông.

Định nghĩa “Dân tộc là gì?”  

Tham khảo nguồn tài liệu trên internet, ta tạm thời chấp nhận những định nghĩa sau đây:

Dân tộc là:

  1. Cộng đồng người hình thành trong lịch sử có chung một lãnh thổ, các quan hệ kinh tế, một ngôn ngữ văn học và một số đặc trưng văn hoá và tính cách.

Thí dụ: Dân tộc Việt, Dân tộc Nga.

  1. Tên gọi chung những cộng đồng người cùng chung một ngôn ngữ, lãnh thổ, đời sống kinh tế và văn hoá, hình thành trong lịch sử từ sau bộ lạc.

Thí  dụ: Việt Nam là một nước có nhiều 'dân tộc'.

Đoàn kết các 'dân tộc' để cứu nước.

[Hồ Ngọc Đức, Free Vietnamese Dictionary Project [chi tiết]

Lấy từ “//vi.wiktionary.org/wiki/d%C3%A2n_t%E1%BB%99c]

Nguồn gốc dân tộc Việt:

Có nhiu giả thuyết. Ta tạm thi chp nhn: “ Dân tc Vit có ngun gc là dân tc Lạc Vit, cùng chủng tc vi nhóm dân Bách Vit sinh sng tại  Lĩnh Nam [phía nam dy  núi Ngũ Lĩnh và Đng Đình h] của nưc Trung Hoa thi xưa. Xin nhớ: trước thời nhà Tần xâm lăng Bách Việt, miền Lĩnh Nam không thuộc về nước Tàu. Tất nhiên dân Bách Việt bao gồm nhiều tộc Việt cũng không phải là người Tàu và nước Nam Việt sau đó cũng không phải là nước Tàu . Nếu Nam Việt là nước Tàu hay thuộc về nước Tàu thì hà tất nhà Hán phải sai Lộ Bác Đức đem quân đi xâm lăng nước Nam Việt?”:

//www.hungsuviet.us/vanhoa/TimhieunguongocdantocViet.html

Dân tộc Kinh là dân tộc thiếu số của 56 dân tộc Trung Quốc

c Vit Nam chỉ có ngưi Kinh [khác vi ngưi Thưng] sng dưi đng bng  mà không có dân tc Kinh.  Nhưng nưc Tàu có dân tc Kinh là mt dân tc thiu s vi khoảng 15 ngàn ngưi trong s 56 dân tc Trung Hoa. Đây là nhng ngưi Vit đã di cư tvùng Đồ Sơn thuộc Việt Nam sang 3 đảo nhỏ Vạn Vĩ, Vu Đầu và Sơn Tâm thuộc tỉnh Quảng Tây, gn biên gii Hoa Vit vì “chng may” 3 đảo này lại thuc v Trung Quc:

Giáo-Sư Nguyễn Văn Canh nói về việc “Trung-Hoa đòi nhượng đất” và “Pháp cắt dất” như sau: Ðiều 3 Hiệp ước Thiên tân có nói rằng " ở nơi nào nếu cần, có thể điều chỉnh lại chi tiết cho đúng để đưa đến một biên giới thực sự cho Bắc kỳ". Phía Trung Hoa vin vào đó, giải thích dấu hiệu này như là giúp đưa đến những sắp xếp sâu rộng, coi như bồi thuờng về đất đai đối với những nhượng bộ chính trị mà Trung Hoa đã ưng thuận ở nơi khác. Lý hồng Chương giải thích cho Đô đốc Rieuner :"Nước Pháp đã được quá nhiều khi chiếm được Bắc Kỳ, một xứ chư hầu của Trung Hoa từ 600 năm nay... Điều này làm tôi rất đỗi ưu tư; cần có một đền bù dưới hình thức nhường một ít đất ở vùng biên giới của Annam đối với tôi như thế là đủ"

 “Công ước phân định biên giới trong tình trạng này đã chấp thuận nhượng một phần lãnh thổ Việt nam cho Trung Hoa ở  nơi có tranh chấp giữa hai Ủy Ban. Có 2 địa điểm tranh chấp chính được nhượng choTrung Hoa: [1] trên biên giới Vân Nam, là tổng Tụ long, hòan toàn thuộc về đất của Vương quốc Annam và chừng 3/4 đất đai của tổng này bằng 750 cây số vuông được nhượng cho Trung Hoa và [2] thuộc tỉnh Quảng Đông là mũi Packlung và "khu vực người Việt nằm trong lãnh thổ Trung Hoa [Vũ  Hu  San - Hải Gii Vit Hoa – //vuhuusan.110mb.com/haigioi.htm]

Tàu muốn gì trong việc gọi dân tộc Việt là “dân tộc Kinh”?

 Là ngưi Vit, chúng ta ai cũng biết các triều đại người Tàu luôn luôn dạy con cháu của họ rằng: “nước Việt Nam chỉ là một quận huyện của họ và người Việt Nam cũng xuất phát từ người Tàu mà ra. Họ rất ghét Triệu Đà và nước Nam Việt vì ông vua có nguồn gốc phương bắc này dám chống lại Thiên Triều [thực ra xưa kia Triệu Đà là người nước Triệu, bị Tần Thủy Hoàng tiêu diệt để sát nhập vào nước Tàu], nhất là thừa tướng Lữ Gia người Nam Việt đã dám công khai chống lại quân tướng nhà Tây Hán. Từ khi nhà Hán sai Lộ Bác Đức tiêu diệt xong nước Nam Việt vào năm 111 trước Công Nguyên, các triều đại Trung Hoa tiếp theo  không bao giờ gọi dân tộc ta là người Việt cả, và không hề chấp nhận những tên gọi nước ta như “Đại Cồ Việt”, “Đại Việt”, Việt Nam”…do vua nước ta đặt ra. Họ chỉ gọi dân tộc Việt là “Giao Chỉ” sau đó [đời Đường] đổi thành “An Nam ” và phong cho những vị vua nước ta là “Giao Chỉ Quận Vương” hoặc “An Nam Quốc Vương”. Thực dân Pháp cũng vậy, chúng toa rập với Tàu gọi người Việt là An Nam [Anamite].

Ngày nay, kể từ khi cố vấn Tàu thành công trong việc khuất phục được đảng CS Việt Nam cầm quyền cai trị nước ta, họ luôn luôn tìm cách đồng hóa nước ta , hết bằng phương tiện quân sự [chiến tranh biên giới 1979, chiến tranh Biển Đông -1987?], đến phương tiện “diễn biến hoà bình” [hiệp ước biên giới  đất liền và biển, dán Bauxite, chi ếm c Hoàng Sa, Trưng Sa…]. Rồi thừa thắng xông lên, cán bộ Việt gốc Tàu đang xâm nhập vào lãnh vực văn hóa và lịch sử Việt Nam .  Hàng loạt những sự thay đổi về Lịch Sử và Văn Hóa Việt Nam như dời lại thời kỳ Bắc Thuộc gần 100 năm [từ  -111 thành -207] [?], dùng nhiều từ Hán như “lễ tân”, “công hàm”, “hộ chiếu”, “tham quan”…[ngược hẳn với thời gian trước chiến tranh 1979, lúc đó dùng từ Việt quá lố như “máy bay lên thẳng”, lính thủy đánh bộ “, “Xưởng đẻ”, …].

Chủ trương biến “dân tộc Việt” thành “dân tộc Kinh” -  một dân tộc thiểu số trong 56 dân tộc Trung Hoa,  phải chăng đây cũng là “điểm” trong kế hoạch đồng hóa Việt Nam thành quận huyện của Tàu, và dân tộc Việt Nam thành dân tộc thiểu số của Tàu?

Chúng ta cần tỉnh táo trước âm mưu đen tối của kẻ thù truyền kiếp phương Bắc. Lịch sử đã chứng minh nước Tàu dù mạnh, dù giàu đến mấy cũng không thề khuất phục nổi dân tộc Việt tuy nhỏ bé kém thế  hơn, nhưng tinh thần quật cường bầt khuất lúc nào cũng mạnh hơn.

Chúng ta hãy noi gương bất khuất của danh tướng Trần Bình Trọng:

“Thà làm Quỷ nước Nam chứ không thèm làm Vương đất Bắc”

Vương Sinh

Video liên quan

Chủ Đề