Chằm nón lá là gì

Chiếc nón lá, hình ảnh bình dị và thân quen. Nón lá không chỉ đơn thuần là vật dụng để che mưa, che nắng mà còn là cái "duyên", cái "hồn" của vùng sông nước miền Tây... 

Ở miền Tây, trải qua thăng trầm vẫn có một xóm nghề âm thầm gìn giữ những nét đẹp, nét văn hóa truyền thống qua từng chiếc nón lá.

Không ai nhớ rõ nghề chằm nón lá xuất hiện ở thị trấn Long Hồ, huyện Long Hồ [Vĩnh Long] từ khi nào. Chỉ biết rằng nghề này theo chân một người đàn ông gốc Huế đến nơi đây lập nghiệp, rồi truyền lại cho bà con làm kế sinh nhai. Từ đó, cứ đời trước truyền cho đời sau, nghề chằm nón duy trì cho đến ngày nay.

Clip Xóm nghề chằm nón lá ở miền Tây - nơi lưu giữ hồn quê, tại thị trấn Long Hồ, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.

Nghề chằm nón lá ở huyện Long Hồ phát triển nhất là vào những năm 70-80 của thế kỷ XX, với khoảng 300 gia đình sống bằng nghề. Hiện nay, số người theo nghề giảm đi nhiều, chủ yếu người lớn tuổi.

Chiếc nón lá mang nhiều ý nghĩa trong đời sống văn hóa của người miền Tây. Ảnh: M.A.

Đảm đang và thạo việc chằm nón lá suốt 47 năm qua, cơ duyên đưa bà Nguyễn Thị Kim Loan [ngụ thị trấn Long Hồ, huyện Long Hồ] đến với nghề từ năm 18 tuổi. Khi đó, bà có chồng về vùng đất này, rồi được cha mẹ chồng truyền nghề. 

Từ đó, bà duy trì và phát triển nghề cho đến tận bây giờ, và nay bà đã 65 tuổi. Giờ đây dù mắt đã mờ, tay có phần không nhanh nhẹn như thời còn trẻ, nhưng nói về kỹ thuật chằm nón cũng như độ tỉ mỉ ở mỗi chiếc nón thì xóm này mấy ai bì lại.

Bà Loan kể: "Lúc đầu, nghề chằm nón lá tại thị trấn Long Hồ chỉ được xem như nghề phụ để kiếm thêm thu nhập cho chị em phụ nữ lúc nông nhàn. Nhưng về sau, những khi mất mùa, chiếc nón lá đã lo cho người dân đủ "cơm no, áo mặc", và dần trở thành nghề chính của xóm nhỏ. Xóm này cứ 10 nhà thì đã có 7 nhà theo nghề chằm nón".

Những chiếc nón lá hoàn thiện được làm từ đôi bàn tay khéo léo của những người thợ của xóm nghề chằm nón lá. Ảnh: M.A.

Bà Huỳnh Thị Ngọc Lan ngụ thị trấn Long Hồ, huyện Long Hồ, năm nay 59 tuổi nhưng đã có hơn 20 năm gắn bó với nghề chằm nón. Bà Lan tâm sự: "Nghề này cũng do cha ông mình để lại, người lớn làm thành thục rồi thì chỉ dạy cho con cháu nối nghiệp. Nhìn vậy chứ dễ học nghề lắm, ai chịu khó quan sát với tỉ mỉ một chút thì học nhanh lắm".

Gói trọn hồn quê trong từng chiếc nón lá

Để có được một chiếc nón lá đẹp người thợ phải trải qua quá trình lao động bền bỉ và cũng công phu với nhiều công đoạn, từ làm mô [hay làm khung], vô vành, xây lá, rồi đến chằm nón…khâu nào cũng đòi hỏi sự khéo tay và nhẫn nại.

Để có được một chiếc nón lá hoàn thiện, người thợ phải trải qua 15 công đoạn. Ảnh: M.A.

Theo bà con xóm nghề, nguyên liệu chính để chằm nón là lá mật cật. Lá mật cật già đem luộc chín, vuốt thẳng, phơi ráo. Lá phải được cán hay vuốt thẳng, sao cho sau khi chằm thì không bị co, dúm lại. Sau đó, lá mật cật được kết dính một cách khéo léo với vòng nan tre bằng chỉ trong suốt; xếp từng lá chồng dọc theo khuôn để chằm.

Thông thường, những người đàn ông sẽ phụ trách vót nan trúc hay tre để lên khuôn làm sườn nón. Các nan tre hay trúc phải được chuốt nhỏ và kích thước tương ứng cho 16 vành nón.

Những người phụ nữ gắn đời mình với nghề chằm nón lá luôn trăn trở giữ nghề. Ảnh: M.A.

Bà Lan vừa vót những nan tre vừa nói: "Chằm nón lá này khâu nào cũng vất vả hết. Làm xong một cái nón là qua 15 công đoạn. Vành mình mua trúc về mình cưa từ cỡ nhất cho tới cỡ 16, sau đó mình mới chẻ rồi mình mới vuốt. Còn lá phải chọn được lá đủ tiêu chuẩn và qua nhiều công đoạn xử lý mới sử dụng để chằm nón được".

Người ta chọn mua một chiếc nón đẹp trên cơ sở chiếc nón ấy có bền hay không, chằm dày hay thưa, vành vót vừa hay nhỏ. Tùy theo khoảng cách của từng mũi kim mà người mua phân biệt ra nón thưa và nón dày. Giá tiền cũng theo đó được ấn định. Nếu chằm nón đẹp thì sẽ bán được giá 50-60 ngàn đồng/chiếc.

Mỗi chiếc nón lá đẹp có giá bán từ 50-60 ngàn đồng. Ảnh: M.A.

Nếu so về tổng thể, chiếc nón tại Long Hồ không khác là bao với những chiếc nón của vùng miền khác nhưng với sự khéo tay và chịu khó trong từng công đoạn nên sản phẩm làm ra bền, chắc. Từ đó, được nhiều người tin dùng, rồi dần dà vang danh khắp miền Tây.

Vừa cầm tay chỉ dạy nghề cho mấy đứa cháu, bà Lan nói: "Ở đây mấy đứa trẻ nó đi làm hết, còn một số phụ nữ nội trợ trong gia đình thì làm nghề kiếm thêm. Làm một ngày 3-5 cái nón thì người thợ cũng thu được vài chục đến 100 ngàn đồng để chi tiêu trong nhà. Làm nghề nhiều năm cũng thành quen, nghỉ không làm thì thấy cũng buồn".

Những người thợ ở xóm nghề chằm nón lá mong mỏi sản phẩm được nâng giá trị để níu giữ người trẻ theo nghề. Ảnh: M.A.

Trải qua bao thăng trầm và sự thay đổi của cuộc sống, dù không còn hưng thịnh như thời hoàng kim, nhưng hiện vẫn còn hơn 300 hộ sống bằng nghề chằm nón lá. Chính lòng yêu nghề và sự quyết tâm của những người thợ đã âm thầm níu giữ cái nghề ông cha.

Chiếc nón lá gần gũi, thân thương với người Việt đến thế. Tuy chỉ là vật dụng đơn sơ nhưng nó lại ẩn chứa hồn quê mộc mạc, dung dị và cũng rất đỗi Việt Nam. Hiện nay, dù có nhiều loại nón đẹp mang phong cách hiện đại thế nhưng chiếc nón lá vẫn giữ cho riêng mình một chỗ đứng trong tâm thức người Việt, dù ở nông thôn hay thành thị.

Bà Huỳnh Thị Ngọc Lan ngụ thị trấn Long Hồ, huyện Long Hồ, người có hơn 20 năm gắn bó với nghề chằm nón lá. Ảnh: M.A.

Còn đối với bà con xóm nghề chằm nón lá giờ đây không còn đơn thuần là miếng cơm manh áo là kế sinh nhai của từng gia đình mà đó là cách để lưu giữ hồn quê.

Chuyên mục thực hiện theo Đề án hỗ trợ thông tin, tuyên truyền về Dân tộc - tôn giáo năm 2021

“Trời mưa thì mặc trời mưa

Em không có nón thì chừa em ra”

Chiếc nón là hình ảnh quen thuộc và gần gũi với mọi người, vừa là để đội đầu che mưa che nắng hơn thế còn để làm duyên nữa. Chiếc nón lá đã xuất hiện trong thơ cổ:

“Dáng tròn vành vạnh vốn không hư,

              Che chở bao la khắp bốn bờ.

        Giúp chúa nào quen nghĩa sớm trưa.

Từ khi có mặt với chức năng là “cái nón”, thì chiếc nón đã theo chân người nông phu ra đồng, theo người phụ nữ đi sớm về trưa, được bà dùng để quạt đưa cháu vào giấc ngủ, được các bà mẹ vỗ về đội vào đầu và nắm tay dìu con đến trường. Nón cùng với người lính thú xông pha ngoài chiến trận, nón theo tài tử giai nhân đi trẩy hội, nón theo cung phi vào cung cấm, nón theo các nàng công chúa, các bà hoàng đi chùa cầu duyên cầu tự. Nón cũng được các bà mẹ sụt sùi nước mắt đặt nhẹ lên đầu người con gái thương yêu trước khi lên xe hoa về nhà chồng…

Nón lá Tây Ninh.

Chiếc nón còn có mặt trong sách vở thi ca, qua câu hò tiếng hát của người bình dân để ngợi ca tình yêu trai gái… và trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống vô cùng đẹp và lãng mạn của người Việt.

Nhiều loại nón ngày xưa, nay không còn được sử dụng và mai một. Có loại nón được cách tân cho phù hợp với thời đại và thị hiếu thẩm mỹ của con người, làm cho chiếc nón vượt lên khỏi chức năng “che mưa che nắng”, trở thành đồ trang sức, làm duyên cho người phụ nữ. Có thể nói không có dân tộc nào có chiếc nón, như chiếc “nón lá” gắn bó, gần gũi với con người như dân tộc Việt Nam!

Tên gọi chiếc nón ở nước ta rất phong phú. Theo thông thường, chiếc nón khi ra đời được đặt tên theo vật liệu làm nên nó. Như nón lá, nón rơm, nón đệm, nón lá buông, nón dứa, nón gõ, nón quai thao, nón móp, nón bài thơ… Chiếc nón cũng được đặt tên theo hình dạng, như nón chóp, nón dấu, nón mê, nón mẻ, nón thúng, nón chân tượng giống chân voi…

Nón cũng còn được đặt tên theo địa phương sản xuất, như nón Nghệ, nón Huế, nón Tây Ninh, nón Tân Hiệp [Mỹ Tho]…

“Chợ Dinh bán áo con trai,

Triều Sơn bán nón, Mậu Tài bán kim.”

Nón quai thao.

Theo tư liệu lịch sử thì chiếc nón Bắc xuất hiện ở phố cổ Hà Nội cách đây 500 năm. Nón Bắc bấy giờ sản xuất ở làng Chuông, Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Rồi chiếc nón làng Chuông được đem ra bán cho người Hà Hội. Nó là mặt hàng đặc trưng ở Bắc lúc bấy giờ, bày bán ở phố Hàng Nón, cùng với phố Hàng Ðiếu, hàng Ðồng, Hàng Ðào, Hàng Buồm, Hàng Giầy, Hàng Chiếu, Hàng Than,… làm nên Hà Nội “băm sáu phố phường”. Nón làng Chuông ngày nay được người Hà Nội làm sống lại trong các lễ hội, được nhắc tới như là chiếc nón tiêu biểu cho Hà Hội.

Tới chiếc cái nón Nghệ, rộng trên 80cm, sâu 10cm, đan bằng những sợi tre chuốt nhỏ, to và nặng, có đôi quai thao dài 1m50 làm bằng 8 sợi tơ, hai đầu có một quả găng… Quai thao xưa nổi tiếng thời thế kỷ 17, được làm ra ở làng Triều Khúc, Thanh Trì, còn gọi là làng Ðơ Thao. Làng Ðơ Thao là làng nghề làm quai nón nổi tiếng ngày xưa, có thờ tượng tổ sư của nghề dệt quai thao, tới nay còn được dân làng tự hào.

Chiếc nón thường đi liền với đôi quai được làm bằng dây, mây, vải… vừa để giữ chiếc nón, vừa để điểm tô cho người đội thêm duyên, thêm dáng, thêm sang trọng và quí phái theo cái nhìn thẩm mỹ bấy giờ. Theo bước chân Nam tiến, chiếc nón vào xứ đàng Trong với tên gọi như nón Huế, nón bài thơ, nón Bình Ðịnh… Nón Huế nhìn soi qua ánh nắng mặt trời, trông như là bức tranh thủy mạc, mãi mãi là cái đặc trưng rất “Huế”!

Nón Huế trong tác phẩm Nghệ thuật sắp đặt tại Lễ hội Festival nghề truyền thống 2005.

Vào đến miền Nam, chiếc nón được gọi nôm na là “nón lá buông”. Nón làm bằng lá buông, với tre, chỉ sợi… vật liệu có sẵn và nhiều ở Trảng Bàng Tây Ninh, Tân Hiệp Mỹ Tho… Chiếc nón lá miền Nam kiểu dáng nhẹ nhàng, rẻ tiền, rất ư là đời thường nên thực dụng, nhưng vẫn giữ cái dáng vẻ “duyên” của người con gái miệt vườn, sông nước!

Việc tổ chức làm nón ở Tây Ninh qui mô, khoa học, sản xuất chia ra ba công đoạn để giảm giá thành, như: làm khung tre, lựa lá và chằm nón. Khung nón làm bằng tre, loại tre cật Tây Ninh, khung có hình chóp, kích cỡ bằng chiếc nón. Khung và bộ vành với 16 chiếc vòng lớn nhỏ được chuốt nhỏ nhắn, tròn và khéo, cân xứng, nghệ thuật và nhẹ nhàng. Lá buông có nhiều ở địa phương, là nguyên liệu chính làm nên cái nón. Lá phải chọn lá già, lá mật cật, đem luộc chín, vuốt thẳng, phơi/sấy và ủ khô sao cho lá còn giữ màu trắng tự nhiên vẫn xanh-trắng mịn màng, không bị ngả màu đen hay vàng. Lá phải cán hay vuốt thẳng, sao cho sau khi lợp, sau khi chằm không bị co bị dúm lại. Giai đoạn cuối cùng là chằm nón bằng những sợi chỉ trong suốt dọc theo nan tre. Chính giữa hai lớp lá được đặt vào các hoa văn, hoặc câu thơ cắt bằng giấy, có khi là hình cầu Tràng Tiền, núi Ngự, Sông Hương…

Người thợ nón Tây Ninh mỗi ngày làm ra từ 2 đến 4 cái nón tùy theo hàng. Những chiếc nón ra lò ở đây trông “rất Huế” nhưng không phải Huế, do bàn tay những nghệ nhân Tây Ninh khéo léo, bằng những đường kim mũi chỉ sắc sảo. Chiếc nón từ khi có mặt, đã phục vụ cho người thường, cho quan chức, cho cả người chết. Nón còn được làm để dâng cho thần linh trong đình chùa đền miếu miễu… phục vụ cho tín ngưỡng con người.

Dầu chiếc nón lá làm ra không dành riêng cho phái nữ, nhưng nói đến cái nón lá xưa nay chúng ta có thói quen liên tưởng đến người phụ nữ “nón nghiêng che” đầy ấn tượng!

“Ra đường nghiêng nón cười cười,

Như hoa mới nở, như người trong tranh”


Tìm kiếm:  

01 02 03 04 05 06 07 08 09 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 01 02 03 04 05 06 07 08 09 10 11 12


2019 2018 2017 2016 2015 2014 2013 2012 2011 2010 2009 2008 2007 2006 2005 2004
[–Chuyên mục–] Xã hội Chính trị Kinh tế Thời sự trong tỉnh VideoClip nổi bật Giáo dục Pháp luật Văn hóa Khoa học – CN Thể thao Giao thông Quê hương – Đất nước Đất và người Thái Nguyên TRANG ĐỊA PHƯƠNG Infographic Phỏng vấn & Đối thoại Nghe đọc Báo Thái Nguyên Nét đẹp đời thường Văn bản, chính sách mới Địa chỉ những tấm lòng từ thiện Góc nhìn cuộc sống Giải báo chí toàn quốc về xây dựng Đảng Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh Thông tin – Quảng cáo

Có nét dịu dàng trong từng chiếc nón lá Huế

Từ xa xưa, chiếc nón lá đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống của người dân Việt Nam. Ngày nay, nón lá xuất hiện khắp mọi nơi, từ thành thị đến nông thôn, trên những cánh đồng vàng hay những con hẻm nhỏ còn vương màu thời gian. Từ công dụng che mưa che nắng cho người nông dân Việt đến việc trở thành một món quà mà khách du lịch bốn phương tặng nhau khi đi du lịch Việt Nam. Cùng Mytour phiêu lãng đến làng nón Huế để cảm nhận nét đẹp dịu dàng, tinh tế trên từng chiếc nón lá nhé!

Huế nhẹ nhàng với những chiếc nón bài thơ dịu dàng – Ảnh: Sưu tầm

Chiếc nón là từ bao lâu nay đã trở thành một hình ảnh quen thuộc mà bạn có thể bắt gặp ở mọi nơi đâu trên làng quê Việt Nam nói chung và xứ Huế nói riêng. Từ rất lâu đời, do nhu cầu của cuộc sống của các vương triều phong kiến nhà Nguyễn, nhiều làng nghề thủ công nổi tiếng trên vùng đất Huế đã được hình thành, phát triển và tồn tại cho đến tận ngày nay. Trong số đó có những làng nón truyền thống như Phủ Cam, Đốc Sơ, Dạ Lê, Kim Long, Tây Hồ và làng nón Bài Thơ.

Làng nón Phú Cam xứ Huế – Ảnh: Sưu tầm

Một loại nón lá đặc biệt của xứ Huế chính là chiếc nón bài thơ, đã tạo nên thương hiệu cho xứ sở mộng mơ này. Nón bài thơ là một loại nón lá đặc biệt ở xứ Huế, tên gọi của nó bắt nguồn từ đặc điểm là khi soi lên ánh sáng thì bạn có thể thấy một bài thơ hay hình ảnh hoa văn được tạo nên khéo léo, bố cục cân đối hiện lên giữa hai lớp lá nón.

Sự độc đáo của chiếc nón bài thơ xứ Huế- Ảnh: Sưu tầm

Xem thêm: Các khách sạn 4 sao tại thành phố Huế

Theo một số tư liệu đã cho chúng ta biết rằng nghề làm nón lá Huế đã có từ khoảng hơn 300 – 400 năm về trước. Nghề làm nón ở Huế xuất phát từ nhu cầu của đời sống dân gian. Nón vừa là vật dụng khá tiện lợi, phù hợp với khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, giá lại rẻ, vì vậy, nón Huế rất được ưa chuộng. Ai ai cũng có thể đội nón Huế, từ cụ già đến em bé, hướng dẫn viên và cả những du khách nước ngoài. Và chắc hẳn ai ai cũng sẽ nhận thấy được vẻ đẹp dịu dàng của chiếc nón.

Nón lá dịu dàng được trang trí nhiều hình về à câu thơ khác nhau- Ảnh: Sưu tầm

Tây Hồ chính là nơi đầu tiên làm ra chiếc nón lá bài thơ. Đó thật sự là một cái duyên tình cờ khi ông Bùi Quang Bặc – một nghệ nhân chằm nón lá, cũng là một người yêu thơ phú trong làng đã có sáng kiến làm nên nón bài thơ, bằng cách ép những câu thơ vào giữa hai lớp lá, tôn vinh thêm vẻ đẹp của chiếc nón. Hai câu thơ đầu tiên được ông Bặc ép vào chiếc nón lá mang giọng điệu dịu dàng khiến cho lòng người du khách phương xa không khỏi vương vấn:

“Ai ra xứ Huế mộng mơ

Mua về chiếc nón bài thơ làm quà”.

Nón bài thơ đưa xứ Huế vào trong lòng du khách- Ảnh: Sưu tầm

Nhìn chiếc nón bài thơ nhỏ gọn, mộc mạc như vậy chắc hẳn mọi người đều nghĩ nó rất dễ làm và chỉ tốn chút ít công sức nhưng sự thật lại hoàn toàn khác. Khi bạn có dịp đến làng nón Huế và tìm hiểu về công đoạn làm nón thì suy nghĩ đó sẽ hoàn toàn biến mất đấy! Là một sản phẩm thủ công, người làm hoàn toàn sử dụng công cụ đôi tay của mình. Người làm phải thực hiện khoảng 15 công đoạn từ lên rừng hái lá, rồi sấy lá, mở, ủi, chọn lá, xây độn vành, chằm, cắt lá, nức vành, cắt chỉ… để có một chiếc nón bài thơ vừa nhẹ vừa đẹp.

Phơi lá cây trước khi dùng làm nón- Ảnh: Sưu tầm

Nguyên liệu của chiếc nón là là lá non của cây Bồ Quy Diệp sau khi hái trên rừng đem về phơi sương rồi nức vàng và ủi cho phẳng. Sau đó, người làm phải khâu tạo khung và vành nón. Đây là công việc đòi hỏi người thợ có nhiều kinh nghiệm, cẩn thận và khéo tay. Chiếc khung nón bao gồm 12 thanh gỗ vát mảnh được ghép lại, khớp nhau ở đỉnh, phía dưới khoảng cách đều nhau. 16 vành như 16 vầng trăng được ve thật nhanh, thật tròn, thật nhẵn, thật điệu, sao cho cân đối và hài hòa nhất.

Công đoạn chuẩn bị nguyên liệu làm nón- Ảnh: Sưu tầm

Hai mươi chiếc lá đực được xây đầu tiên sẽ nằm ở mặt trong. Tiếp đến là hình hoa văn – bài thơ phủ kín diện tích xung quanh chiếc nón. Lá cái được xây ở ngoài cùng. Ở công đoạn này động tác phải nhẹ nhàng khéo léo, chèn kỹ, đẹp và dằn chắc chắn, giữ cho mặt lá phẳng không xê dịch. Công đoạn nào cũng đòi hỏi phải có kinh nghiệm, sự khéo léo và kỹ lưỡng để cho nên những sản phẩm là niềm tự hào của xứ Huế.

Những công đoạn cuối để cho ra chiếc nón lá mang nét dịu dàng- Ảnh: Sưu tầm

Thuở xưa, nón bài thơ được người dân Tây Hồ làm để tặng người thân và bạn bè và đã tạo nên được sự ưa chuộng nhất định. Sau đó, những người làm nón ở Tây Hồ bắt đầu làm nón bài thơ hàng loạt, đưa ra bán ở thị trường không chỉ cho người Việt Nam mà cả những du khách nước ngoài khi du lịch Việt Nam. Những câu thơ được ép vào nón cũng đa dạng và phong phú hơn, thường là những câu thơ về Huế mộng mơ và dịu dàng.

Nét dịu dàng của nón lá có mặt trên khắp các cánh đồng làng quê Việt Nam. Chiếc nón lá theo người nông dân ra đồng, cùng tham gia quá trình lao động sản xuất cho mùa màng bội thu. Khi về đến nhà chiếc nón lá còn được dùng để quạt mát, khi lật ngửa chiếc nón lá lại chiếc nón lá còn là nơi đựng đồ rộng dùng đựng những đồ lặt vặt, những vật dụng cá nhân trong gia đình, nón lá còn có thể đựng trái cây, dùng để múc nước…

Nón lá trên cánh đông lúa chín vàng- Ảnh: Sưu tầm

Xem thêm: Các tour du lịch Thừa Thiên Huế giá rẻ

Nón lá còn là một phần không thể thiếu khi tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Tà áo dài – chiếc nón lá đã trở thành một hình ảnh chuẩn mực của người phụ nữ Việt Nam vừa đẹp người, vừa đẹp nết, nhẹ nhàng và tinh tế. Nếu tà áo dài tôn lên vẻ đẹp thướt tha, duyên dáng, thùy mị sang trọng của người con gái thì nón lá lại làm cho người con gái mang một vẻ đẹp tiềm ẩn, kín kẽ và đậm đà hơn rất nhiều.

Nón lá, áo dài và hoa sen- Ảnh: Nguyễn Long

Chúng ta còn có thể dễ dàng bắt gặp hình ảnh của một người bạn nước người trên đầu đội nón lá Việt Nam với vẻ mặt tươi cười rạng rỡ lại càng làm cho chiếc nón lá trở nên ý nghĩa hơn. Nón lá giờ đây đã trở thành một món quà tạo nên sự gắn kết giữa Việt Nam với nước bạn trên thế giới và nón lá đã đưa hình ảnh của nước Việt Nam ta chu du khắp bốn phương.

Nón lá được du khách nước ngoài ưa chuộng- Ảnh: Sưu tầm

Chỉ là một chiếc nón lá đơn sơ và mộc mạc như chính tính cách con người Việt Nam giản dị nhưng lại vô cùng có ý nghĩa. Chiếc nón lá là hình ảnh của Việt Nam, là món quà mà chính bàn tay người Việt tạo ra, chiếc nón lá là cây cầu nối tình bằng hữu giữa Việt Nam và nước bạn. Dù gì đi chăng nữa, chiếc nón lá vẫn mang trong mình màu sắc của sự bình yên, dịu dàng và tinh tế!

Nón lá che nghiêng nét đẹp Việt – Ảnh: Sưu tầm

Nón bài thơ xứ Huế

Xem thêm: Các khách sạn giá rẻ tại Thừa Thiên Huế

Thùy Dương – Mytour.vn

Lưu ý: Nội dung bài viết thuộc bản quyền của Mytour.vn [Không bao gồm hình ảnh]. Mọi sao chép cần ghi rõ nguồn, tên tác giả, nhiếp ảnh gia cùng với liên kết về nội dung tương ứng tại Mytour.vn.

Làng nghề chằm nón lá Cần Thơ

Ngoài vẻ đẹp trù phú mà thiên nhiên ban tặng, Cần Thơ còn là nơi được mọi người biết đến bởi sự đa dạng phong phú về các làng nghề truyền thống được lưu truyền từ nhiều thế hệ. Một trong những làng nghề đó là Làng nghề chằm nón lá…

 

Nón lá và áo bà ba

Ngoài vẻ đẹp trù phú mà thiên nhiên ban tặng, Cần Thơ còn là nơi được mọi người biết đến bởi sự đa dạng phong phú về các làng nghề truyền thống được lưu truyền từ nhiều thế hệ. Một trong những làng nghề đó là Làng nghề chằm nón lá… Nghề chằm nón lá ở ấp Thới Tân A không ai nhớ rõ xuất hiện từ năm nào và tổ nghề là ai.

Tuy nhiên, theo những người làm nghề lớn tuổi ở đây cho biết, nghề này có khoảng trên 70 năm, hiện nay đã thành lập được Nghiệp đoàn chằm nón lá với trên 36 hộ sống với nghề. Gia đình bà Diện đã 3 đời theo nghề chằm nón. Khác với miền Trung làm nón Bài thơ bằng lá buông và dây thao, người dân ở ấp Thới Tân A cũng như các vùng khác ở Nam bộ chọn loại lá mật cật và cây trúc làm nguyên liệu chính để làm nón. Lá mật cật là lọai cây có lá xòe rộng như lá cọ, mọc nhiều ở Tây Ninh, Phú Quốc, Cà Mau,…Thân cây nhỏ và thấp, mọc thành từng đám hoặc bụi, hai bên cọng của tàu lá đầy gai nhọn.

Mỗi cây mật cật chỉ có 01 lá non và được người ta chọn để làm nón. Muốn làm nón đòi hỏi người thợ phải có cái khung chằm hình chóp có kích thước bằng chiếc nón lá mà người dân vùng này thường gọi là cái Mô được bày bán ở chợ. Vào những thập niên 80 trở về trước, nón lá được làm từ Mô có 15 vành. Sau thập niên 80, thị hiếu của người tiêu dùng thay đổi, người Nam bộ nói chung bắt đầu chuộng nón lá kiểu xứ Huế có 16 vành hay còn gọi là nón Bài thơ .

Tỉ mỉ trong từng cọng nang

Được biết giá một kg lá mật cật trên thị trường hiện nay giao động từ 80.000 đồng đến 90.000 đồng, chằm được 20 cái nón thường. Khi thành phẩm, thương lái mua vào một cái nón lá khoảng 15.000 đồng. Nếu tính sơ, mỗi cái nón người thợ có thể thu lãi khoảng 8.000 đồng, trung bình một người, ngoài công việc chính trong ngày, có thể làm thêm được từ 2 đến 3 chiếc nón, phần nào phụ giúp được gia đình có thêm nguồn thu nhập. Sản phẩm của Nghiệp đoàn chằm nón lá ở ấp Thới Tân A chủ yếu bán ở chợ Thới Lai và một số nơi khác như ở chợ Vĩnh Thuận, Vĩnh Tuy …

Nguồn: Canthotourist

Cây thông Noel được làm từ 1.200 chiếc nón lá

Thực hiện trong 3 tuần, cây thông Noel cao 20 m được giáo dân Đồng Nai dựng lên chào đón Giáng sinh.

Cây thông Noel được làm từ 1.200 chiếc nón lá tại giáo xứ Hà Phát. Ảnh: Phước Tuấn.

Cùng với nhiều mô hình hang đá lạ, độc đáo… ở các giáo xứ tại Đồng Nai, cây thông Noel bằng nón lá được nhiều người dân đến tham quan, chụp ảnh, những ngày qua.

Công trình do giáo dân Hà Phát, phường Tân Biên, TP Biên Hòa thực hiện. Cây thông được làm từ 1.200 chiếc nón lá, cao gần 20 m, tạo thành 3 tầng tháp. Mỗi chiếc nón đều có bóng đèn bên trong và đèn nháy trang trí xung quanh.

“Khung sườn được tạo thành từ hàng trăm thanh sắt. Còn nón lá sau khi mua về chúng tôi sơn quét để giảm ảnh hưởng của thời tiết. Mỗi ngày có khoảng 20 giáo dân đến thực hiện, khoảng 3 tuần thì công trình hoàn tất”, một thành viên tham gia thực hiện cho biết.

Nhiều người dân đến tham quan, chụp ảnh bên dưới cây thông Noel. Ảnh: Phước Tuấn.

Về đêm, cây thông Noel lung linh khi đèn được bật sáng. “Em rất ấn tượng với cây thông tại nhà thờ này vì rất nhiều nón lá, nhìn từ xa nó lung linh rất đẹp”, bạn Phạm Thị Hồng Ánh [20 tuổi] chia sẻ.

Phước Tuấn

Nón lá bài thơ xứ Huế [*]

Từ Tây Hồ, những chiếc nón bài thơ toả đi khắp nẻo đường và trở nên gần gũi, thân quen trong cuộc sống thường nhật của mỗi phụ nữ Huế. Chỉ với nguyên liệu đơn giản của lá dừa, lá gồi, những chiếc nón bài thơ vẫn trở thành vật “trang sức” của biết bao thiếu nữ.

Ảnh: Nguyễn Phúc Bảo Minh

Nguồn gốc nón lá Huế

Nằm bên dòng sông Như Ý, làng Tây Hồ thuộc xã Phú Hồ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế, cách thành phố Huế khoảng 12 km về hướng Đông Nam từ lâu đã nổi tiếng với nghề chằm nón lá truyền thống. Nghề chằm nón lá đã hình thành cách đây hàng trăm năm và nón bài thơ – một nét đặc trưng của Huế cũng xuất phát từ làng nón Tây Hồ [vùng đất đã từng nổi danh có nhiều cô gái xinh đẹp, làm say đắm biết bao chàng trai trong vùng].

Ở Tây Hồ không chỉ phụ nữ biết chằm nón mà ngay cả những người đàn ông cũng có thể giúp chuốt vành, lên khung nón. Không biết tự bao giờ, làng đã bắt đầu nghề làm nón bài thơ. Người ta chỉ biết rằng trải qua bao sự thăng trầm lịch sử làm nón vẫn là cái nghề, là nghiệp phải noi theo của bao thế hệ người làng Tây Hồ.

Ban đầu, nón bài thơ chủ yếu được làm để tặng người thân. Thế nhưng, nón lại được nhiều du khách yêu thích nên được làm với số lượng nhiều và bán ra thị trường. Từ đây, những câu thơ được ép vào nón cũng đa dạng hơn, phong phú hơn nhưng cũng không ngoài những câu thơ ca ngợi về cảnh đẹp và con người xứ Huế.

Lúc này, để làm đẹp thêm cho chiếc nón, những người thợ làm nghề còn ép vào đó cả tranh về sông Hương, núi Ngự cạnh bài thơ. Đến nay, chiếc nón bài thơ không còn là một sản phẩm bình thường mà đã trở thành nét đặc trưng của xứ Huế.

Nguyên liệu để làm nên một chiếc nón bài thơ xứ Huế rất đơn giản, chỉ bằng lá dừa và lá gồi. Để có một chiếc nón bài thơ vừa nhẹ vừa đẹp, người ta phải thực hiện khoảng 15 công đoạn từ lên rừng hái lá, rồi sấy lá, mở, ủi, chọn lá, xây độn vành, chằm, cắt lá, nức vành, cắt chỉ…

Để có được lá đẹp, người ta thường lên rừng chọn loại lá non [của cây Bồ Qui Diệp] có màu xanh nhẹ, sau đó đem phơi sương qua đêm để lá dịu lại. Tiếp theo, người ta phải nức vàng và ủi lá cho phẳng. Để có được lá đẹp, lá làm nón phải giữ được màu xanh nhẹ, người ta ủi lá nhiều lần cho phẳng và láng. Sau đó, người thợ chuẩn bị khung để chằm nón. Khung này bao gồm 6 cây sườn chính, dựa trên đó người ta bố trí 16 nan tre được vót nhỏ uốn quanh khung hình chóp nón.

Khi làm nón bài thơ, người ta chỉ làm 2 lớp lá, ở giữa là những thắng cảnh và các câu thơ hay. Khi xây và lợp lá, người thợ phải khéo léo sao cho khi chêm lá không bị chồng lên nhau nhiều lớp để nón có thể thanh và mỏng. Khi nón chằm hoàn tất, người ta đính thêm vào chóp nón một cái “xoài” được làm bằng chỉ bóng láng để làm duyên, sau đó mới phủ dầu nhiều lần, phơi đủ nắng để nón vừa đẹp vừa bền.

Từ Tây Hồ, những chiếc nón bài thơ toả đi khắp nẻo đường và trở nên gần gũi, thân quen trong cuộc sống thường nhật của mỗi phụ nữ Huế. Chỉ với nguyên liệu đơn giản của lá dừa, lá gồi, những chiếc nón bài thơ vẫn trở thành vật “trang sức” của biết bao thiếu nữ.

Với nhiều người, lựa nón, lựa quai cũng là một thú vui nên không ít người đã kỳ công đến tận nơi làm nón để đặt cho riêng mình với dòng thơ yêu thích. Buổi tan trường, các con đường bên sông Hương như dịu lại trong cái nắng hè oi ả bởi những dáng mảnh mai với áo dài trắng, nón trắng và tóc thề.

Những gương mặt trẻ trung ẩn hiện sau vành nón sáng lấp loá đã trở thành một ấn tượng rất Huế, rất Việt Nam.

Các loại nón lá Huế

Nón lá gần với đời sống tạo nhiều nét bình dị, đoan trang, yêu kiều, duyên dáng và thực tiễn với đời sống nông nghiệp, một nắng hai sương, trên đồng lúa, bờ tre lúc nghỉ ngơi dùng nón quạt cho mát mẻ ráo mồ hôi.

Nón lá không xa lạ với chúng ta, ngày nay ở hải ngoại chỉ thấy nón lá xuất hiện trên sân khấu, trình diễn nghệ thuật múa nón và áo dài duyên dáng mền mại kín đáo của thiếu nữ Việt Nam nổi bật bản sắc văn hoá dân tộc, áo dài và nón lá là nét đặc thù của đàn bà Việt Nam, chắc chắn không ai chối cãi. Nếu mặc áo đầm, hay quần tây mà đội nón không tạo được nét đẹp riêng.

Nón dùng để che nắng mưa, có lịch sử lâu đời đã khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trên thạp đồng Đào Thịnh vào khỏang 2500-3000 năm. Nón lá gần với đời sống tạo nhiều nét bình dị, đoan trang, yêu kiều, duyên dáng và thực tiễn với đời sống nông nghiệp, một nắng hai sương, trên đồng lúa, bờ tre lúc nghỉ ngơi dùng nón quạt cho mát mẻ ráo mồ hôi. Nón lá ở Việt Nam có nhiều loại khác nhau qua từng giai đoạn lịch sử:

Giang hàng bán một số loại nón lá.

– Nón dấu: nón có chóp nhọn của lính thú thời xa xưa

– Nón gò găng hay nón ngựa: sản xuất ở Bình Định làm bằng lá dứa đội khi cỡi ngựa

– Nón rơm: Nón làm bằng cộng rơm ép cứng

– Nón quai thao : người miền Bắc thường dùng trong lễ hội

– Nón cời: nón rách

– Nón Gõ: Nón gõ làm bằng tre ghép cho lính hồi xưa

– Nón lá Sen: cũng gọi là nón liên diệp

– Nón thúng: thứ nón lá tròn bầu giống cái thúng.

– Nón khua: Viên đẩu nón của người hầu các quan xưa

– Nón chảo: thứ nón mo tròn lên như cái chảo úp nay ở Thái Lan còn dùng

– Nón cạp: Nón xuân lôi đại dành cho người có tang

– Nón bài thơ: ở Huế thứ nón lá trắng và mỏng có lộng hình hay một vài câu thơ.

Người Việt từ nông thôn cho tới thành thị đều dùng nón lá, nhưng ít người để ý nón lá có bao nhiêu vành, đường kính rộng bao nhiêu cm? Nón lá tuy giản dị rẻ tiền nhưng nghệ thuật làm nón cần phải khéo tay. Nghề chằm nón không chỉ dành riêng cho phụ nữ mà cả những người đàn ông trong gia đình cũng có thể giúp chuốt vành, lên khung nón.

Với cây mác sắc, họ chuốt từng sợi tre thành 16 nan vành một cách công phu ; sau đó uốn thành vòng thật tròn trịa và bóng bẩy. Người phụ nữ thì chằm nức vành . Để có được lá đẹp, họ thường chọn lá nón non vẫn giữ được màu xanh nhẹ, ủi lá nhiều lần cho phẳng và láng. Khi xây và lợp lá, người ta phải khéo léo sao cho khi chêm lá không bị chồng lên nhau nhiều lớp để nón có thể thanh và mỏng. Nghề làm nón lá thường sản xuất từ miền Bắc và miền Trung trong các làng quê sau các vụ mùa, ở các tỉnh miền Nam không thấy người ta chằm nón?

Nguyên liệu và các công đoạn sản xuất nón lá Huế

Để làm ra được một chiếc nón lá vừa đẹp, vừa nhẹ, vừa bền là cả một nghệ thuật và công phu của những nghệ nhân, đòi hỏi sự tỉ mỉ và công phu trong từng công đoạn của quy trình sản xuất.

Danh tiếng, tính chất đặc thù của nón lá Huế có được là nhờ nghề làm nón lá ở Thừa Thiên Huế đã kế thừa những yếu tố hợp lý của các loại nón lá, từ cung đình đến dân gian, từ miền Bắc đến miền Nam để tạo ra sản phẩm riêng của vùng này.

Nguyên liệu để sản xuất nón lá Huế là cây lá nón có tên khoa học là Licuala Fatoua Becc, được trồng ở huyện A Lưới và huyện Nam Đông, đây là vùng có lượng mưa lớn, độ ẩm cao nên phù hợp với sự phát triển của cây lá nón.

Lá nón nguyên liệu được sử dụng là lá không quá non cũng không quá già.

Lá nón nguyên liệu được sử dụng là lá không quá non cũng không quá già – lá thường đang còn búp vừa đủ một tháng tuổi và phát triển hết chiều dài, chiều ngang, chưa chuyển sang màu xanh đậm, các bẹ lá ôm khít với nhau, chưa bung ra, có độ mềm với chiều dài khoảng 40-50cm.

Để làm ra được một chiếc nón lá vừa đẹp, vừa nhẹ, vừa bền là cả một nghệ thuật và công phu của những nghệ nhân, đòi hỏi sự tỉ mỉ và công phu trong từng công đoạn của quy trình sản xuất.

Trong khâu kỹ thuật, thợ làm nón lá Huế có kinh nghiệm chọn lá dù khô cũng còn giữ được màu xanh nhẹ, 16 vành nức thường mảnh được vót tròn trĩnh, tỉ mỉ và công phu. Lá được ủi nhiều lần, cẩn thận cho thật phẳng và láng. Hình dáng của chiếc nón lá Huế phụ thuộc rất nhiều vào khung chằm.

Khung chằm [còn gọi là khuôn nón] phải được đặt riêng với yêu cầu cụ thể để dáng của chiếc nón lá sau này cân đối, đẹp mắt, vừa ý. Người thợ làm khung nón giữ kỹ thuật tạo dáng mái, khoảng cách giữa các vành và độ tròn của vành… như một thứ gia bảo cha truyền con nối, theo một thẩm mỹ dân gian “hay mắt” mà thật ra là cả một tỷ lệ thích hợp đã được nhiều đời và nhiều vùng kiểm nghiệm “thuận mắt ta ra mắt người”.

Khi xây và lợp lá phải thật khéo, nhất là khâu sử dụng lá chêm, tránh việc chồng nhau nhiều lớp để sao cho nón thanh và mỏng, mũi chỉ chằm phải sát để kẽ lá ôm khít lấy nhau.

Nghệ nhân làm nón đang khâu lá nón trên khung chằm. Ảnh: Du lịch Việt Nam.

Khi nón chằm hoàn tất, người thợ đính cái soài bằng chỉ màu rất đẹp vào chóp nón sau đó mới phủ dầu nhiều lần, phơi đủ nắng để thành nón bóng láng và giữ được bền.

Nhờ kinh nghiệm và đôi bàn tay khéo léo của những nghệ nhân, nón lá Huế không những mang được dấu ấn biểu trưng cho vẻ đẹp của Huế, của làng nghề văn hóa Huế mà còn trở thành hàng lưu niệm được ưa thích của mọi người khắp nơi đến Huế và của nhiều du khách quốc tế.

Phân biệt nón lá Huế với các loại nón lá khác

Dù xuất hiện ở đâu, chiếc nón Huế vẫn mang đậm hồn quê, vẫn mang đậm hương đồng, gió nội của những làng nghề truyền thống, nơi đã sản sinh ra nó. Nón lá Huế từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tác của các nghệ sĩ Huế và của những người yêu Huế.

Nón lá Huế có được danh tiếng như vậy là do nón lá Huế có những đặc trưng riêng về màu sắc, kiểu dáng, kích thước, trọng lượng, độ bền… đã tạo nên sự khác biệt so với nón lá của các địa phương khác.

Về hình thái: nón lá Huế màu trắng xanh, có những đường điểm xuyết màu xanh rất nhẹ theo chiều dọc lá nên về cơ bản sắc màu nón lá Huế vẫn là trắng. Nón lá Huế mỏng, nhẹ, thanh tao, mềm mại, đẹp chắc, bền và cân đối.

Nón lá Huế mỏng, nhẹ, thanh tao, mềm mại, đẹp chắc, bền và cân đối. Ảnh: Mytour.

Về các chỉ tiêu chất lượng chính của nón Huế:

– Trọng lượng trong khoảng 57,4 – 60,3 M[g];

– Đường kính nón trong khoảng 40,7 – 41,8 [cm];

– Chiều cao nón trong khoảng 17,5 – 18,8 [cm];

– Tính cân đối của nón – tỷ số H/D trong khoảng 0,436 – 0,448;

– Chỉ số về độ bền tương đối của nón [F/M nón] trong khoảng 134,33 – 137,58 [là tỉ số giữa lực ép tại thời điểm làm gãy nón với trọng lượng của nón].

Phương Thảo – Hương Trang [Cục Sở hữu trí tuệ]

* Tiêu đề đã được Ban biên tập Khám phá Huế đặt để phù hợp với nội dung thông tin tổng hợp. 

Nón lá trong suốt… không che nắng: Chuyện cụ ông Huế vào rừng hái lá bàng | Đời sống

Để có những chiếc nón độc đáo thế này, đầu tiên phải làm ra xương lá. Lá tươi được nấu 1 tiếng rưỡi trong baking soda [bột nở] để chuyển thành washing soda, mục đích nhằm loại bỏ mùi hôi. Sau đó, lá được ngâm thêm 1 tháng rưỡi mới được mang ra làm sạch. Sau đó, ông đem số lá này cho thợ chằm nón để tạo ra một chiếc nón như bình thường.


VIDEO: Cụ ông U70 vào rừng hái lá bàng làm nón

Một chiếc lá bàng rừng mới được làm sạch sau hơn 1 tháng ngâm dung dịch

 Lê Nam

Nếu tính tổng thời gian hoàn thành một chiếc nón từ khi ngâm lá cho tới chằm nón mất khoảng 2 tháng. Còn nếu có sẵn xương lá rồi thì một ngày người thợ chằm nón có thể làm được 2 cái. Nếu siêng năng, mỗi tháng mỗi thợ có thể làm được 60 cái.

Người đàn ông ‘ham của lạ’, độ chiếc PCX thành ‘xe hải tặc’ đính đầy đá quý

Những cây bàng rừng xuất hiện ở xã Bình Điền, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, cách nhà ông 20 cây số. Ông Hùng khoá cổ xe tại bìa rừng, một mình vác cái bao, vác cái sào “săn” lá bàng. Khi tìm được cây bàng rừng, ngày trước thì ông phải tự leo lên để hái rồi sau này sử dụng cái dụng cụ như của công ty cây xanh.

“Mình bấm dưới này thì ở trên có một cái kéo sắt, kéo cho lá xuống. Nhưng đâu phải cái lá nào mình xuống cũng được. Sau này mới mua một thiết bị gắn sau điện thoại. Zoom ra cái hình to này rồi ở dưới mình chọn. Giống như cái ống nhòm. Soi cái lá nào được thì mới cắt xuống. Một lần đó suýt té, suýt gẫy chân vì rơi từ độ cao hơn 3 mét xuống”, ông nhớ lại.

Ông Hùng kể chuyện đi rừng hái lá bàng rất li kì

 Lê Nam

Thời điểm thuận lợi nhất để hái lá bàng rừng vào thời điểm tháng 3. Bởi đó là mùa nắng, ít mưa giông, đi lại không sợ trơn trượt. Hơn nữa, lá cây cũng khỏe khoắn, ít bị sâu mọt nhất.

“Nó [cây bàng rừng] ở gần những con suối. Mình muốn tìm chỗ nào tập trung thật nhiều cây. Nhưng hắn lại không phân bố rõ ràng”, ông Hùng nói.

Nón lá che mưa chứ không che nắng

Ông cho biết, lá bàng rừng để làm nón phải dày, gân lá phải cứng. Mặt lá không rách, không sâu. Tiêu chuẩn độ dài từ đỉnh nón tới cuối nón phải đạt, còn nhỏ quá không thể làm được.

Nhìn chiếc nón từ lá bàng rừng mỏng monh, trong suốt, tôi tỏ ý hoang mang. Ông trấn an: “Không rách được đâu. Đi mưa thoải mái, không lo ướt”.

Nón lá của ông được đón nhận rất nhiệt tình, đặc biệt ở Hà Nội và Sài Gòn. “Lúc trước ở Hà Nội có một anh điện vào thì thấy hay, đặt 1.000 chiếc để xuất khẩu qua châu Âu. Tôi nghe là tôi phải hủy thôi, tôi không thể làm được. Do đây là hàng thủ công không thể sản xuất hàng loạt được. Không phải một miếng vải để người ta may thành một cái áo”, ông Hùng kể.

Trước khi chằm nón, ông Hùng phải xử lý lá tươi thành xương lá khô 

Lê Nam

Những chiếc nón từ bá làng rừng bền chắc như nón lá truyền thống.

Ảnh NVCC

Mặc dù che mưa được nhưng do nón trong suốt nên khó che nắng 

NVCC

Hay như gần đây, có đơn hàng nước ngoài đặt 500 chiếc lá không để họ làm lều sinh thái hình tam giác. Ngoài làm nón, những chiếc xương lá bàng rừng của ông có nhiều công dụng khác nhau.

Ông Hùng từng có khoảng thời gian làm nghề giáo khi còn trẻ. Sau khi bỏ việc dạy thì ông đi làm thuê làm mướn. Sau đó trải qua 28 nghề khác nhau, từ làm giấy, làm muối, bốc thuốc bắc cho đến thợ may… Gần đây nhất là công việc làm nón từ lá bàng rừng. Chính xác bắt đầu công việc này từ tháng 12.2018, đến nay chưa được 6 tháng.

Ông Hùng mong muốn xây xưởng làm nón cho trẻ em lang thang, cơ nhỡ làm việc 

Lê Nam

Nhận thấy tiềm năng phát triển của chiếc nón này. Ông Hùng bày tỏ mong muốn có thể thuê nhà, xây xưởng. Sau đó đưa những trẻ em lang thang, cỡ nhỡ vào làm. Ông cho biết, mục đích của việc này vừa để tạo công ăn lương cho các em. Đồng thời quy trình sản xuất cũng được tăng lên, việc làm của ông sẽ mang tính cộng đồng cao hơn”.

Nghề làm nón lá Huế đang đứng trước thách thức / Thương hiệu Việt / Kinh tế / Tin ITA / itaexpress

Chiếc nón Việt Nam được làm ra để che mưa, che nắng. Nó là người bạn thuỷ chung của những con người lao động một nắng hai sương. Nhưng công dụng của nó không dừng lại ở đấy, nó đã trở thành một phần cuộc sống của người Việt Nam. Trên đường xa nắng gắt hay những phút nghỉ ngơi khi làm đồng, ngồi bên rặng tre cô gái có thể dùng nón quạt cho ráo mồ hôi. Bên giếng nước trong, giữa cơn khát cháy cổ, nón có thể trở thành chiếc cốc vại khổng lồ bất đắc dĩ, hay có thể thay chiếc chậu vục nước mà áp mặt vào đó cho giải bớt nhiệt.

Nhắc đến Huế, người ta thường nghĩ ngay đến dòng sông Hương, những cô gái dịu dàng bên tà áo dài tím… và có lẽ người ta cũng không thể quên chiếc nón bài thơ mang đậm tâm hồn Huế.

Nguyên liệu làm nón không phức tạp. Ở nơi nào cũng vậy, muốn làm được một chiếc nón phải dùng lá của một loại cọ nhỏ mọc hoang, dùng sợi nón – một loại sợi rất dai lấy từ bẹ cây móc [ngày nay người ta thường dùng sợi chỉ nilon] và tre. Tàu lá nón khi đem về vẫn còn xanh răn reo, được đem là bằng cách dùng một miếng sắt được đốt nóng, đặt lá lên dùng nắm dẻ vuốt cho phẳng. Lửa phải vừa độ, nếu nóng quá thì bị ròn, vàng cháy, nguội quá lá chỉ phẳng lúc đầu, sau lại răn như cũ. Người ta đốt diêm sinh hơ cho lá trắng ra, đồng thời tránh cho lá khỏi mốc. Tre chọn ống dài vuốt nhọn, gác lên dàn bếp hong khói chống mối mọt, dùng làm vòng nón. Nón Chuông có 16 lớp vòng. Con số 16 là kết quả của sự nghiên cứu, lựa chọn qua nhiều năm, cho đến nay đã trở thành một nguyên tắc không thay đổi. Chúng đã tạo cho những chiếc nón Chuông có được dáng thanh tú, không quá cũn cỡn, không xùm xụp. Nhưng vẻ đẹp của chiếc nón chủ yếu nhờ vào đôi bàn tay khéo léo của người thợ tạo nên. Người thợ khâu nón được ví như người thợ thêu. Vòng tre được đặt lên khuôn sẵn, lá xếp lên khuôn xong là đến công việc của người khâu. Những mũi kim khâu được ước lượng mà đều như đo. Những sợi móc dùng để khâu thường có độ dài, ngắn khác nhau. Muốn khâu cho liên tục thì gần hết sợi nọ phải nối tiếp sợi kia. Và cái tài của người thợ làng Chuông là các múi nối sợi móc được dấu kín, khiến khi nhìn vào chiếc nón chỉ thấy tăm tắp những mũi khâu mịn màng. Sợi móc len theo từng mũi kim qua 16 lớp vòng thì chiếc nón duyên dáng đã thành hình.

Về mặt hình dáng, chất liệu và công dụng, nón bài thơ xứ Huế cũng giống như nón cùng loại của một số địa phương khác trên cả nước. Tuy nhiên, nét đặc thù mang đậm dấu ấn phong cách Huế chính là dáng nón thanh tao mềm mại, màu trắng sáng xanh mát dịu của lá và những hình hoa văn được tạo rất khéo, bố cục cân đối nằm giữa 2 lớp lá, chỉ khi soi ra trước ánh sáng mới có thể nhận thấy được vẻ đẹp đầy thi vị của nó. Ở Huế, chiếc nón không chỉ để che nắng mưa mà còn là một loại phục trang kết hợp cùng tà áo dài màu tím đặc trưng, càng làm cho vẻ đẹp của người phụ nữ thêm uyển chuyển và mềm mại trên từng bước chân thong thả, dịu dàng.

Huế có số lượng làng nghề làm nón nhiều nhất nước, nổi tiếng thì có Đồng Di, Tây Hồ, Phú Cam… với nón Bài thơ nức danh, rồi La Ỷ, Nam Phổ, Đốc Sơ với nón chằm ba lớp, ngoài ra còn có Dạ Lê, An Cựu, Triều Sơn chuyên làm nón “đội đi chợ” thông thường. Nhưng xem ra, khái niệm “làng nghề nón” có lẽ chỉ đúng với nghĩa nhiều nhà trong làng biết và có làm nón. Làm chứ không sống bằng nghề, cũng chẳng ai làm nón để tạo nguồn thu nhập chính.

Tuy nhiên nghề làm nón lá ở Huế đang đứng trước những thách thức, đó là thu nhập thấp và không ổn định. Trên thực tế, giá mỗi loại nón chỉ dao động từ 10.000-13.000 đồng/chiếc đối với nón thường [nón chợ] và 20.000-30.000 đồng/ chiếc đối với nón loại dày [nón đặt]. Trong khi mỗi ngày người thợ chỉ chằm được 1 chiếc nón đặt hoặc 3-4 chiếc nón chợ. Mức thu nhập của người thợ vì thế cũng quá thấp làm cho họ không thể chuyên tâm với nghề. Nguyên liệu làm nón cũng ngày càng khan hiếm do nạn chặt phá rừng ồ ạt và việc khai thác lá nón không có tính bền vững làm cho diện tích vùng nguyên liệu lá nón bị thu hẹp. Nghề khai thác lá nón cũng là nghề nhọc nhằn. Bên cạnh đó, thị trường tiêu thụ không thuận lợi do sự phát triển ồ ạt của các loại mũ vải thời trang và mũ bảo hiểm – loại mũ đã được quy định bắt buộc đối với những người đi xe máy – đang làm cho nón lá mất đi chỗ đứng của nó.

Nỗi lo của làng nghề chằm nón truyền thống trong thời buổi kinh tế thị trường hiện đại hôm nay. Có cách gì để những chiếc nón không chỉ để treo, để diễn, để làm quà lưu niệm mà còn để đội đầu che nắng che mưa và làm đẹp cho con người đã làm ra nó.

H.N [tổng hợp]

Nón lá Thúy, tác phẩm nổi tiếng sản xuất bởi một thiếu nữ tật nguyền

Phương Anh, phóng viên đài RFA

Kính chào quí thính giả, mục Câu Chuyện Hàng Tuần xin tái ngộ cùng quí vị. Trong chương trình hôm nay, Phương Anh xin dành để nói về chiếc nón lá bài thơ đặc biệt của thành phố Huế, mà giới yêu chuộng ở ngọai quốc đặt tên là Nón Thúy.

Cựu Đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ Hillary Clinton thử chiếc nón lá bên cạnh là cô Chelsea, trong chuyến viếng thăm Việt Nam năm 2000. AFP PHOTO/John MACDOUGALL

Thưa quí vị và các bạn, từ bao đời, hình ảnh chiếc nón lá Việt Nam đã trở thành quen thuộc cho tất cả mọi người.

Thời gian trước đây, chúng ta thường bắt gặp hình ảnh những cô thiếu nữ với mái tóc đen óng ả, trong tà áo dài tha thướt, đôi chân nhẹ nhàng bước trên những con đường ở thành phố Sài gòn, đội trên đầu chiếc nón lá, đi dưới trời nắng hanh, trông thật dịu dàng…

Chiếc nón lá không chỉ dành cho những cô con gái thành phố mà còn là vật dụng che nắng, che mưa cho những người nông dân chân lấm tay bùn. Và chiếc nón lá ấy là hình ảnh không thể thiếu được khi chân dung người phụ nữ Việt Nam được tạo dựng trong các tác phẩm về nghệ thuật.

Thế nhưng, với thời công nghiệp hóa, hình như chiếc nón lá đã bị lu mờ… Ở các thành phố lớn, thật khó để tìm được hình ảnh người thiếu nữ với chiếc nón lá nữa…Và có lẽ vì hòan cảnh kinh tế không còn phù hợp, nên nghề chằm nón cũng bị mai một dần.

Hồi năm 1995, du lịch họ ở Huế mở cửa, có những anh hướng dẫn bắt đầu đi tìm tòi, đi hỏi những người chằm nón… Em là người chằm nón từ xưa tới chừ, nên chi họ biểu vào nhà em coi làm nón, lần lần du khách biết qua miệng người này người nọ. Có một ông Tây vào nhà em, vẽ là đặt chữ Thúy vào, để về họ kỷ niệm. Ngày xưa lúc em chưa đặt chữ Thuý vào thì em phải ký tên vào nón.

Cụ thể là ở thành phố Huế, từ làng quê đến thị thành, đâu đâu cũng nghe nói có người giải nghệ. Những làng nổi tiếng một thời như Dạ Lê, Kim Long, Phủ Cam…bây giờ cũng chỉ còn rất ít người chằm nón. Tuy nhiên, ở làng Phủ Cam, có một người thiếu nữ tật nguyền, chỉ có một tay, suốt 28 năm qua, cứ tận tuỵ với nghề chằm nón.

Không những thế chị còn đưa chiếc nón lá Huế nổi tiếng đi khắp năm châu. Tên chị là Trần Thị Thúy, và chị chính là tác giả của chiếc “Nón Thúy” mà được nước ngoài rất ưa chuộng. Nguyên nhân vì sao chiếc nón lá chị làm lại được phương Tây biết đến với thương hiệu “ Nón Thúy”, từ ngôi nhà nhỏ, trong hẻm Trần Phú, làng Phủ Cam, chị Thúy cho biết:

“Hồi năm 1995, du lịch họ ở Huế mở cửa, có những anh hướng dẫn bắt đầu đi tìm tòi, đi hỏi những người chằm nón… Em là người chằm nón từ xưa tới chừ, nên chi họ biểu vào nhà em coi làm nón, lần lần du khách biết qua miệng người này người nọ. Có một ông Tây vào nhà em, vẽ là đặt chữ Thúy vào, để về họ kỷ niệm. Ngày xưa lúc em chưa đặt chữ Thuý vào thì em phải ký tên vào nón.”

Khi được hỏi trong chiếc nón lá ấy, ngoài chữ Thúy, còn có gì khác biệt, chị cho biết:
“Có cầu Tràng Tiền, chuà Thiên Mụ, hai anh chị, và hai câu thơ: Ai ra xứ Huế mộng mơ, mua về chiếc nón bài thơ làm quà. Cái khác là ở Huế cái chi cũng xanh xao hết, lá mới hết…

Ngoài kia là lá đỏ và dầy, chỉ có lá Huế là mỏng, mỏng khi nớ mới làm bài thơ, mới nhìn thấy rõ.. Trên rừng lá mọc như vậy đó. Tại sao trên rừng lá mỏng, đẹp, còn những rừng kia, lá không đẹp… em cũng không hiểu nữa…”

Thế là từ khi chiếc nón có chữ Thúy ấy được đưa ra nước ngoài, không bao lâu sau, một đoàn du khách đến từ Úc, ghé thăm và xin được xem các công đoạn chằm nón. Dĩ nhiên, họ yêu cầu chị phải lồng vào chữ Thúy trong chiếc nón lá…

Rồi cứ như thế, lần lượt các đoàn du khách khác từ Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Canada, Ấn Độ, Nhật Bản… đến thăm ngôi nhà nhỏ của chị và hân hoan ra về với chiếc nón Thúy trong tay. Theo lời chị kể, có những vị khách ngọai quốc ngồi chăm chú nhìn chị chằm nón hàng giờ không chán.

Thật vậy, vì làm sao họ có thể hình dung nổi chiếc nón lá thật đẹp, mỏng manh, có lồng chữ Thúy ấy, lại xuất phát từ một người chỉ có một tay mà thôi. Bị dị tật bẩm sinh, khi chào đời, tay phải của chị chỉ mọc đến cùi chỏ tay là hết…

Cha mẹ chị rất buồn và lo lắng cho số phận nghiệt ngã của chị. Là út trong một gia đình gồm 6 anh chị em, cha mất sớm, chị luôn mang mặc cảm về sự tật nguyền của mình. Thế nhưng, không đầu hàng số phận, chị quyết tâm vươn lên từ nghịch cảnh của mình. Khi được hỏi chị đã bắt đầu tập chằm nón từ khi nào, chị kể lại:

“Em học nơi mẹ, làm từ từ, hồi xưa thì lấy ba cái nón cũ họ đội rồi họ vất, mình tập chằm. Khi nào mình cũng phải tập ngoài nón cũ đã rồi mới tập vào nón mới được. Năm 15 tuổi thì em xây.. rồi làm chi cũng được hết.

Khi lá về, họ xâý trong than, một cái lò giống như bồ lúa rưá, họ đem ra họ bán cho mình, mình về phơi sương một đêm, sáng mai dịu rồi mình mở ra, mình ủi, ủi xong rồi mở lá ra, từng màu, từng màu rồi mình cắt, cắt xong rồi xâu. Xâu như vậy một nón là hai lớp lá, năm chục ngọn.

Cái khung lá em đã đặt trước và em mua vành về vấn. Vấn xong thì mới xây.. 16 vành như vậy… mình úp lá lên, mấy chục ngọn như vậy, rồi mình xoè ra, rồi lấy cái vành dẳn lại 4 góc. Xây rồi mình đặt bài thơ vô chính giữa, rồi thêm một lớp lá ngoài nữa.”

Khi hỏi chị làm thế nào xoay xở với nhiều công đoạn như thế khi chỉ có một tay duy nhất, chị cười và trả lời:
“Thì mình phải cố gắng chứ. Một tay bên này em cầm kim, tay bên này em đỡ lá lên, còn cái ngọn thì em xâu… Cái tay đó chỉ phụ… phụ.. rưá thôi. Cái tay em mất từ cái cùi đi xuống, nên em phải dùng cái chân nữa em mới làm được. Cắt lá thì em phải để nơi chân, cánh tay không có tay thì đè vô, rồi em mới cắt được…”
Tháng 6, năm 2004, với tư cách là khách mời đại diện của nghề nón truyền thống Việt Nam trong lễ hội Văn Hóa Du Lịch Việt Nam tại Yokohama, chị Thúy đã làm cho tất cả những khách tham quan gian hàng Việt Nam phải thán phục, chị kể lại:

Thì mình phải cố gắng chứ. Một tay bên này em cầm kim, tay bên này em đỡ lá lên, còn cái ngọn thì em xâu… Cái tay đó chỉ phụ… phụ.. rưá thôi. Cái tay em mất từ cái cùi đi xuống, nên em phải dùng cái chân nữa em mới làm được. Cắt lá thì em phải để nơi chân, cánh tay không có tay thì đè vô, rồi em mới cắt được…

“Ngày đó, ở Hà Nội gọi vào và nói là mời đi sang dự lễ hội ở Nhật. Khi đi, em có nhiều kỷ niệm không bao giờ quên… Có một kỷ niệm là cái ngày đầu tiên mà em mới dọn hàng ra, là tất cả du khách Nhật họ thích lắm..

Họ vô họ xem rất đông, còn mấy người Nhật mà họ biết tiếng Việt nam, họ tới họ nói giúp em vì em chỉ nói bập bẹ.. rồi họ nói em cứ ngồi làm đi, rồi họ bán dùm cho. Người Nhật rất là tốt, họ quan tâm đến em.. họ ngồi đó cả ngày xem em làm…

Đó là một kỷ niệm em nhớ mãi, không bao giờ quên. Em thấy rất sung sướng và tự hào…Chiếc nón lá rất là hay. Một tấm lá thôi mà đặt vào bài thơ, hình tượng rưá, đủ thứ ở trong chiếc nón…

Nhìn thấy hay hay, em treo nơi điện nên nhìn thấy đẹp lắm. Họ không tưởng tượng ra được nón làm ra răng nữa. Họ đứng họ xem làm thì họ rất ngạc nhiên, một tay mà làm được chiếc nón như đẹp như rứa…”

Thưa quí vị và các bạn, mặc dù nón Thúy được nổi tiếng là thế, nhưng chị rất khiêm tốn và luôn cho rằng mình được phước, ơn Trời ban cho. Đối với một người bình thường có đủ hai tay, họ có thể chằm được 4 chiếc một ngày.

Còn chị thì suốt ngày cố gắng lắm chỉ được hai chiếc mà thôi, và chiếc nón lá đến bây giờ cũng chỉ bán 15000 đồng Việt Nam mỗi chiếc, tương đương chưa đến một đô la Mỹ. Theo lời chị cho biết, khách nước ngoài hay khách nội địa thì cũng vậy, giá cả cũng chỉ bấy nhiêu vì họ quan tâm đến chiếc nón bài thơ của cô gái tật nguyền như chị thì quí lắm rồi.

Đó là một kỷ niệm em nhớ mãi, không bao giờ quên. Em thấy rất sung sướng và tự hào…Chiếc nón lá rất là hay. Một tấm lá thôi mà đặt vào bài thơ, hình tượng rưá, đủ thứ ở trong chiếc nón…

Thưa quí vị và các bạn, ngày hôm nay, trong ngôi nhà nhỏ ở Phủ Cam, chị Thúy vẫn ngày ngày chằm nón với tất cả sự yêu thích nghề nghiệp của mình. Chị cho biết

“Em ước mơ Nón Thúy được đi khắp mọi nơi trên thế giới…Em ước mơ làm nhiều tiền để nuôi mẹ và lo cho cháu… Chiếc nón lá ngày xưa em làm, em chán lắm. Hồi em đang học nghề em chán. Sau này, thời gian mở cửa, em bán được lẹt xẹt qua ngày thì em thấy vui…

Lần nào du khách đến thì em vui lắm, dù em không bán được cái nào em cũng vui… vì mình thấy họ quan tâm đến mình nhiều. Nhờ chiếc nón lá mà có du khách quan tâm đến em, thì em thấy vui sướng vậy chứ còn khi mô em cũng buồn…[khóc]… Lúc nào em cũng buồn hết, nhưng phải cố gắng làm… [khóc] Em cũng mong muốn là những du khách đến thăm em nhiều hơn, đặc biệt là những thính giả đang nghe chương trình ghé thăm em… ”

Thưa quí vị và các bạn, vưà rồi là câu chuyện của một phụ nữ tật nguyền ở thành phố Huế, rất giàu nghị lực để vượt qua số phận nghiệt ngã của mình. Chiếc nón lá chị làm ra, không chỉ dừng ở dòng sông Hương thơ mộng mà còn đến được nhiều nơi khác trên xứ người.

Mong sao ngày càng có thêm nhiều du khách ghé thăm chị và thực hiện như câu thơ chị đã gửi gấm vào trong chiếc nón Thúy “Ai ra xứ Huế mộng mơ, mua về chiếc nón bài thơ làm quà”…

Phương Anh xin dừng nơi đây. Hẹn gặp lại quí vị và các bạn trong chương trình kỳ tới.

©
2005 Radio Free Asia

Video liên quan

Chủ Đề