Đối tượng nào sau đây không bị cấm mở tài khoản tại ngân hàng?
- Trước khi thành lập doanh nghiệp các bạn phải biết được mình thuộc đối tượng nào? Có bị cấm thành lập doanh nghiệp hay không? Trong luật doanh nghiệp có quy định rõ những đối tượng không được phép thành lập và quản lý doanh nghiệp. Nam Việt Luật chia sẻ thông tin tới bạn những đối tượng bị cấm thành lập doanh nghiệp và bị cấm quản lý doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp, Luật cán bộ công chức, Luật Viên chức, Luật phòng chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm hiện hành. Show Theo Luật doanh nghiệp mới nhất 2020 Điều 17. Quyền thành lập, góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp và quản lý doanh nghiệp 1. Tổ chức, cá nhân có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. 2. Tổ chức, cá nhân sau đây không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam: a) Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình; b) Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức; c) Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp, công nhân công an trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp hoặc quản lý tại doanh nghiệp nhà nước; d) Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 88 của Luật này, trừ người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác; đ) Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người bị mất năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; tổ chức không có tư cách pháp nhân; e) Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đang bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; các trường hợp khác theo quy định của Luật Phá sản, Luật Phòng, chống tham nhũng. Trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh; g) Tổ chức là pháp nhân thương mại bị cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định theo quy định của Bộ luật Hình sự. 3. Tổ chức, cá nhân có quyền góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định của Luật này, trừ trường hợp sau đây: a) Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình; b) Các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.- Các đối tượng không được góp vốn vào công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh bao gồm những đối tượng sau đây quy định tại Khoản 2 Điều 37, Điểm a,b Khoản 6 Điều 37 Luật phòng chống tham nhũng: "Khoản 2 Điều 37. Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, vợ hoặc chồng của những người đó không được góp vốn vào doanh nghiệp hoạt động trong phạm vi ngành, nghề mà người đó trực tiếp thực hiện việc quản lý nhà nước." "Điểm a Khoản 6 Điều 37: Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; "Điểm b Khoản 6 Điều 37: Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn – kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân." 4. Thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình quy định tại điểm a khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều này là việc sử dụng thu nhập dưới mọi hình thức có được từ hoạt động kinh doanh, từ góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào một trong các mục đích sau đây: a) Chia dưới mọi hình thức cho một số hoặc tất cả những người quy định tại điểm b và điểm c khoản 2 Điều này; b) Bổ sung vào ngân sách hoạt động của cơ quan, đơn vị trái với quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước; c) Lập quỹ hoặc bổ sung vào quỹ phục vụ lợi ích riêng của cơ quan, đơn vị. >>>Xem thêm: Những đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp<<< >>> Xem thêm: Cán bộ, công chức, viên chức có được góp vốn mua cổ phần?<<< Nếu còn thắc mắc về bất cứ vấn đề gì đừng ngần ngại liên hệ chúng tôi, chúng tôi cam kết sẽ tư vấn tới bạn một cách chuyên nghiệp và tận tình nhất. >>>Tham khảo thêm:<<<< Luật công ty TNHH Một thành viên;Luật công ty TNHH Hai thành viên trở lên; Luật công ty cổ phần; Luật doanh nghiệp tư nhân; Luật công ty Hợp danh; Thủ tục thay đổi giấy phép kinh doanh Dịch vụ báo cáo Thuế trọn gói Ưu và nhược điểm của các loại hình doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp mới nhất Tham vấn bởi Luật sư Phạm Thanh Hữu
(1) Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình. (2) Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức. (3) Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp, công nhân công an trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp hoặc quản lý tại doanh nghiệp nhà nước; (4) Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 88 của Luật Doanh nghiệp 2020, trừ người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác; (5) Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người bị mất năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; tổ chức không có tư cách pháp nhân; (6) Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đang bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; các trường hợp khác theo quy định của Luật Phá sản, Luật Phòng, chống tham nhũng. Trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh; (7) Tổ chức là pháp nhân thương mại bị cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định theo quy định của Bộ luật Hình sự. Luật Doanh nghiệp 2020 có hiệu lực từ ngày 01/01/2021. Quý Nguyễn
HỎI ĐÁP PHÁP LUẬT LIÊN QUAN
Ngày hỏi:15/11/2018
Theo tôi thấy hiện nay việc sử dụng thẻ ATM, VISA,.. của các ngân hàng đã trở nên phổ biến. Việc sử dụng những tài khoản thanh toán này rất tiện lợi cho nhiều ngươi sử dụng, khách hàng không cần mang nhiều tiền mặt trong người mà vẫn có thể giao dịch các sản phẩm có giá trị rất lớn. Anh chị cho tôi hỏi theo quy định hiện nay thì đối tượng nào được mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng?
Hạn chế đối tượng mở tài khoản thanh toán là không hợp pháp(ĐCSVN) - Theo Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp), pháp luật hiện hành không có quy định cấm (hay không cho) các tổ chức không có tư cách pháp nhân mở (giao kết hợp đồng mở, sử dụng) tài khoản tại ngân hàng.
Sẽ bị đóng tài khoản sau ngày 1/3/2018 Ngày 26/12/2016, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 32/2016/TT-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 23/2014/TT-NHNN ngày 19/08/2014 của NHNN hướng dẫn việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Theo quy định tại khoản 6, Điều 1 Thông tư này, các tổ chức không có tư cách pháp nhân (hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, văn phòng luật sư…) không thuộc đối tượng được mở tài khoản thanh toán. Đáng chú ý, điểm c khoản 2, Điều 4 Thông tư 32 quy định: sau 12 tháng kể từ ngày Thông tư 32 có hiệu lực thi hành (ngày 1/3/2017) sẽ đóng tài khoản đối với những tài khoản thanh toán của khách hàng là tổ chức không có tư cách pháp nhân chưa hoàn thành chuyển đổi hình thức tài khoản. Đối tượng mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng sẽ bị hạnchế bởi Thông tư 32. (Ảnh minh họa. Nguồn: TH) Ngay sau khi Thông tư số 32/2016/TT-NHNN ra đời, nhiều ý kiến dư luận tỏ ra không đồng tình. Thông tin phản ánh từ Đoàn Luật sư TP Hà Nội cho biết, hàng loạt văn phòng luật sư (VPLS) đã không được ngân hàng cho phép tiếp tục sử dụng tài khoản của văn phòng luật sư mà yêu cầu mở tài khoản cá nhân của trưởng văn phòng gây khó khăn cho hoạt động của các văn phòng luật sư. Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp) đã tiến hành kiểm tra theo thẩm quyền. Sau rất nhiều cuộc họp trao đổi, thảo luận về tính hợp pháp của Thông tư này, mới đây Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) Đồng Ngọc Ba đã chính thức ban hành Kết luận kiểm tra số 05/KL-KTrVB, kiến nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tổ chức xem xét, xử lý những nội dung không hợp pháp của Thông tư 32. Quy định trái pháp luật, xâm phạm quyền lợi hợp pháp của các tổ chức không có tư cách pháp nhân Kết luận của Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật khẳng định, pháp luật hiện hành không có quy định cấm (hay không cho) các tổ chức không có tư cách pháp nhân mở (giao kết hợp đồng mở, sử dụng) tài khoản tại ngân hàng. Ngược lại, quyền ký hợp đồng của doanh nghiệp (trong đó có doanh nghiệp tư nhân là loại hình tổ chức kinh doanh không có tư cách pháp nhân) đã được Luật Doanh nghiệp ghi nhận. Quyền mở tài khoản của tổ chức không có tư cách pháp nhân còn được quy định rõ trong một số luật điều chỉnh các lĩnh vực cụ thể, như: văn phòng luật sư (do một luật sư thành lập, được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân) có con dấu, tài khoản theo quy định của pháp luật (Điều 33 Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012); văn phòng đại diện của thương nhân nước ngoài hoạt động thương mại tại Việt Nam có quyền mở tài khoản bằng ngoại tệ, bằng đồng Việt Nam có gốc ngoại tệ tại ngân hàng được phép hoạt động tại Việt Nam (khoản 4 Điều 17 Luật Thương mại năm 2005); văn phòng điều hành của nhà đầu tư nước ngoài trong hợp đồng hợp tác kinh doanh có con dấu, được mở tài khoản, tuyển dụng lao động, ký hợp đồng (khoản 2 Điều 49 Luật Đầu tư năm 2014, sửa đổi, bổ sung năm 2016)… Như vậy, việc khoản 6, Điều 1 Thông tư 32 quy định đối tượng được mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng chỉ gồm cá nhân và pháp nhân là không hợp pháp, hạn chế quyền của các tổ chức không có tư cách pháp nhân đã được pháp luật quy định trong việc mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng cũng như hạn chế quyền của ngân hàng trong việc cung ứng dịch vụ mở tài khoản thanh toán cho các tổ chức không có tư cách pháp nhân. Đồng thời, quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 4 là trái pháp luật, xâm phạm quyền lợi hợp pháp của các tổ chức không có tư cách pháp nhân đã mở và sử dụng tài khoản thanh toán tại ngân hàng theo đúng quy định của pháp luật trước ngày Thông tư 32 có hiệu lực. Kết luận của Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật còn chỉ ra, cả 2 quy định trên không hợp pháp về mặt thẩm quyền (vượt quá thẩm quyền của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước) do có nội dung hạn chế quyền dân sự của tổ chức không có tư cách pháp nhân. Theo Điều 2 Bộ luật Dân sự năm 2015, các quyền dân sự được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Mặt khác, việc quy định không cho các tổ chức không có tư cách pháp nhân được mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng còn thể hiện sự không thống nhất ngay trong các quy định của Thông tư 32 và Thông tư 23. Cụ thể, khoản 6, Điều 1, Thông tư 32 không cho tổ chức không có tư cách pháp nhân mở tài khoản thanh toán, tức là không thể trở thành bên sử dụng dịch vụ trong hợp đồng mở, sử dụng tài khoản thanh toán. Nhưng điểm c, khoản 1 Điều 2 và điểm a, khoản 4, Điều 14 Thông tư 23 lại quy định chi nhánh ngân hàng nước ngoài (một loại đơn vị không có tư cách pháp nhân theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi, bổ sung năm 2017) là bên cung ứng dịch vụ hợp đồng mở, sử dụng tài khoản thanh toán. Kiến nghị Ngân hàng Nhà nước tổ chức xem xét, xử lý ngay những nội dung không hợp pháp của Thông tư 32 Cũng theo Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, hiện Cục này chưa có số liệu đầy đủ để đánh giá toàn diện tác động kinh tế - xã hội của việc thực hiện các quy định tại khoản 6 Điều 1 và điểm c khoản 2 Điều 4 Thông tư 32. Tuy nhiên, từ kết quả nghiên cứu, trao đổi, thảo luận, có thể nhận định rằng việc không cho các tổ chức không có tư cách pháp nhân, trong đó có các chủ thể kinh doanh, tổ chức hành nghề (doanh nghiệp tư nhân, văn phòng luật sư…) được mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng sẽ gây khó khăn lớn, tiềm ẩn rủi ro pháp lý cho các tổ chức này trong tổ chức hoạt động, nhất là thực hiện pháp luật về thuế, giao kết hợp đồng… của hàng chục nghìn doanh nghiệp tư nhân, văn phòng luật sư. Việc hạn chế này cũng không phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, trong đó có phát triển kinh tế tư nhân theo Nghị quyết số 10-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 theo Nghị quyết số 35/NQ-CP của Chính phủ. Ngoài ra, việc buộc các tổ chức không có tư cách pháp nhân đã mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng đúng quy định của pháp luật trước ngày Thông tư 32 có hiệu lực phải chuyển đổi hình thức tài khoản đang sử dụng theo điểm c khoản 2 Điều 4 Thông tư 32 sẽ gây xáo trộn không đáng có trong xã hội, tốn kém về thời gian, chi phí. Từ những cơ sở trên, Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật kiến nghị Ngân hàng Nhà nước tổ chức xem xét, xử lý ngay những nội dung không hợp pháp của Thông tư 32; rà soát quá trình thực hiện Thông tư 32 để có biện pháp khắc phục hậu quả do việc thực hiện các quy định không hợp pháp nêu trên gây ra (nếu có); thông báo kết quả xử lý văn bản cho Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luậttrong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được Kết luận này./. Thu Hằng
|