Hội thề Lũng Nhai có bao nhiêu người tham gia

Lê Lợi và 18 vị hào kiệt đã thủy chung cùng nhau sống chết và lo nghiệp lớn thành công. Sự kiện “Lê Lai liều mình cứu chúa” đã trở thành một biểu tượng của tình bạn, nghĩa vua tôi trong lịch sử Việt Nam.

Từ Hội thề Lũng NhaiNăm Quý Tỵ [1413], cuộc kháng chiến của nhà Hậu Trần thất bại; Đại Việt chìm trong đau thương mất mát bởi chính sách cai trị tàn bạo và thâm độc của quân Minh. Tưởng chừng như sẽ bị khuất phục trước âm mưu đồng hóa của nhà Minh nhưng Đại Việt đã quật cường đứng dậy dưới ngọn cờ khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi khởi xướng và lãnh đạo từ năm Mậu Tuất [1418].

Để bắt đầu đại nghiệp chống giặc Minh, từ năm Bính Thân [1416], Lê Lợi và 18 vị hào kiệt đã hội tụ ở đồi Bái Tranh, lưng chừng đỉnh Pú Mé [nay là thôn Xuân Thành, xã Ngọc Phụng, huyện Thường Xuân] dâng hương, lễ vật, sinh huyết, tế cáo trời đất, kết nghĩa huynh đệ thề cùng nhau chống lại giặc Minh. Sự kiện này đã được nhiều bộ sử ghi lại. Cụ thể và nhiều nhất là Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn [1726 - 1784]: “Mùa đông, năm Bính Thân [1416] vua Thái Tổ cùng 18 vị tướng thân cận của nhà vua, liên danh hội thề nguyện sống chết có nhau”.

 Hình tượng vua Lê Lợi trên bìa sách.

Về danh tính 18 vị hào kiệt, các tài liệu có sự khác nhau, nhưng không nhiều. Theo học giả Hoàng Xuân Hãn [1970] thì gồm các vị: Lê Lai, Lê Thận, Lê Văn Linh, Lê Văn An, Trịnh Khả, Trương Lôi, Lê Liễu, Bùi Quốc Hưng, Lê Ninh, Lê Kiểm, Vũ Uy, Nguyễn Trãi, Lưu Nhân Chú, Trịnh Vô, Phạm Lôi, Lê Lý, Đinh Lan, Trương Chiến. Lê Lợi và 18 vị anh hùng Lũng Nhai đã cùng nhau thề rằng:“… Nếu có bè đảng, vì muốn xâm-tiếm, tỏ vẻ xem chừng sắp vượt cửa vào để làm hại, thì:"Ví bằng chúng tôi đây, Lê Lợi với 18 người từ Lê Lai đến Trương Chiến, có đều hiệp lực đồng tâm chống giữ địa phương để làng xóm được yên; nếu chúng tôi sống chết cùng nhau không quên lời thề ước, thì chúng tôi cúi xin Trời, Đất và các vị Thần linh chứng giám cho, ban xuống trăm điều lành, cho từ thân đến nhà, dòng dõi, con cháu đều được yên lành để đời đời hưởng lộc Trời."Ví bằng Lê Lợi với 18 người từ Lê Lai đến Trương Chiến lại ra ý đổi đường, tìm sướng hiện thời, mập mờ sao lãng, không chịu đồng tâm, bỏ quên lời thề ước, thì chúng tôi cúi xin Trời, Đất và các vị Thần linh phát xuống trăm tai, cho từ thân đến nhà, dòng dõi, con cháu đều chịu giết sạch, đúng với luật Trời”.Hội thề Lũng Nhai là sự khởi đầu của khởi nghĩa Lam Sơn. Lời thề Lũng Nhai đã hội liên những người anh hùng thành một khối thống nhất để cùng dựng nghiệp lớn. Từ đây, anh hùng hào kiệt khắp nơi nghe tiếng càng theo về tụ nghĩa để bắt đầu quá trình chuẩn bị lực lượng cho khởi nghĩa Lam Sơn sẽ bùng nổ vào 2 năm sau đó, năm 1418.Lê Lợi - thủ lĩnh hội thề Lũng Nhai và Khởi nghĩa Lam Sơn, sau là Lê Thái Tổ sinh ngày 6 tháng 8 năm Ất Sửu [1385], người làng Lam Giang hay Lam Sơn, huyện Lương Giang, phủ Thanh Hóa [nay là huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa]. Tằng tổ của Lê Lợi là Lê Hối, ông nội là Lê Đinh, cha là Lê Tòng, mẹ Trịnh Ngọc Thương.Đại Việt sử ký toàn thư mô tả ông là người "thiên tư tuấn tú khác thường, khi lớn lên, thần sắc tinh anh kỳ vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai có một nốt ruồi, tiếng nói như chuông, dáng đi tựa rồng, nhịp bước như hổ". Đại Việt thông sử cũng chép về ông như sau: “… Ngày Hoàng đế sinh, thì trong nhà có hào quang đỏ chiếu sáng rực, và mùi thơm ngào ngạt khắp làng. Khi lớn tuổi, ngài thông minh dũng lược, độ lượng hơn người, vẻ người tươi đẹp hùng vĩ, mắt sáng mồm rộng, sống mũi cao, xương mi mắt gồ lên, bả vai bên tả có 7 nốt ruồi, bước đi như rồng như hổ, tiếng nói vang như tiếng chuông. Các bậc thức giả biết ngay là một người phi thường”.Lê Lợi là chính khách, nhà quân sự tài ba kiệt xuất. Trước hết, ông có năng lực hấp dẫn thu hút, tập hợp được nhiều nhân tài để cùng ông chung vai gánh vác sự nghiệp lớn. Xung quanh ông rất nhiều người tài giỏi và đặc biệt trung thành, dám hy sinh vì ông.Đến “Lê Lai liều mình cứu chúa”Câu chuyện quên thân mình cứu Lê Lợi thoát khỏi vòng vây quân Minh của Lê Lai được đời sau truyền tụng, gọi là Lê Lai cứu chúa. Các sách như Đại Việt thông sử, Lam Sơn thực lục tục biên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục… đều chép chuyện Lê Lai hy sinh, trong đó Đại Việt thông sử chép chi tiết nhất. Căn cứ vào thư tịch cổ, các nhà nghiên cứu khẳng định việc Lê Lai hy sinh năm 1418, khi khởi nghĩa mới bùng nổ và nghĩa quân đang bị quân Minh bao vây.Lê Lai quê ở thôn Dựng Tú, xã Đức Giang, huyện Lương Giang [nay là Thôn Thành Sơn [làng Tép], xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa], là con của Lê Kiều, nối đời làm chức phụ đạo trong vùng. Lê Lai tính cương trực, dung mạo khác thường, chí khí cao cả lẫm liệt.Lê Lai là một trong 18 người đã cùng Lê Lợi tham gia Hội thề Lũng Nhai, thề sống chết có nhau, nguyện chung sức đánh đuổi quân Minh đang cướp phá. Ông được Lê Lợi ban tước Quan nội hầu, tổng quản của phủ Đô tổng quản.Sách Lam Sơn thực lục [do “vua sai làm …, vua tự làm bài tựa, ký là Lam Sơn động chủ”; không rõ tác giả là ai, tuy nhiên, có ý cho rằng tác giả Nguyễn Trãi] chép [đại ý] như sau:Bấy giờ nghĩa quân Lam Sơn lực lượng còn yếu, thiếu lương, thường bị quân Minh đánh bại. Nhà vua bèn vời các tướng mà bảo rằng:- Ai có thể thay mặc áo vàng của Trẫm, lĩnh năm trăm quân, hai thớt voi, đánh vào thành Tây đô. Thấy giặc ra đối địch, thì tự xưng tên: "Ta là chúa Lam Sơn đây!". Để cho giặc bắt? Cho ta được náu mình, nghỉ binh, thu họp cả quân sĩ, để mưu tính việc về sau!Các tướng đều không dám nhận lời. Chỉ có Lê Lai thưa rằng:- Tôi bằng lòng xin thay mặc áo nhà vua. Ngày sau bệ hạ gây nên đế nghiệp, có được thiên hạ, thương đến công tôi, cho con cháu muôn đời được chịu ơn nước. Đó là điều tôi mong mỏi!Nhà vua lạy Trời mà khấn rằng:- Lê Lai có công thay đổi áo. Sau này trẫm cùng con cháu, và các tướng tá, hay con cháu các công thần, nếu không thương đến công ấy, thì xin đền đài hóa ra rừng núi; ấn vàng hóa ra đồng sắt; gươm thần hóa ra đao binh!Nhà vua khấn xong, Lê Lai liền đem quân đến cửa trại giặc khiêu chiến. Giặc cậy quân mạnh xông đánh. Lê Lai cưỡi ngựa, phi vào giữa trận giặc, nói rằng:- Ta đây là chúa Lam Sơn!Giặc bèn xúm lại vây, bắt lấy đem về trong thành, xử bằng hình phạt cực tàn khốc.Lê Lợi [Lê Thái Tổ] luôn nhớ ơn Lê Lai đã hy sinh thân mình cứu ông thoát nạn. Ngay sau khi lên ngôi, [Mậu Thân - 1428], ông đã phong Lê Lai là Công thần hạng nhất, tặng là Suy trung Đồng đức Hiệp mưu Bảo chính Lũng Nhai công thần, hàm Thiếu úy, thụy là Toàn Nghĩa; Tháng 12 năm năm sau [Kỷ Dậu - 1429], sai Nguyễn Trãi viết hai bản lời thề ước trước và lời thề nhớ công của Lê Lai, để trong hòm vàng. Đến lúc sắp chết, Lê Lợi vẫn dặn con cháu rằng, ông có được ngày hôm nay là nhờ Lê Lai, do đó phải làm giỗ Lê Lai trước, để vị tướng này được hưởng lễ trước vua.Ngày 22 tháng 8 năm Quý Sửu [1433], Lê Lợi mất, các vua nối ngôi theo lời dặn của ông đã cúng giỗ Lê Lai vào ngày 21/8. Từ đó dân gian có câu “Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”.Năm Quý Hợi [1443], Lê Nhân Tông ban tặng tước Bình Chương quốc quân trọng sự, ban cho túi kim ngư, ấn vàng, tước Huyện Thượng Hầu. Năm Canh Dần [1470], Lê Thánh Tông tặng tước Diên Phúc Hầu; năm Giáp Thìn [1484] truy tặng tước Thái úy Phúc Quốc Công, sau gia phong Trung Túc Vương.

Lê Lợi và Lê Lai, và các hào kiệt Lũng Nhai đã thực hiện đúng lời thề “… tuy sinh khác họ, quê quán xa cách nhưng kết nghĩa cùng nhau, xem nhau như cành liền chung một tổ. Tuy phần vinh hiển có khác nhau, nhưng nguyện đem tình đối xử với nhau như người không khác họ”. - Bài học trung nghĩa này muôn đời không cũ!

Câu 1. Đầu năm 1416, Lê Lợi cùng 18 người đã tổ chức hội thề ở

A. Lam sơn – Thanh Hóa. B. Lũng Nhai – Thanh Hóa.

C. Nga sơn – Thanh Hóa. D. Ba Đình – Thanh Hóa.

Mùa xuân năm Bính Thân 1416, người anh hùng Lê Lợi cùng với 18 vị hào kiệt làm lễ tế cáo trời đất, mưu tính việc dựng cờ khởi nghĩa, lật đổ ách thống trị của nhà Minh. Sử chép sự kiện ấy là Hội thề Lũng Nhai, khởi đầu cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vĩ đại...

Năm 1407, cuộc kháng chiến chống giặc Minh của nhà Hồ thất bại, nước ta một lần nữa rơi vào ách thống trị của phương Bắc. Từ đây, đã có một số cuộc khởi nghĩa nổi lên, nhưng tất cả đều không thành công. Mãi đến năm 1416, từ vùng núi Lam Sơn [Thanh Hóa], người anh hùng Lê Lợi đã quy tụ nhân tâm, mưu sự việc phất cờ khởi nghĩa [khởi nghĩa Lam Sơn]. Để rồi sau đó, nghĩa quân đã trường kỳ kháng chiến suốt 10 năm mới giành lại được giang sơn bị giặc Minh đô hộ.

Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thì Hội thề Lũng Nhai được đánh giá là sự kiện khởi đầu, nơi bộ chỉ huy kháng chiến tuyên thệ với trời đất, thần linh và người dân đất Việt, quyết tâm giành lại non sông.

Lời thề Lũng Nhai chính là sự đồng lòng của Lê Lợi và các hào kiệt cùng chung ý chí đánh đuổi giặc Minh, giành lại giang sơn. Theo Giáo sư - tiến sĩ Nguyễn Quang Ngọc [Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển], Hội thề Lũng Nhai là thành quả của giai đoạn đầu tiên chuẩn bị, xây dựng lực lượng cho cuộc khởi nghĩa toàn dân. “Hội thề Lũng Nhai chính thức xác lập đường hướng của cuộc khởi nghĩa, hình thành bộ tham mưu đầu tiên, thúc đẩy nhanh hơn công cuộc chuẩn bị lực lượng, xây dựng căn cứ địa và phát động cuộc khởi nghĩa toàn dân tại núi rừng Lam Sơn. Hội thề là nhân tố cơ bản quyết định toàn bộ quá trình phát triển và thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn”, Giáo sư Ngọc nhận định.

Văn bia trong ngôi đền ở làng Phụng Dưỡng

Tầm vóc và ý nghĩa của Hội thề Lũng Nhai thì nhiều nhà nghiên cứu đã làm sáng rõ, nhưng vị trí của Lũng Nhai ở đâu vẫn là một câu hỏi khó, khiến nhiều nhà sử học trăn trở. Qua quá trình khảo sát, đánh giá thực địa và dựa trên các thư tịch cổ, các truyền thuyết dân gian, các học giả đã thống nhất khi nhận định nơi diễn ra Hội thề Lũng Nhai phải là nơi bảo đảm các yếu tố bí mật, có khả năng bao quát, dễ dàng rút lui, bảo đảm an toàn và đặc biệt phải không xa vùng Khả Lam [quê hương của Lê Lợi].

Có giả thiết nhận định, Hội thề Lũng Nhai diễn ra ở xã Phúc Thịnh, hoặc xã Kiên Thọ của H.Ngọc Lặc [Thanh Hóa]. Nhưng có rất nhiều nhà nghiên cứu lại cho rằng, Hội thề Lũng Nhai diễn ra ở núi Pù Mé, xã Ngọc Phụng, H.Thường Xuân [Ngọc Phụng trước thuộc H.Ngọc Lặc, năm 1963 được tách ra nhập vào H.Thường Xuân].

Ngôi đền nhỏ do người dân làng Phụng Dưỡng [gần làng Mé] lập

Đứng trên mỏm đồi Bái Tranh ngay lưng chừng núi Pù Mé [còn gọi là Pù Sào], ông Nguyễn Văn Minh, Phó chủ tịch UBND xã Ngọc Phụng, cho biết nhiều nhà khoa học đã về đây để nghiên cứu, tìm hiểu khu vực này và cho rằng, chính ở đỉnh đồi Bái Tranh này, Lê Lợi đã cùng với 18 vị hào kiệt cắt máu ăn thề cùng nhau sinh tử, đánh đuổi giặc Minh, giành lại nền độc lập cho đất nước. Ông Minh khoát tay chỉ dãy núi phía đông và cho biết, từ đây đến vùng Khả Lam chỉ quãng 7 km, không xa lắm với quê hương của người anh hùng Lê Lợi. Theo nghiên cứu của Phó giáo sư - tiến sĩ Lê Đình Sỹ [nguyên Viện phó Viện Lịch sử quân sự Việt Nam], Pù Mé là nơi có vị trí đắc địa về mặt quân sự. Đây là một vị trí kín đáo, nằm bên hữu ngạn sông Âm và tả ngạn sông Chu. Từ đây có thể quan sát được cả một vùng rộng lớn phía trước, nên đây có thể là một căn cứ địa, vừa để che mắt kẻ thù, vừa có thể tiến thoái một cách dễ dàng. Với ý nghĩa quân sự như vậy, rất có thể nơi đây đã được Lê Lợi chọn làm địa điểm tổ chức Hội thề Lũng Nhai.

Theo ông Cầm Bá Huyến, Trưởng phòng Văn hóa - Thông tin H.Thường Xuân, tại làng Phụng Dưỡng [nay là thôn Xuân Thắng] gần núi Pù Mé có một ngôi đền nhỏ được dựng vào năm 1937, bên trong có văn bia do Lý trưởng Lê Văn Nguyệt soạn năm 1937 dưới triều vua Bảo Đại, ghi lại việc tổ tiên của ông Nguyệt lập lại làng bản sau khi bị nhà Tây Sơn tàn phá. Văn bia ghi: “... Từ triều Lê xưa kia [đây là] chốn đất linh thiêng có một linh từ phụng thờ quốc thần, dưỡng quốc dân. Trải qua thời gian, được vinh dự đội ơn phong tặng, thực là anh linh muôn thuở. Nhưng từ thời Ngụy Tây [Tây Sơn] tàn phá, thần dân tan tác phiêu lạc. May thay, ông tổ đời thứ 5 của tổ tiên ta là Lê quý công tự Phúc Khoan, xét nhìn địa hình, cảnh thắng mà ngầm lập lại bản ấp...”. Còn theo ông Lê Đức Tiến [người trông coi đồi Bái Tranh], thì ngôi làng Mé ngay dưới chân núi Pù Mé trước đây từng gọi là làng Lũng Mi. Ông Tiến kể, trước kia ở làng Mé cũng có một ngôi miếu cổ, nhưng nay đã bị phá. Nhiều người cao tuổi trong làng kể lại, khi ngôi miếu bị phá, người dân trong vùng đã nhặt được một số cổ vật, trong đó có 1 ly đồng. Họ tin rằng, những cổ vật này gắn với Hội thề Lũng Nhai. Nhưng đáng tiếc những cổ vật ấy hiện đã lưu lạc khỏi địa phương.

Từ mỏm đồi Bái Tranh có thể quan sát được cả một vùng rộng lớn dọc sông Âm và sông Chu, xa xa phía bên kia dãy núi là lộ Khả Lam [quê hương của Lê Lợi]

Nhiều học giả khi nghiên cứu về làng Mé, núi Pù Mé, đồi Bái Tranh và ngôi đền ở làng Phụng Dưỡng… đều cho rằng, việc nhà Tây Sơn cất công lên tận vùng rừng núi xa xôi này để tàn phá đền miếu, làng mạc hẳn phải có một lý do đặc biệt nào đó. Phải chăng đây là nơi linh địa của nhà Lê mà nhà Tây Sơn muốn triệt xóa để thực hiện âm mưu chính trị của mình [?]. Và vì vậy, cái tên Lũng Nhai phải đổi thành Lũng Mi như là cách mà người xưa đề phòng làng mạc lại tiếp tục bị tàn phá khi đất nước nổi can qua [?].

Ông Huyến cho biết thêm, trên địa bàn xã Ngọc Phụng hiện còn tồn tại một khu mộ cổ, được đánh dấu bằng những phiến đá to nhỏ chẻ dọc và cắm xuống đất. Khu mộ chôn theo phong tục của người Mường rộng tới 11.300 m2, nằm cách chân dãy Pù Mé khoảng 800 m. Truyền thuyết còn truyền lại cho rằng đây là mộ chôn cất những nghĩa quân Lam Sơn hy sinh trong các trận đánh quanh vùng này. Các nhà nghiên cứu cho rằng, sở dĩ ngôi làng kế bên làng Mé mang tên Phụng Dưỡng là bởi rất có thể đấy là nơi cứu chữa, chăm sóc những nghĩa quân Lam Sơn bị thương, và khu mộ cổ chính là nơi chôn cất những nghĩa quân đã chết. “Ngày ấy, chắc chắn vùng này dân cư rất thưa thớt, rừng núi hãy còn quá hoang vu thì việc có một nghĩa địa rộng lớn như thế này hẳn là quá bất thường”, ông Huyến nói.

Sau nhiều lần hội thảo, đặc biệt là cuộc hội thảo do Viện Sử học, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam và UBND tỉnh Thanh Hóa tổ chức gần đây đã cơ bản thống nhất, xác định đồi Bái Tranh ở lưng chừng núi Pù Mé là nơi diễn ra Hội thề Lũng Nhai [hiện nơi đây cũng đã được UBND tỉnh Thanh Hóa ra quyết định công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh]. Tại hội thảo này cũng vẫn còn ý kiến khác chưa đồng thuận, vì vậy công cuộc nghiên cứu vẫn chưa kết thúc.

Lời thề Lũng Nhai

Theo các tài liệu lịch sử còn chép lại, vào tháng 2 âm lịch năm Bính Thân [1416], tại Lũng Nhai, Phụ đạo lộ Khả Lam, nước An Nam là Lê Lợi cùng Lê Lai, Lê Thận, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Trịnh Khả, Trương Lôi, Lê Liễu, Bùi Quốc Hưng, Lê Nanh, Lê Hiểm, Vũ Uy, Nguyễn Trãi, Lưu Nhân Chú, Trịnh Vô, Phạm Lôi, Lê Lý, Đinh Lan và Trương Chiến đã cắt máu, tế cáo trời đất lập lời thề sinh tử.

Họ cùng đồng tâm thề rằng: “... Nay ở trong nước, Phụ đạo chính thần là Lê Lợi và bọn Lê Lai đến Trương Chiến 18 người. Tuy họ hàng quê quán có khác nhau, nhưng kết nghĩa, thân nhau như tổ liền cành, phận vinh hiển có nhau, nguyện tình cùng chung một họ không khác. Hoặc có giặc Ngô xâm chiếm, bắt nhà Trần, cướp nhà Hồ, qua cửa ải làm hại. Như vậy, Lê Lợi và bọn Lê Lai đến Trương Chiến đều chung sức đồng lòng, chống giữ địa phương để xóm làng được an cư, sống chết cùng nhau, không quên lời thề son sắt...”.

Tin liên quan

Ðó là ý kiến kết luận của GS Phan Huy Lê - chủ tịch Hội Khoa học lịch sử VN - tại hội thảo khoa học “Hội thề Lũng Nhai trong khởi nghĩa Lam Sơn” ngày 20-7 tại huyện Thường Xuân. Hội thảo này do Hội Khoa học lịch sử VN, Viện Sử học, Sở Văn hóa - thể thao và du lịch Thanh Hóa, UBND huyện Thường Xuân tổ chức.

Nhiều năm qua, trong giới sử học Thanh Hóa có hai quan điểm: một cho rằng hội thề Lũng Nhai diễn ra tại làng Lũng Mi, một lại cho rằng diễn ra tại xã Phúc Thịnh hoặc xã Kiên Thọ, huyện miền núi Ngọc Lặc, Thanh Hóa. Tôn trọng ý kiến đa chiều của các nhà nghiên cứu, tháng 11-2012 và tháng 5-2013, UBND huyện Thường Xuân, Sở Văn hóa - thể thao và du lịch Thanh Hóa đã tổ chức cho đoàn cán bộ nghiên cứu khảo sát, điền dã tại núi Pù Mé thuộc làng Lũng Mi, xã Ngọc Phụng và hai xã Phúc Thịnh, Kiên Thọ. Tại hội thảo trên, phần lớn trong 31 tham luận của các nhà nghiên cứu lịch sử hàng đầu VN cho rằng hội thề Lũng Nhai diễn ra tại làng Lũng Mi, xã Ngọc Phụng.

Tại hội thề Lũng Nhai vào tháng 3-1416, Lê Lợi cùng 18 vị anh hùng hào kiệt tổ chức lễ tế cáo trời đất, kết nghĩa anh em, nguyện hợp sức phát động cuộc khởi nghĩa chống ách đô hộ của nhà Minh.

Phát biểu tại hội thảo, GS Phan Huy Lê và các nhà khoa học đề nghị UBND huyện Thường Xuân sớm xây dựng văn bia khắc tên 19 vị anh hùng hào kiệt tham gia hội thề Lũng Nhai, đặt tại nơi diễn ra hội thề này; có phương án lập hồ sơ, chuẩn bị các điều kiện cần thiết theo quy định để đề nghị cấp có thẩm quyền công nhận địa điểm diễn ra hội thề Lũng Nhai là di tích lịch sử.

HÀ ÐỒNG

Video liên quan

Video liên quan

Chủ Đề