Khi thị trường ở trạng thái mất cân bằng thị

Trên thực tế thị trường các nông sản chủ yếu chỉ đạt được trạng thái cân bằng trong những giai đoạn nhất định. Trong thời gian dài hơn, thị trường nông sản có thể xảy ra sự mất cân bằng [do việc cung ứng nông sản tăng sau thu hoạch; nhu cầu về các sản phẩm tươi sống lúc trái vụ …]. Biểu hiện đặc trưng của trạng thái mất cân bằng trên thị trường một loại nông sản nào đó là giá cả ở mức quá cao hay qúa thấp so với giá cân bằng thị trường. Khi giá thị trường quá cao, cung vượt cầu làm cho nhiều người bán không tìm được người tiêu dùng. Ngược lại, khi giá quá thấp thì cầu vượt cung, làm cho nhiều người tiêu dùng chưa được thoả mãn. Vì vậy, giá cả càng vượt xa cao hơn hay thấp hơn quá mức so với giá cân bằng thị trường thì lượng trao đổi giữa cung và cầu nông sản càng ít đi. Tuỳ từng trường hợp, sự biến động tăng [giảm] giá nông sản trên thị trường đều có ảnh hưởng trực tiếp đến người sản xuất [người tiêu dùng] nông sản.

Chính phủ điều hoà giá cả thị trường nông sản là sự thể hiện tập trung nhất đường lối phát triển nền nông nghiệp theo cơ chế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước mà Đảng đã vạch ra. Trong quá trình xây dựng và phát triển nông nghiệp, Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã áp dụng các biện pháp chủ yếu sau đây để điều hoà giá cả thị trường nông sản:

Kiểm soát giá và định mức cung cấp thực phẩm cơ bản cũng như các nhu yếu phẩm khác được coi là biện pháp chủ yếu điều tiết thị trường trong một thời gian dài trước đây, xuất phát từ yêu cầu của việc xây dựng nền nông nghiệp kế hoạch hoá tập trung và hơn nữa là yêu cầu bắt buộc của hoàn cảnh chiến tranh. Trong những năm đầu thời kỳ đổi mới, Chính phủ ta vẫn dùng biện pháp này để điều tiết thị trường nông sản, đảm bảo nhu yếu phẩm cho mọi tầng lớp dân cư trong điều kiện khủng hoảng kinh tế và lạm phát.

2. Định giá trần hoặc giá sàn.

Định giá trần thường được sử dụng khi người ta cho rằng giá thị trường là cao đến mức một khi trở nên phổ biến thì sẽ gây bất lợi lớn cho một số tầng lớp dân cư tiêu dùng nông sản. Định giá trần là việc Chính phủ ra quyết định rằng một loại nông sản nào đó chỉ được bán với gía cao tối đa là Po, thấp hơn giá thị trường.

Mặc dù giá chính thức là Po, nhưng giá thực của thị trường lại cao hơn, đó là giá mà người tiêu dùng sẵn sàng trả để mua nông sản. Vì người bán không thể công khai nâng giá nên họ có thể tìm cách giảm chất lượng sản phẩm, hoặc có thể họ tìm gặp nhiều người tiêu dùng trên thị trường “chợ đen”. Sự hình thành thị trường “chợ đen” là xu hướng chủ yếu chống lại biện pháp điều hoà thị trường nông sản của Chính phủ bằng cách định giá trần.

Ngược lại, Chính phủ cũng có thể định giá sàn đối với nông sản khi người ta cho rằng giá thị trường là quá thấp, ảnh hưởng đến lợi ích người sản xuất . Trong trường hợp này, giá thực của thị trường thấp hơn giá sàn qui định của Chính phủ, nên có một lượng cung dư thừa trên thị trường, Chính phủ thường áp dụng chính sách mua trợ giá đối với lượng hàng dư thừa trong một thời gian nhất định lúc thu hoạch [có sự trợ giúp từ quĩ bình ổn quốc gia]. Việc làm này gắn liền với việc lập các kho dự trữ tạm thời.

3.Lập quỹ dự trữ quốc gia.

Lập quỹ dự trữ quốc gia đối với một số nông sản chủ yếu, đặc biệt gạo, để đảm bảo an toàn lương thực trên phạm vi toàn quốc. Chính phủ là người trực tiếp sử dụng quỹ này để điều hoà thị trường lương thực trong trường hợp thiên tai hoặc điều hoà giá cả thị trường trong trường hợp phái áp dụng biện pháp định giá trần và giá sàn.

ở những nước có nền kinh tế phát triển, đặc biệt là các nước thuộc khối Cộng đồng chung Châu Âu [EU], Chính phủ còn sử dụng thêm các biện pháp kinh tế đặc thù để điều hoà tình trạng cung vượt qúa cầu đối với một số loại nông sản như: Nâng khối lượng tiêu dùng trong nước bằng cách trợ cấp cho việc dùng nông sản làm thức ăn chăn nuôi gia sức; Hạn chế khối lượng cung bằng trợ cấp cho việc bỏ hoá ruộng đất; Trợ cấp xuất khẩu bằng cách bù lỗ xuất khẩu trích từ ngân sách quốc gia; Viện trợ lương thực – thực phẩm cho các nước đang phát triển. Đối với nước ta, nếu biết phối hợp lợi dụng có hiệu quả chính sách viện trợ lương thực – thực phẩm của Tổ chức nông lương của Liên hiệp quốc [FAO], chắc chắn sẽ thúc đẩy một số mặt của quá trình phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, cũng như tạo điều kiện giải quyết tốt hơn việc điều hoà cung cầu thị trường nông sản trong những trường hợp đặc biệt.


Các từ khóa trọng tâm hoặc các thuật ngữ liên quan đến bài viết trên:
  • cung và cau nong san
  • ,

    Trong bài viết này chúng ta sẽ xem xét cơ chế thị trường thông qua việc khảo sát sự vận hành của một thị trường hàng hóa riêng biệt. Đây là một khuôn mẫu phân tích tổng quát có thể áp dụng cho các thị trường khác nhau, dù đó là thị trường lúa, gạo hay thị trường xe máy; thị trường đầu ra như thị trường quần, áo hay thị trường đầu vào như thị trường máy dệt; thị trường hàng hóa hữu hình như thị trường máy tính hay thị trường dịch vụ như thị trường cắt tóc. Dĩ nhiên, khi đề cập tới một thị trường chung, có ý nghĩa tổng quát, chúng ta sẽ xuất phát từ một loại thị trường đơn giản nhất: một thị trường có tính chất cạnh tranh, gồm nhiều người mua, người bán, không ai có khả năng chi phối giá cả hàng hóa. Chúng ta sẽ xem xét các yếu tố cơ bản của thị trường như cầu, cung thể hiện như thế nào, tương tác với nhau ra sao để xác định mức giá cân bằng, và những yếu tố gì sẽ làm cho mức giá này thay đổi. Hiểu được những điều này là nền tảng quan trọng để nắm bắt những vấn đề phức tạp khác của nền kinh tế thị trường.người mua và người bán tiến hành sự trao đổi hàng hóa với nhau.

    I. Thị trường – Khái niệm và phân loại

    1.Khái niệm

    Thị trường là tập hợp các điều kiện và thỏa thuận mà thông qua đó người mua và người bán tiến hành sự trao đổi hàng hóa với nhau.

    Chức năng của thị trường là trao đổi hàng hóa. Sự trao đổi này chỉ diễn ra được trong những điều kiện cụ thể, thông qua những ràng buộc, hay dàn xếp cụ thể mà những người tham gia phải tuân thủ. Có những điều kiện chung ràng buộc mọi thị trường. Song cũng có những điều kiện riêng chỉ liên quan đến những nhóm thị trường cụ thể.

    Vì thế, ở một số thị trường, người ta vẫn trực tiếp gặp nhau để mua, bán hàng hóa. Song ở một số thị trường khác, sự mua bán hàng hóa chỉ diễn ra thông qua những người môi giới, hay trung gian [như ở thị trường chứng khoán, forex]. Tại một số thị trường, người mua và người bán mặc cả với nhau về giá cả của từng loại hàng hóa, song ở một số thị trường khác, điều này lại không diễn ra. Như một tiến trình, dù thực hiện dưới phương thức nào, trên thị trường, người mua và người bán cũng luôn luôn tác động lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hóa được trao đổi. Qúa trình đó cũng là nội dung thực chất của thị trường.

    2. Phân loại thị trường

    Phân loại thị trường theo nội dung hàng hóa

    • Thị trường hàng hóa tiêu dùng [thị trường đầu ra] : Các thị trường đầu ra lại có thể phân nhỏ thành vô số thị trường cụ thể như thị trường gạo, thị trường quần áo, thị trường ô tô, thị trường giáo dục.
    • Thị trường các yếu tố sản xuất [thị trường đầu vào]. Các thị trường đầu vào có thể phân thành thị trường vốn hiện vật [máy móc, thiết bị, nhà xưởng v.v…], thị trường bất động sản, thị trường lao động v.v…

    Phân loại thị trường theo không gian kinh tế mà theo đó các quan hệ trao đổi hàng hóa diễn ra:

    • Thị trường thế giới,
    • Thị trường khu vực,
    • Thị trường quốc gia,
    • Thị trường 50 vùng hay địa phương

    Theo cấu trúc thị trường:

    • Thị trường cạnh tranh hoàn hảo [trên thị trường này, người mua hay người bán không có quyền lực chi phối giá cả hàng hóa]
    • Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo [trên thị trường dạng này, người mua hay người bán riêng biệt, dù ít, dù nhiều vẫn có khả năng chi phối giá]

    II. Khái niệm về Cầu – Lý thuyết hành vi của người tiêu dùng

    1. Các khái niệm:

    Cầu là số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà tiêu dùng mong muốn và có khả năng mua tại các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định với giả định các nhân tố khác không đổi [ceteris paribus].

    Lượng cầu: Là số lượng hàng hóa / dịch vụ mà người tiêu dùng muốn mua và có khả năng mua tại mỗi mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định với giả định các nhân tố khác không đổi.

    Nhu cầu: Là những nguyện vọng, mong ước vô hạn về hàng hóa / dịch vụ của con người. Sự khan hiếm làm cho hầu hết các nhu cầu không được thỏa mãn.

    Cầu cá nhân: Là số lượng hàng hóa / dịch vụ mà một cá nhân mong muốn mua và có khả năng mua tại các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định với giả định các nhân tố khác không đổi.

    Cầu thị trường: Là tổng cầu cá nhân ở các mức giá. Khi cộng lượng cầu cá nhân ở mỗi mức giá, chúng ta có lượng cầu thị trường tại mỗi mức giá.

    2. Luật cầu

    – Với giả định các nhân tố khác không đổi, số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ được cầu trong một khoảng thời gian nhất định sẽ tăng lên khi giá giảm và ngược lại, sẽ giảm khi giá tăng.

    – Như vậy, giá hàng hóa / dịch vụ và lượng cầu có quan hệ nghịch.

    P↑  →  Qd ↓

    P ↓  → Qd ↑

    3. Các công cụ biểu diễn cầu

    3.1. Biểu cầu

    Đó là một bảng số liệu gồm ít nhất 2 cột giá và lượng cầu, cho biết phản ứng của người tiêu dùng tại các mức giá khác nhau.

    3.2 Đồ thị cầu

    Đường cầu là đường dốc xuống từ trái qua phải thể hiện mối quan hệ tỉ lệ nghịch giữa giá và lượng cầu.

    Khi phần thay đổi trong các mức giá là một hằng và phần thay đổi ở các mức lượng cầu cũng là một hằng số thì đường cầu sẽ là một đường tuyến tính như đồ thị. Tuy nhiên, trong thực tế thì hiện tượng này hiếm khi xảy ra và đường cầu thường có dạng phi tuyến tính.

    3.3 Hàm cầu

    – Phương trình đường cầu dạng tuyến tính:

    P = a + bQD hoặc QD = c + dP

    [với a, b, c, d là hằng số; b, d 0]

    – Hàm cung là hàm số phản ánh mối quan hệ giữa lượng cung với các biến số có ảnh hưởng đến lượng cung.

    QS = f [Px, Pi, Te, G, E, N]

    Trong đó:

    • Px là giá của chính hàng hóa, dịch vụ đó.
    • Pi: giá của các nhân tố đầu vào
    • Te [Technology]: công nghệ
    • G [Government’s policy]: chính sách của chính phủ
    • E [Expectations]: kỳ vọng của nhà sản xuất
    • N [Number of sellers]: số lượng người bán trên thị trường.

    4. Các nhân tố ảnh hưởng tới cung

    4.1. Giá hàng hoá, dịch vụ

    Giá hàng hoá dịch vụ ảnh hưởng đến lượng cung theo luật cung. Khi giá hàng hoá dịch vụ tăng, người sản xuất sẽ sản xuất nhiều hàng hoá hơn để tung ra thị trường nhằm thu lại nhiều lợi nhuận hơn và ngược lại.

    4.2. Giá các yếu tố sản xuất

    Giá của các yếu tố sản xuất tác động trực tiếp đến chi phí sản xuất và do đó ảnh hưởng đến lượng hàng hoá mà người sản xuất muốn bán.

    4.3. Chính sách của chính phủ

    Các chính sách của chính phủ như chính sách pháp luật, chính sách thuế và chính sách trợ cấp đều có tác động mạnh mẽ đến lượng cung. Khi chính sách của chính phủ mang lại sự thuận lợi cho người sản xuất, người sản xuất được khuyến khích sản xuất khiến lượng cung tăng và đường cung dịch chuyển sang phải và ngược lại.

    4.4. Công nghệ

    Công nghệ là yếu tố quan trọng trong sự thành bại của bất kỳ một DN nào. Công nghệ sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng hàng hoá sản xuất ra.

    4.5. Các kỳ vọng của người bán

    Kỳ vọng là những dự đoán, dự báo của người sản xuất về những diễn biến thị trường trong tương lai ảnh hưởng đến cung hiện tại. Nếu các kỳ vọng thuận lợi đối với người bán thì lượng cung hiện tại sẽ giảm, đường cung dịch chuyển sang trái và ngược lại.

    4.6. Số lượng người bán trên thị trường

    Số lượng người bán có ảnh hưởng trực tiếp đến số hàng hoá bán ra trên thị trường. Khi có nhiều người bán, lượng cung hàng hoá tăng lên khiến đường cung hàng hoá dịch chuyển sang phải và ngược lại.

    5. Phân biệt sự di chuyển và dịch chuyển của đường cung

    – Giá hàng hoá dịch vụ là nhân tố nội sinh. Khi giá hàng hóa dịch vụ thay đổi sẽ gây ra sự di chuyển dọc theo đường cung [di chuyển lên trên hoặc xuống dưới].

    – Các nhân tố khác như giá các yếu tố đầu vào, chính sách của chính phủ, công nghệ, số lượng người sản xuất, các kỳ vong là các nhân tố ngoại sinh. Sự thay đổi của các nhân tố này sẽ gây ra sự dịch chuyển của đường cung [dịch chuyển sang trái hoặc sang phải].

    IV. Cân bằng cầu cung thị trường

    1. Cân bằng thị trường

    Cân bằng thị trường là trạng thái mà tại đó cung vừa đủ thoả mãn cầu, do đó mà không có sức ép làm thay đổi giá. Tại mức giá này, chúng ta có lượng cung và lượng cầu bằng nhau. Khi đó, điểm giao nhau giữa đường cung và đường cầu là điểm cân bằng và lượng cung và lượng cầu tại mức giá này là lượng cân bằng.

    Nguyên lý cung – cầu, hay quy luật cung cầu, phát biểu rằng thông qua sự điều chỉnh của thị trường, một mức giá cân bằng [còn gọi là mức giá thị trường] và một lượng giao dịch hàng cân bằng sẽ được xác định. Mức giá và lượng hàng đó tương ứng với giao điểm của đường cung và đường cầu. Trạng thái cân bằng của một mặt hàng như thế gọi là cân bằng bộ phận. Khi đạt trạng thái cân bằng của cùng lúc tất cả các mặt hàng, kinh tế học gọi đó là cân bằng tổng thể hay cân bằng chung. Ở trạng thái cân bằng, sẽ không có dư cung [lượng cung lớn hơn lượng cầu] hay dư cầu [lượng cầu lớn hơn lượng cung].

    Bốn nguyên lý cơ bản về cung và cầu:

    • Nếu nhu cầu tăng [đường cầu thay đổi về bên phải] và nguồn cung vẫn không đổi, thì tình trạng thiếu hụt xảy ra, dẫn đến giá cân bằng cao hơn.
    • Nếu nhu cầu giảm [đường cầu dịch chuyển về bên trái] và nguồn cung vẫn không đổi, thì thặng dư xảy ra, dẫn đến giá cân bằng thấp hơn.
    • Nếu cầu vẫn không thay đổi và cung tăng [đường cung dịch chuyển về bên phải], thì thặng dư xảy ra, dẫn đến giá cân bằng thấp hơn.
    • Nếu cầu vẫn không thay đổi và cung giảm [đường cung dịch chuyển về bên trái], thì tình trạng thiếu hụt xảy ra, dẫn đến giá cân bằng cao hơn.

    Chúng ta có thể xác định điểm cân bằng theo 3 phương pháp sau:

    Cách 1: Dựa vào biểu cung và biểu cầu

    Cách 2: Dựa vào đồ thị đường cung cầu

    Cách 3: Dựa vào phương trình đường cung và phương trình đường cầu [đây là phương pháp thường được sử dụng nhất]

    Sự thay đổi trạng thái cân bằng

    Cân bằng được hiểu là trạng thái ổn định. Nhưng điểm cân bằng cầu cung không phải là bất biến. Khi có một nhân tố trong hàm cầu hoặc hàm cung thay đổi khiến đường cầu hoặc đường cung dịch chuyển hoặc khi cả đường cung và đường cầu đều dịch chuyển thì ta có điểm cân bằng mới, giá cân bằng mới và lượng cân bằng mới.

    Từ đó ta có 3 cách xác định trạng thái cân bằng mới:

    – Xác định xem đường cầu hoặc đường cung hoặc cả đường cầu và đường cung sẽ dịch chuyển;

    – Xác định xem đường cầu hoặc đường cung dịch chuyển sang phải hay sang trái;

    – Xác định xem sự dịch chuyển này tác động đến giá và lượng cân bằng như thế nào.

    Trường hợp 1: Cầu cố định, cung dịch chuyển ⇒ điểm cân bằng di chuyển trên đường cầu

    – Khi cung dịch chuyển sang phải PE ↓ QE ↑

    – Khi cung dịch chuyển sang trái PE ↑ QE ↓

    Trường hợp 2: Cung cố định, cầu dịch chuyển ⇒ điểm cân bằng di chuyển trên đường cung

    – Khi cầu dịch chuyển sang phải PE ↑ QE ↑

    – Khi cầu dịch chuyển sang trái PE ↓ QE ↓

    Trường hợp 3: Cả cung và cầu đều dịch chuyển [có 12 tình huống]

    – Khi cung dịch chuyển sang phải, cầu dịch chuyển sang phải

    • Tình huống 1: Tốc độ thay đổi của cung lớn hơn tốc độ thay đổi của cầu: PE ↓ > QE ↑
    • Tình huống 2: Tốc độ thay đổi của cầu lớn hơn tốc độ thay đổi của cung: PE ↑ < QE ↑
    • Tình huống 3: Tốc độ thay đổi của cung bằng tốc độ thay đổi của cầu: PE không đổi QE ↑.

    – Khi cung dịch chuyển sang phải, cầu dịch chuyển sang trái [3 tình huống tương tự]

    – Khi cung dịch chuyển sang trái, cầu dịch chuyển sang phải [3 tình huống tương tự]

    – Khi cung dịch chuyển sang trái, cầu dịch chuyển sang trái [3 tình huống tương tự]

    Kết luận: Khi cả cung và cầu đều dịch chuyển, sự thay đổi giá và lượng cân bằng phụ thuộc vào tốc độ thay đổi của cung và cầu.

    2. Trạng thái dư thừa và thiếu hụt

    2.1. Trạng thái dư thừa [dư cung]

    Bất kỳ một yếu tố nào tác động đến cung và cầu cũng có thể gây ra sự thay đổi trong giá cân bằng. Khi thị trường chưa kịp điều tiết hoặc không điều tiết được [do có sự can thiệp của chính phủ] thì trạng thái dư thừa hoặc thiếu hụt sẽ xảy ra.

    Dư thừa sẽ xuất hiện khi mức giá trên thị trường P1 lớn hơn giá cân bằng PE.

    Khi mức giá trên thị trường lớn hơn mức giá cân bằng dẫn tới lượng cung lớn hơn lượng cầu [QS > QD] gây nên trạng thái dư thừa.

    Dư thừa còn gọi là thặng dư của cung, tức là lượng cung lớn hơn lượng cầu tại một mức giá mà mức giá đó lớn hơn mức giá cân bằng.

    2.2. Trạng thái thiếu hụt [dư cầu]

    Thiếu hụt sẽ xuất hiện khi mức giá trên thị trường P2 nhỏ hơn giá cân bằng PE.

    Khi mức giá trên thị trường nhỏ hơn mức giá cân bằng dẫn tới lượng cầu lớn hơn lượng cung [QD> QS] gây nên trạng thái thiếu hụt.

    Thiếu hụt còn gọi là thặng dư của cầu, tức là lượng cầu lớn hơn lượng cung tại một mức giá mà mức giá đó nhỏ hơn mức giá cân bằng.

    2.3. Cơ chế tự điều tiết của thị trường

    Bất cứ khi nào xuất hiện hiện tượng dư thừa hay thiếu hụt thì cả người mua và người bán sẽ điều chỉnh hành vi đi theo lợi ích riêng của mình và kết quả là thị trường đạt trạng thái cân bằng. Đây chính là cơ chế “bàn tay vô hình” – cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế thị trường. Xu hướng chung của thị trường là dư thừa kéo giá xuống, thiếu hụt đẩy giá lên.

    Khi dư thừa, người bán tự động giảm giá để giải phóng số hàng ế thừa. Ngược lại, khi thiếu hụt, người bán tự động tăng giá.

    3. Kiểm soát giá

    Trong nhiều trường hợp, khi giá cân bằng được hình thành từ quan hệ cung cầu trên thị trường tự do, mức giá có thể quá thấp đối với nhà sản xuất hàng hóa hoặc quá cao cho người tiêu dùng. Khi đó, chính phủ sẽ can thiệp vào thị trường bằng việc quy định giá trần hoặc giá sàn để bảo vệ quyền lợi của người sản xuất hoặc người tiêu dùng.

    Có hai loại giá chính phủ đưa ra là giá trần và giá sàn.

    3.1. Giá sàn

    Giá sàn là mức giá thấp nhất được phép lưu hành trên thị trường. Chính phủ sẽ quy định mọi mức giá thấp hơn giá sàn là bất hợp pháp [thường được gọi là bán phá giá].

    – Để giá sàn có hiệu lực thì giá sàn phải lớn hơn mức giá cân bằng trên thị trường.

    – Mục đích của việc đặt giá sàn của chính phủ là bảo vệ người sản xuất.

    – Giá sàn gây ra tình trạng dư thừa trên thị trường. Biện pháp khắc phục tình trạng này là chính phủ mua vào toàn bộ lượng dư thừa.

    Khi định ra giá sàn về một loại hàng hoá, nhà nước muốn bảo vệ lợi ích của những người cung ứng hàng hoá. Khi nhà nước cho rằng mức giá cân bằng trên thị trường là thấp, nhà nước có thể quy định một mức giá sàn – với tính cách là một mức giá tối thiểu mà các bên giao dịch phải tuân thủ – cao hơn. Khi không được mua, bán hàng hoá với mức giá thấp hơn giá sàn, trong trường hợp này, những người bán hàng hoá dường như sẽ có lợi. Nhờ việc kiếm soát giá của nhà nước, họ có khả năng bán hàng hoá với mức giá cao hơn giá cân bằng thị trường. Một biểu hiện của việc định giá sàn là chính sách tiền lương tối thiểu. Khi quy định mức lương tối thiểu cao hơn mức lương cân bằng trên thị trường [và chỉ trong trường hợp này, chính sách giá sàn mới có ý nghĩa], nhà nước kỳ vọng rằng những người lao động sẽ khấm khá hơn, nhờ có được mức lương cao hơn.

    3.2. Giá trần

    Giá trần là mức giá cao nhất được phép lưu hành trên thị trường. Chính phủ quy định mọi mức giá cao hơn giá trần là bất hợp pháp.

    – Để giá trần có hiệu lực thì giá trần nhỏ hơn mức giá cân bằng trên thị trường.

    – Mục đích của việc đặt giá trần của chính phủ: để bảo vệ người tiêu dùng. Khi đặt mức giá trần, người sản xuất không được đặt giá cao hơn mức giá trần đó.

    – Giá trần gây ra tình trạng thiếu hụt trên thị trường. Biện pháp để khắc phục tình trạng này là chính phủ cung cấp toàn bộ lượng thiếu hụt của thị trường.

    Khi thiết lập mức giá trần, mục tiêu của nhà nước là bảo vệ những người tiêu dùng. Khi mức giá cân bằng trên thị trường được xem là quá cao, bằng việc đưa ra mức giá trần thấp hơn, nhà nước hy vọng rằng, những người tiêu dùng có khả năng mua được hàng hoá với giá thấp và điều này được coi là có ý nghĩa xã hội to lớn khi những người có thu nhập thấp vẫn có khả năng tiếp cận được các hàng hoá quan trọng. Chính sách giá trần thường được áp dụng trên một số thị trường như thị trường nhà ở, thị trường vốn…

    —Nguồn tham khảo: Wikipedia, Kinh tế vi mô [Bộ GD-ĐT, ĐH Kinh Tế, ĐH Ngoại Thương], Samuelson & Nordhaus [Kinh  tế học 1995]
    Mankiw GS KTH ĐH harvard [Nguyên lý kinh tế].

    Cung cầu thị trườngTổng cầuTổng cung

    Video liên quan

    Chủ Đề