Ngân hàng Nhà nước tăng lãi suất

Ảnh minh họa. [Ảnh: CTV/Vietnam+]

Trong vài tháng trở lại đây, lãi suất huy động được điều chỉnh tăng, hiện đã có trên 10 ngân hàng có mức lãi suất cao trên 7%, điều này đặt ra câu hỏi liệu lãi suất đầu ra có bị ảnh hưởng hay không?

Các chuyên gia tài chính ngân hàng cho rằng mục tiêu giảm lãi suất cho vay đang chịu áp lực nhất định.

Thách thức giảm lãi suất

Hiện nhiều ngân hàng tăng mạnh lãi suất, có ngân hàng đã tăng từ 0,5%-0,7%. Điều này khiến không ít ý kiến lo ngại về việc lãi suất cho vay ít nhiều sẽ chịu áp lực tăng theo. Bởi lãi suất huy động ước tính chiếm khoảng một nửa trong tổng chí phí vốn vay của các ngân hàng. Trong bối cảnh nền kinh tế đang bắt đầu phục hồi trở lại, các doanh nghiệp rất cần sự hỗ trợ vốn.

Một nguyên nhân nữa cũng được các chuyên gia phân tích, nền kinh tế sau đại dịch vẫn còn những khó khăn song "bão giá" đang ngày một hiện rõ. Ngân hàng Nhà nước đang chịu nhiều áp lực kiểm soát lạm phát nhưng không áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ để tiếp tục hổ trợ nền kinh tế đang trong giai đoạn phục hồi.

Theo chuyên gia, mục tiêu năm nay của Ngân hàng Nhà nước là khống chế lạm phát dưới mức 4%. Song tính đến thời điểm hiện tại, áp lực từ giá dầu, từ chi phí sinh hoạt vẫn chưa có dấu hiệu giảm đi.

[Áp lực dồn dập từ thị trường: Ngân hàng "đua" lãi suất huy động]

Chuyên gia Nguyễn Chí Hiếu phân tích các ngân hàng vẫn đang đẩy mạnh tín dụng và đẩy một lượng tiền lớn vào lưu thông. Nhiều ngân hàng đã dùng hết room tín dụng và hiện đang xin Ngân hàng Nhà nước cấp thêm hạn mức. Tất cả những điều này là hiển nhiên trong bối cảnh nền kinh tế cần được tiếp sức để tiếp tục quá trình phục hồi.

Tuy nhiên, theo ông Hiếu những điều này đang đi ngược lại chủ trương chống lạm phát, với một dòng vốn tín dụng tiếp tục đổ vào nền kinh tế trong khi rủi ro lạm phát ngày càng cao, khác nào “lửa đổ thêm dầu.”

Chuyên gia Công ty chứng khoán Vietcombank [VCBS] thfi cho hay hệ thống ngân hàng thương mại đã bắt đầu triển khai chương trình hỗ trợ lãi suất 2% từ nguồn ngân sách nhà nước 40.000 tỷ đồng theo Nghị định 31 của Chính phủ và Thông tư 03 của Ngân hàng Nhà nước.

Theo đó, giai đoạn này Ngân hàng Nhà nước đang thể hiện quyết tâm thực hiện chương trình hỗ trợ lãi suất hiệu quả hỗ trợ trọng điểm vào một số ngành nghề nhằm hỗ trợ nền kinh tế sau dịch.

Như vậy định hướng xuyên suốt của Ngân hàng Nhà nước vẫn là giảm lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sau dịch. Song, theo VCBS, mục tiêu giảm lãi suất cho vay đang áp lực nhất định.

Bà Nguyễn Thị Hồng - Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết giảm lãi suất để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân luôn là một nhiệm vụ trọng tâm của Ngân hàng Nhà nước. Những năm gần đây, nhiều giải pháp điều tiết tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước đã góp phần giúp mặt bằng lãi suất giảm dần.

Tuy nhiên, theo Thống đốc, trong thời gian qua, công tác điều hành chính sách tiền tệ chịu áp lực khá lớn. Đó là, xu hướng lạm phát cao trên toàn cầu và ngân hàng trung ương các nước tăng lãi suất. Đến ngày 31/5, có tổng cộng 144 lượt tăng lãi suất trên toàn cầu, riêng Cục Dự trữ liên bang Mỹ [Fed] đã tăng tốc điều chỉnh lãi suất thêm 0,5 điểm phần trăm trong tháng Năm, sau khi tăng 0,25 điểm phần trăm trong tháng Ba, hiện ở mức 0,75%-1%. Ngân hàng Trung ương châu Âu [ECB] cũng vừa xác nhận sẽ dừng chương trình mua trái phiếu đã áp dụng gần một thập niên qua từ ngày 1/7, đồng thời phát tín hiệu sẽ thực hiện nhiều đợt tăng lãi suất từ tháng 7/2022 trong bối cảnh lạm phát tăng kéo dài.

Trong nước, lãi suất phụ thuộc vào cung-cầu vốn. Trong 6 tháng qua, khi hoạt động sản xuất, kinh doanh phục hồi, tăng trưởng tín dụng đã vượt 9%. Đây là mức khá cao so với mục tiêu định hướng 14% của năm 2022 và tạo áp lực lớn với mặt bằng lãi suất.

“Mục tiêu giảm lãi suất là rất khó. Ngân hàng Nhà nước sẽ cân đối một cách hài hòa giữa các giải pháp, phối hợp đồng bộ và phù hợp với diễn biến kinh tế sao cho có lợi nhất đối với ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, nhưng không chủ quan đối với lạm phát,” Thống đốc Nguyễn Thị Hồng nhấn mạnh.

Ngân hàng chủ động tìm cách giảm lãi suất cho vay

Song song với nhiệm vụ khống chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước vẫn còn một sứ mệnh khác đó là ổn định lãi suất cho vay, đưa nền kinh tế quay về quỹ đạo tăng trưởng.

Để tránh gây áp lực với lãi suất cho vay, các ngân hàng cho biết phải cân đối mức tăng lãi đầu vào, chỉ ở những kỳ hạn cần thiết. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại quốc doanh lớn chiếm 3/4 thị phần hiện vẫn giữ nguyên lãi suất ở mức thấp, vì thế đợt tăng lãi suất huy động ở các ngân hàng nhỏ được nhận định sẽ không gây ảnh hưởng quá lớn tới mặt bằng chung.

"Việc tăng tăng lãi suất huy động được chúng tôi tính toán rất kỹ để đáp ứng nhu cầu, quyền lợi của khách hàng nhưng cũng không gây áp lực lãi suất cho vay đầu ra theo đúng định hướng của Chính phủ và cơ quan quản lý. Điều này sẽ giúp khách hàng là các hộ kinh doanh, doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận nguồn vốn giá rẻ sớm phục hồi sản xuất kinh doanh vốn đã rất khó khăn trong 2 năm vừa qua," ông Nguyễn Khánh Phúc - Giám đốc Khối khách hàng cá nhân, Ngân hàng Thương mại cổ phần An Bình cho hay.

Bà Lê Hoàng Khánh An - Giám đốc tài chính, Ngân hàng VPBank kiến nghị một số giải pháp để đảm bảo tối ưu hóa mức lãi suất, chi phí vốn của ngân hàng như chú trọng tăng trưởng tiền gửi không kỳ hạn, củng cố nguồn vốn từ thị trường quốc tế để giảm mặt bằng lãi suất.

Theo đánh giá của tiến sỹ Nguyễn Quốc Hùng - Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, trước mắt xu hướng lãi suất cho vay sẽ chưa tăng. Lý do là các tổ chức tín dụng cũng hiểu rằng, việc huy động vốn với lãi suất có thể cao hơn, nhưng việc nâng lãi suất cho vay cũng phải cân nhắc cho phù hợp với thực tiễn.

Chuyên gia Nguyễn Trí Hiếu thì khuyến nghị: "Hãy để mặt bằng lãi suất cho vay tăng khoảng 1%-1,5% từ nay đến cuối năm để kiểm soát lạm phát đồng thời khẩn trương giúp Chính phủ thực hiện các gói hỗ trợ kinh tế, trong đó có gói hỗ trợ lãi suất 40.000 tỷ đồng”./.

Thúy Hà [Vietnam+]

Đây đang là vấn đề thời sự trong lĩnh vực ngân hàng, khi trong hơn một tuần qua, rất nhiều ngân hàng đã tăng lãi suất huy động vốn. Điều đáng nói là, lãi suất tăng trong điều kiện nguồn vốn tỏ ra vẫn khá dư dật tại các ngân hàng.

Thừa vốn vẫn tăng!

Lãi suất huy động tăng đang gây một sức ép nhất định lên lãi suất cho vay và nhiều người quan ngại rằng, điều này có thể ảnh hưởng tới đầu tư, bởi gánh nặng lãi suất của các doanh nghiệp vay vốn sẽ tăng lên.

Trong diễn biến của thị trường tiền tệ, sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ [FED] tăng lãi suất cơ bản của mình thêm 0,25 điểm phần trăm, nhiều ngân hàng trong nước cũng điều chỉnh lãi suất huy động bằng USD lên mặt bằng lãi suất mới. Nhưng điều đáng nói là, lãi suất huy động VND cũng được điều chỉnh tăng, đặc biệt là đối với các kỳ hạn ngắn 3 - 9 tháng, tập trung ở khối ngân hàng cổ phần.

Nếu lãi suất huy động USD tăng được lý giải là do ảnh hưởng của lãi suất quốc tế, thì lãi suất VND tăng được nhiều ngân hàng giải thích là nhằm đảm bảo khoảng cách lãi suất giữa hai đồng tiền này, để người gửi tiền không dịch chuyển lượng tiền gửi VND của mình sang USD.

Ngoài ra, còn một số lý do khác, mà nhiều ngân hàng cổ phần đưa ra là, nhằm tăng cường huy động vốn, đáp ứng cho nhu cầu tín dụng và nhu cầu đầu tư của các ngân hàng...

Mặc dù vậy, trên tổng thể thị trường, việc lãi suất VND tăng lại có nhiều dấu hiệu bất thường, bởi theo tổng kết 6 tháng đầu năm của Ngân hàng Nhà nước thì tốc độ tăng trưởng tín dụng năm nay chỉ bằng một nửa so với tốc độ tăng của huy động vốn, vốn khả dụng tại nhiều ngân hàng lớn vẫn đang khá dư thừa. Điều đó cho thấy, dường như việc tăng lãi suất không dựa trên cơ sở cung - cầu vốn, mà căn cứ bởi nhiều lý do khác, đặc biệt là lý do cạnh tranh để giữ thị phần.

Theo bà Nguyễn Thị Kim Thanh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ [Ngân hàng Nhà nước], đây là lần thứ hai trong 5 năm qua, diễn biến lãi suất có phần không phù hợp với những thay đổi của yếu tố thị trường, như lạm phát kỳ vọng thấp hơn năm ngoái, cung về vốn lớn hơn cầu, thể hiện ở vốn khả dụng các ngân hàng thương mại dư thừa lớn...

“Diễn biến lãi suất 6 tháng đầu năm 2006 cũng khá giống như năm 2003, khi đó lãi suất cho vay các kỳ hạn ngắn đều tăng 0,24 - 0,6 điểm phần trăm/năm”, bà Thanh nói.

Theo bà Thanh, một trong những nguyên nhân khiến lãi suất có xu hướng tăng trong điều kiện nguồn vốn VND về tổng thể là dư thừa kéo dài trong vài tháng, đó là sự phát triển của thị trường liên ngân hàng còn hạn chế và việc quản trị nguồn vốn của các ngân hàng thương mại còn những bất cập nhất định.

Cụ thể, đối với nhiều ngân hàng cổ phần nhỏ, nguồn vốn huy động vẫn thiếu so với nhu cầu cho vay, nhưng họ lại khó tiếp cận được nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các ngân hàng lớn, nên buộc phải tăng lãi suất để huy động vốn ngoài thị trường. Còn đối với các ngân hàng lớn, chủ yếu là các ngân hàng thương mại nhà nước, với mạng lưới rộng và uy tín đối với người gửi tiền, nguồn vốn khả dụng dư thừa nhưng không dám hạ lãi suất vì sợ mất khách hàng. Đồng thời, do tâm lý sợ mất khả năng thanh khoản do sự kém thông suốt của thị trường, nên buộc các ngân hàng này phải dự trữ mức thanh khoản lớn [có những lúc dự trữ thanh khoản trước 10 ngày nhu cầu phát sinh].

“Nếu như thị trường tiền tệ phát triển tốt, nhất là thị trường liên ngân hàng, khả năng quản trị nguồn vốn của các ngân hàng tốt hơn thì sự thiếu - thừa vốn giữa các ngân hàng sẽ được bù đắp và tình trạng trên sẽ không xảy ra”, bà Thanh cho biết.

Tăng lãi suất vì giá cổ phiếu?

Ở một góc độ khác, lãnh đạo một công ty quản lý quỹ đầu tư lại cho rằng, đối với khối ngân hàng cổ phần, không phải tất cả các ngân hàng đều thiếu vốn để cho vay, nhưng hầu hết đều tăng lãi suất huy động. Theo vị lãnh đạo này, ngoài lý do cạnh tranh để mở rộng thị phần huy động vốn và tăng thêm khách hàng gửi tiền, còn có một lý do khác liên quan đến giá cổ phiếu.

Cụ thể, trong khi cổ phiếu ngân hàng đang được quan tâm trên thị trường, nhiều ngân hàng đã tăng vốn điều lệ của mình để gia nhập câu lạc bộ 1.000 tỷ đồng. Ngoài việc tăng vốn điều lệ thì yêu cầu đẩy mạnh huy động vốn để tăng tổng tài sản của mình cũng được đặt ra. Tổng tài sản cũng là một chỉ tiêu quan trọng về mặt quy mô, ảnh hưởng tới giá cổ phiếu ngân hàng.

Cũng theo vị lãnh đạo này, nguồn vốn huy động hiện chiếm khoảng 70 - 80% tổng tài sản của một ngân hàng Việt Nam. Chính vì vậy, để tăng tổng tài sản thì việc tăng huy động vốn là một yêu cầu tất yếu.

Trong khối ngân hàng cổ phần hiện nay, ngân hàng có vốn điều lệ cao nhất là Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín [Sacombank] - 1.899 tỷ đồng, nhưng ngân hàng có tổng tài sản lớn nhất lại là Ngân hàng Á Châu [ACB], với mức trên 33.000 tỷ đồng, gần gấp đôi Sacombank. Ngoài lý do về chất lượng hoạt động, bề dày cũng như uy tín thương hiệu thì quy mô hoạt động lớn cũng là lý do khiến giá cổ phiếu ACB trên thị trường được chào bán với mức gấp hơn 15 lần mệnh giá, cao nhất so với giá cổ phiếu các ngân hàng cổ phần khác, trong khi giá cổ phiếu của Sacombank trên sàn giao dịch gấp khoảng 8 lần mệnh giá.

Theo VNECONOMY [19/07/2006]

Video liên quan

Chủ Đề