Phương pháp trực quan ở tiểu học

Có phải bạn đang tìm kiếm chủ đề về => Phương Pháp Dạy Học Trực Quan Là Gì? Áp Dụng Như Nào? phải không? Nếu đúng như vậy thì mời bạn xem nó ngay tại đây. Xem thêm các ứng dụng học trực tuyến khác tại đây => Hoc trực tuyến

Phương pháp giáo dục trực quan Còn được gọi là dạy học trực quan, có nhiều tài liệu gọi nó là hình thức trình bày trực quan. Nó dạy học sử dụng đồ dùng trực quan như kỹ thuật dạy học trong, trước và sau khi sử dụng tài liệu mới hoặc khi ôn tập để củng cố, thậm chí hệ thống hóa kiến ​​thức, kỹ năng và kỹ xảo. xảo trá.

Phương pháp dạy học trực quan được thể hiện dưới các hình thức sau:

  • Trình chiếu các thí nghiệm thực tế, đèn chiếu, phim chiếu mang lại hình ảnh rõ nét, sống động. Thiết bị kỹ thuật, phim, video. Trình bày những mô hình thể hiện thực tế một cách khách quan nhất và cũng được chọn lọc kỹ lưỡng để phù hợp trong môi trường sư phạm. Đó là cơ sở để quá trình tìm hiểu và hiểu bài tốt hơn.
  • Đó cũng là các hình ảnh minh họa được trình bày bằng các phương tiện trực quan có tính chất minh họa như bản đồ, tranh ảnh, hình vẽ trên bảng, v.v.

Các tính năng đặc biệt của phương pháp giáo dục trực quan trong trường mầm non Nó rất phát triển và dễ thực hiện, giúp trẻ em hiểu và hiểu rõ hơn nội dung nhờ các hình ảnh minh họa. Trẻ sẽ dễ dàng tiếp thu kiến ​​thức và lĩnh hội văn bản.

II. Ưu điểm của phương pháp giảng dạy trực quan

Phương pháp dạy học trực quan ở tiểu học và các cấp học khác mang lại lợi thế lớn. Đặc biệt, chính sự tiếp thu ngày càng tiến bộ của học sinh đã làm cho bài giảng trở nên sôi nổi và hấp dẫn hơn.

  • Với cách dạy trực quan, đồ dùng học tập được đặc biệt quan tâm, nhờ có đồ dùng mà học sinh nhớ nhanh, nhớ lâu và nhớ bài rất kỹ. Với những hình ảnh trực quan sinh động cùng những kiến ​​thức lịch sử sinh động, trẻ cảm thấy như mình đang sống trong thời kỳ lịch sử đó. Bạn cũng biết, những hình ảnh không cần viết cũng được lưu giữ chắc chắn trong trí nhớ, đó là những hình ảnh có được từ trực quan. Vì vậy, học theo phương pháp trực quan góp phần tạo ra các biểu tượng lịch sử. Ngoài ra, tài liệu trong bài học trực quan còn giúp phát triển khả năng quan sát, tư duy, trí tưởng tượng và ngôn ngữ của học sinh.
  • Phương pháp giảng dạy trực quan là phương pháp học tập sử dụng trực quan, là nguyên tắc cơ bản của suy luận, để học sinh hình thành khái niệm trên cơ sở quan sát trực tiếp các đồ vật, đồ dùng thông qua hình ảnh minh họa bằng tranh, ảnh, video. Công cụ đó là chỗ dựa giúp học sinh hiểu được bản chất của tri thức, là phương tiện giúp các em hình thành khái niệm và nắm vững các quy luật phát triển của xã hội.

Ví dụ: Khi được học với những bức tranh có hình ảnh trên đá là hình người theo cung hoàng đạo. Học sinh sẽ hiểu rằng người nguyên thủy đã biết và sử dụng cung tên để thay đổi hình thức săn bắn sang săn bắn và làm thay đổi nền kinh tế thời bấy giờ.

III. Hạn chế của phương pháp dạy học trực quan

Tuy có nhiều ưu điểm nhưng phương pháp sử dụng giáo cụ trong giáo dục trực quan có những hạn chế nhất định. Những hạn chế này được đề cập dưới đây.

  • Với hình ảnh, video, phim đều là những thứ gây chú ý nhưng nếu không biết sử dụng hợp lý sẽ khiến bạn phân tâm và giảm sự chú ý. Điều này khiến các em không hiểu rõ vấn đề trong bài.
  • Đây là phương pháp dạy học đòi hỏi nhiều thời gian và giáo viên cần cân nhắc, tính toán để phù hợp với thời lượng dạy học.
  • Hình ảnh, video, phim sẽ có những chi tiết ngoài lề, nhỏ nhặt và không liên quan đến bài học. Nếu không có định hướng tốt, học sinh chỉ có thể chú ý đến những chi tiết đó.

IV. Tiến trình thực hiện phương pháp dạy học trực quan

Để có những tiết dạy trực quan bổ ích, hiệu quả và tạo hứng thú cho học sinh, giáo viên cần lưu ý trong quá trình thực hiện.

  • Bước đầu tiên, giáo viên cần chuẩn bị tranh ảnh, video, băng, phim ….. về chủ đề bài dạy. Hình ảnh và video cần được xem xét cẩn thận để không chứa nội dung phản cảm hoặc không phù hợp về văn hóa.
  • Bước tiếp theo, giáo viên treo tranh, ảnh minh họa, tài liệu hoặc thiết bị thí nghiệm ….. sau đó, giáo viên cần đưa ra định hướng cho học sinh.
  • Trình bày chi tiết trong bản đồ, sơ đồ và hình ảnh, với video yêu cầu chi tiết hơn. Với thiết bị thí nghiệm, giáo viên tiến hành thí nghiệm và cho học sinh xem phim.
  • Giáo viên yêu cầu một vài học sinh trình bày nội dung bức tranh, nội dung đoạn phim hoặc phương pháp tiến hành thí nghiệm. Bạn học được gì từ đó?
  • Giáo viên chuẩn bị các câu hỏi để giúp học sinh sử dụng những gì họ nhìn thấy và nhìn thấy để trả lời. từ đó hiểu và nắm bài tốt hơn.

Có nhiều phương pháp giảng dạy trực quan và tùy theo mục đích mà chúng tôi chia thành các loại:

  • Căn cứ vào mức độ tổ chức có thể chia quan sát thành quan sát có sự sắp xếp, bố trí của giáo viên hoặc quan sát tự nhiên.
  • Căn cứ vào phương pháp quan sát ta chia thành quan sát gián tiếp và quan sát trực tiếp
  • Dựa trên phạm vi quan sát, chúng tôi chia thành quan sát khía cạnh và quan sát toàn diện.
  • Dựa trên thời gian, chúng tôi chia các quan sát dài hạn và ngắn hạn.

V. Một Số Lưu Ý Khi Dạy Trực Quan

  • Giáo viên khi đưa tranh ảnh, phim lên mạng cần chú ý đảm bảo hướng quan sát cho tất cả học sinh.
  • Mỗi dụng cụ, thiết bị thí nghiệm, video trực quan đều có phương pháp và cách thức quan sát thích hợp. Giáo viên phải tìm hiểu để đưa ra phương pháp phù hợp nhất.
  • Tùy từng bài sẽ cần những giáo cụ trực quan khác nhau. Có những bài học cần có video nên giáo viên phải là người lựa chọn đồ dùng phù hợp, giúp trẻ có hứng thú quan sát. Nếu là chuyên môn, giáo viên phải xây dựng hệ thống giáo cụ trực quan theo từng bài dạy.
  • Luôn tìm cách phát huy tính tích cực của học sinh bằng các đồ dùng học tập trực quan. Chúng phải được chạm, cầm và quan sát cẩn thận.
  • Mặc dù tư liệu như tranh ảnh, phim là cần thiết cho mỗi bài học, nhưng lời nói và cách trình bày của giáo viên cũng vô cùng quan trọng, đặc biệt là các môn học như Địa lý, Công nghệ, Sinh học ở cấp THPT. Giáo viên phải tự rèn luyện, nâng cao tay nghề để làm tốt công việc của mình.
  • Tìm cách khai thác tối đa kiến ​​thức trong đồ dùng trực quan, phương pháp dạy học trực quan ở trường mầm non khác với trường tiểu học. Giáo viên phải tùy theo trình độ của các em để đưa ra những câu hỏi phù hợp.
  • Giáo viên cũng cần chú ý đến các tiện ích thị giác nhỏ khi sử dụng với học sinh cá biệt, hoặc khi tự học ở nhà. Các cô giáo phải hướng dẫn kỹ lưỡng cho trẻ, liên hệ với phụ huynh để phụ huynh cùng thực hiện và hướng dẫn trẻ. Các em cũng phải học kỹ, làm đầy đủ các bài tập và câu hỏi.

Qua bài viết, quý thầy cô và các bậc phụ huynh đã hiểu được lợi ích cũng như cách tiến hành tiết dạy trực quan hiệu quả. Nó cũng cần được áp dụng riêng tùy theo điều kiện và cơ sở vật chất của mỗi nơi.

Bạn thấy bài viết Phương Pháp Dạy Học Trực Quan Là Gì? Áp Dụng Như Nào? có giải quyết đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu  không hãy comment góp ý thêm về Phương Pháp Dạy Học Trực Quan Là Gì? Áp Dụng Như Nào? bên dưới để //hubm.edu.vn/ có thể chỉnh sửa & cải thiện nội dung tốt hơn cho độc giả nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website //hubm.edu.vn/

#Phương #Pháp #Dạy #Học #Trực #Quan #Là #Gì #Áp #Dụng #Như #Nào

LỜI CẢM ƠNĐể hoàn thành luận văn “ Vận dụng phƣơng pháp trực quan trong dạyhọc chủ đề diện tích và thể tích ở Tiểu học”, tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡnhiệt tình của các thầy cô giáo,bạn bè và người thân.Trước hết tôi xin được bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc đến thầygiáo PGS.TS. Đỗ Tiến Đạt, thầy đã giao đề tài và trực tiếp hướng dẫn khoa học, tậntình chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận vănnày.Tôi xin được trân trọng cảm ơn Các thầy cô giáo Phòng Sau đại học, các thầycô giáo trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, đã tạo mọi điều kiện cho tôi học tập,nghiên cứu và hoàn thành luận văn.Tôi xin chân thành cảm ơn sự hợp tác, giúp đỡ của Ban giám hiệu, các thầycô giáo và các em học sinh trường Tiểu học Tích Sơn- Thành phố Vĩnh Yên, trườngTiểu học Tam Hồng 1- Yên Lạc- Vĩnh Phúc.Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luônquan tâm, giúp đỡ và động viên tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luậnvăn.Mặc dù đã cố gắng và nỗ lực để hoàn thành tốt luận văn nhưng chắc chắn sẽkhông thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự chỉ bảo của cácthầy[cô] giáo cũng như ý kiến đóng góp của các bạn.Tôi xin chân thành cảm ơn!Hà nội, tháng 12 năm 2012Tác giảNguyễn Thu BaLỜI CAM ĐOANTôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêngtôi.Các số liệu, kết quả trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chƣađƣợc ai công bố trong bất cứ công trình khoa học nào khác trƣớc đây.Hà Nội, tháng 12 năm 2012Tác giả luận vănNguyễn Thu BaDANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮTSTTKÍ HIỆUNỘI DUNG1ĐTHHĐối tượng hình học2QHHHQuan hệ hình học3SGKSách giáo khoa4PPDHPhương pháp dạy học5GVGiáo viên6HSHọc sinh7PTDHPhương tiện dạy học8PMDHPhần mềm dạy học9PTTQPhương tiện trực quan10PTDHTQPhương tiện dạy học trực quan11PPDHTQPhương pháp dạy học trực quan12CNTT&TT13MTĐTCông nghệ thông tin và truyển thôngMáy tính điện tửMỤC LỤCTrangTrang phụ bìaLời cảm ơnLời cam đoanDanh mục các kí hiệu, chữ cái viết tắtMục lụcMỞ ĐẦU1NỘI DUNG6CHƢƠNG 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đềtài61.1. Một số khái niệm cơ bản61.1.1. Phương pháp dạy học61.1.1.1. Khái niệm:61.1.1.2. Đặc điểm của phương pháp dạy học:91.1.1.3. Hệ thống các phương pháp dạy học:111.1.2. Kĩ thuật dạy học131.1.2.1. Khái niệm131.1.2.2 Hệ thống các kĩ thuật dạy học141.1.3. Phương tiện dạy học141.1.3.1. Khái niệm141.1.3.2. Phương tiện dạy học161.1.3.3. Phương tiện trực quan161.1.4. Phương pháp trực quan171.1.4.1. Khái niệm181.1.4.2. Quy trìnhsử dụng PTTQ191.1.4.3. Một số yêu cầu khi vận dụng các phương tiện trực quan21vào dạy học Toán ở Tiểu học1.1.5. Cơ sở lý luận của việc vận dụng phương pháp trực quan22trong dạy học chủ đề diện tích và thể tích ở Tiểu học1.1.6. Đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học241.2. Thực tế nhận thức và việc vận dụng phương pháp trực quan28trong dạy học chủ đề diện tích và thể tích của giáo viên ởtrường Tiểu học hiện nay1.2.1. Mục đích điều tra281.2.2. Đối tượng điều tra281.2.3. Nội dung điều tra281.2.4. Phương pháp điều tra281.2.5. Kết quả điều tra281.2.5.1. Nhận thức của giáo viên về việc vận dụng phương pháp28trực quan trong dạy học môn Toán ở Tiểu học1.2.5.2. Thực tế việc vận dụng phương pháp trực quan trong dạy29học môn Toán ở Tiểu họcKết luận chương 133CHƢƠNG 2: Vận dụng phƣơng pháp trực quan trong dạy học35chủ đề diện tích và thể tích ở Tiểu học2.1. Nội dung dạy học về chủ đề diện tích và thể tích và những35yêu cầu cơ bản của chuẩn kiến thức kĩ năng2.1.1. Nội dung352.1.2. Các yêu cầu cơ bản của chuẩn kiến thức, kĩ năng372.2. Vận dụng phương pháp trực quan vào dạy học chủ đề diện40tích và thể tích2.2.1. Vận dụng phương pháp trực quan trong dạy học biểu tượng40diện tích, thể tích2.2.1.1. Quy trình dạy học402.2.1.2. Kĩ thuật trình diễn trực quan422.2.1.3. Một số cách trình diễn trực quan trong đó chú ý sử dụng43công nghệ thông tin trong trình diễn trực quan2.2.1.4. Minh họa việc vận dụng phương pháp trực quan vào dạy55học2.2. 2. Vận dụng phương pháp trực quan trong dạy học tính toán và62đo lường diện tích, thể tích.2.2.2.1. Quy trình vận dụng62a. Dạy đo lường diện tích, thể tích62b. Dạy tính toán đại lượng diện tích, thể tích642.2.2.2. Kĩ thuật tính toán652.2.2.3. Minh họa việc vận dụng phương pháp trực quan vào dạy66học2.2.3. Vận dụng phương pháp trực quan trong dạy học giải các bài68toán hình học có nội dung liên quan đến diện tích và thể tích2.2.3.1. Nội dung chủ yếu của các bài toán về diện tích và thể tích68ở Tiểu học2.2.3.2. Quy trình vận dụng682.2.3.3. Kĩ thuật triển khai682.2.3.4. Minh họa việc vận dụng phương pháp trực quan vào dạy69học2.2.4. Ứng dụng phương pháp trực quan trong dạy học chủ đề diện72tích và thể tích có nội dung gắn với thực tiễn đời sốngKết luận chương 275Chƣơng 3: Thực nghiệm sƣ phạm773.1. Khái quát chung773.1.1. Mục đích thực nghiệm773.1.2. Nội dung và cách thức tiến hành thực nghiệm773.1.2.1. Nội dung thực nghiệm773.1.2.2. Cách tiến hành thực nghiệm77a.Chọn mẫu77b. Các bước tiến hành thực nghiệm793.2. Kết quả thực nghiệm793.2.1. Thống kê kết quả793.2.2. Đánh giá kết quả thực nghiệm:823.3. Kết luận thực nghiệm:83Kết luận chƣơng 383KẾT LUẬN86TÀI LIỆU THAM KHẢO88PHỤ LỤC8PHẦN MỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tài:Hiện nay, cả nước đang quan tâm đến vấn đề giáo dục, với mong muốnnước ta sớm có được một nền giáo dục tiên tiến, đáp ứng yêu cầu phát triểnngày càng cao của đất nước. Hơn nữa, phát triển nguồn nhân lực đang trởthành đòi hỏi bức thiết hàng đầu trên chặng đường công nghiệp hóa hiện đạihóa của đất nước.Giáo dục tiểu học là bậc học “nền tảng” trong hệ thống giáo dục quốcdân. Vì giáo dục tiểu học không chỉ là giáo dục cho các em lĩnh hội tri thứcmà đòi hỏi phải giáo dục cho các em được phát triển toàn diện về đức, trí, thể,mỹ…Trong các môn học ở tiểu học thì môn toán là môn học giữ vai trò quantrọng. Học toán giúp các em phát triển năng lực tư duy, khả năng diễn đạt,ứng xử, giải quyết tình huống có vấn đề, tính kiên trì, bền bỉ, làm việc khoahọc, sáng tạo… Nội dung dạy học môn toán ở tiểu học là nhằm giúp cho họcsinh: có những kiến thức cơ bản ban đầu về số học: các số tự nhiên, phân số,số thập phân; các đại lượng thông dụng; một số yếu tố hình học và thống kêđơn giản; hình thành các kĩ năng thực hành tính, đo lường, giải bài toán cónhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống; bước đầu góp phần phát triển nănglực tư duy, khả năng suy luận hợp lý, diễn đạt chúng [nói và viết], rèn luyệnkhả năng phát hiện và giải quyết những vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộcsống; kích thích trí tưởng tượng; gây hứng thú học tập toán; góp phần hìnhthành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch, khoa học, chủđộng, linh hoạt, sáng tạo. Trong đó, nội dung kiến thức về hình học kháphong phú và trừu tượng. Dạy học các yếu tố hình học ở tiểu học vừa nhằmcung cấp cho học sinh những hiểu biết cần thiết về hình dạng, vị trí, kíchthước,QHHH của các vật trong không gian trong cuộc sống hàng ngày, vừađể chuẩn bị cho học các môn học ở trường trung học cơ sở và các bậc học tiếptheo.Các ĐTHH, quan hệ hình học trong chương trình và sách giáo khoa[SGK] môn Toán tiểu học được hình thành thông qua các hoạt động dựa trêncác đồ vật, mô hình và bằng trực giác. Đối với học sinh tiểu học, việc nhậnthức các [ĐTHH] và [QHHH] là khó và trừu tượng, vì vậy phải dựa trên cáchọat động với các đồ vật qua đó giúp học sinh phát hiện và giải quyết vấn đềđể chiếm lĩnh nội dung tri thức. Mặt khác, tư duy của học sinh tiểu học chủyếu còn mang tính cụ thể nên những tác động trực giác, sẽ làm cho các emhứng thú hơn trong việc tìm tòi và phát hiện cái mới.Một trong những yêu cầu đặt ra đối với giáo dục ở nước ta hiện nay làphải thực hiện đổi mới phương pháp dạy học nhằm tích cực hóa hoạt độnghọc tập của học sinh và nâng cao hiệu quả giảng dạy ở các cấp học. Ở Tiểuhọc, yêu cầu cơ bản của đổi mới phương pháp dạy học là nhằm phát huy tínhtích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập. Vì thế trong quá trìnhdạy học, giáo viên phải không ngừng đổi mới phương pháp, vận dụng linhhoạt, sáng tạo các phương pháp vào quá trình giảng dạy. Phương pháp trựcquan là một trong những phương pháp thường được giáo viên sử dụng trongnhững giờ lên lớp. Vì khi hoạt động với đồ vật, mô hình trực quan sẽ giúp chohọc sinh Tiểu học dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với những nội dung hìnhhọc, đồng thời phát triển tư duy hình học, trí tưởng tượng không gian mộtcách chắc chắn hơn.Hiện nay, giáo viên đã chú trọng sử dụng phương pháp trực quan trongquá trình dạy học của mình và không ngừng đổi mới. Tuy nhiên, vẫn còn bộphận giáo viên vẫn còn thói quen giảng giải rồi cung cấp luôn kiến thức mớicho các em, nếu có sử dụng trực quan thì cũng mang tính hình thức, đốiphó… trong khi kiến thức hình học lại khá trừu tượng. Một trong nhữngnguyên nhân của thực trạng này là do sự hiểu biết của giáo viên về phươngpháp chưa thật đầy đủ. Vì vậy, khi áp dụng phương pháp trực quan vào quátrình giảng dạy hầu hết còn thực hiện theo cảm tính, và chưa có kĩ thuật sửdụng phương pháp đó. Chính vì vậy, việc vận dụng phương pháp trực quanvào dạy học trở nên cứng nhắc, máy móc, thiếu sáng tạo dẫn đến chất lượngcủa giờ học không đạt hiệu quả như mong muốn.Do đó, vấn đề vận dụng phương pháp trực quan trong dạy học chủ đềdiện tích và thể tích ở Tiểu học sao cho phù hợp với nhận thức và tư duy củahọc sinh là điều mà tôi quan tâm.Xuất phát từ những lí do nêu trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Vận dụngphương pháp trực quan trong dạy học chủ đề diện tích và thể tích ở Tiểuhọc”.2. Mục đích nghiên cứuNghiên cứu cách vận dụng phương pháp trực quan trong dạy học chủđề diện tích và thể tích nhằm góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn Toánở Tiểu học.3. Nhiệm vụ nghiên cứu:- Nghiên cứu cơ sở lí luận về phương pháp trực quan để vận dụng vàoDH chủ đề diện tích và thể tích ở tiểu học;- Nghiên cứu nội dung chương trình SGK Toán lớp 3,4,5, các yêu cầu cơbản về kiến thức và kĩ năng;- Nghiên cứu cách vận dụng phương pháp trực quan nhằm phát huy tínhtích cực học tập cho học sinh;- Tìm hiểu thực trạng nhận thức và vận dụng phương pháp trực quantrong dạy học Toán ở trường Tiểu học làm cơ sở thực tiễn cho đề tài;- Kiểm nghiệm tính khả thi của việc vận dụng phương pháp trực quantrong dạy học chủ đề diện tích và thể tích ở tiểu học.4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứua. Đối tượng nghiên cứu:Vận dụng phương pháp trực quan vào dạy học chủ đề diện tích và thểtích ở Tiểu học.b. Phạm vi nghiên cứu:+ Quá trình dạy học chủ đề diện tích và thể tích trong môn Toán ở cáclớp 3,4,5.5. Phƣơng pháp nghiên cứu- Nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến phươngpháp trực quan trong dạy học ở trường tiểu học, nghiên cứu sách giáo khoa vàcác tài liệu khác .- Phương pháp điều tra: Thực hiện điều tra, phỏng vấn, dự giờ để quansát việc vận dụng phương pháp trực quan vào dạy học của giáo viên Tiểu học.- Phương pháp thống kê: thống kê số liệu, phân tích kết quả điều tra thựctrạng và kết quả thực nghiệm.- Thực nghiệm sư phạm: Tiến hành thực nghiệm sư phạm theo hướng đãđề xuất để xem xét tính khả thi và hiệu quả của việc vận dụng phương pháptrực quan vào dạy học chủ đề diện tích và thể tích ở Tiểu học .6. Giả thuyết khoa họcNếu vận dụng phương pháp trực quan trong dạy học chủ đề diện tích vàthể tích ở Tiểu học một cách hợp lý thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả dạyhọc các chủ đề nói trên trong dạy học môn Toán ở các lớp 3,4,5.7. Những đóng góp mới của luận văn- Làm rõ được cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng phương pháptrực quan trong dạy toán ở tiểu học.- Xây dựng được yêu cầu cơ bản khi vận dụng phương pháp trực quantrong dạy học chủ đề diện tích và thể tích ở tiểu học.- Đề xuất được phương án thiết thực, khả thi khi vận dụng phương pháptrực quan trong dạy học chủ đề diện tích và thể tích ở Tiểu học.PHẦN NỘI DUNGCHƢƠNG 1CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI1.1. Một số khái niệm cơ bản1.1.1. Phƣơng pháp dạy học1.1.1.1. .1. Khái niệm:Thuật ngữ “phương pháp” trong tiếng Hy Lạp là “Méthodos” có nghĩalà con đường, cách thức hoạt động nhằm đạt được mục đích nhất định.Vấn đề phương pháp được đề cập sớm và khá nhiều trong Triết học,trong đó có hướng tiếp cận của G.Hêghen [1770-1831] và C.Mác [18181883]. Cả hai hướng tiếp cận này đều rất có ý nghĩa cho việc lựa chọn và sửdụng phương pháp, phương tiện trong dạy học.Theo G.Hêghen: “ phương pháp là hình thức tự vận động bên trongcủa nội dung” . Nghĩa là, mỗi sự vật đều có bản chất của nó và được thể hiệnqua những hình thức nhất định, hình thức không bao giờ tồn tại tách rời nộidung và đồng thời nội dung cũng không tách rời hình thức vận động của nó.Mỗi sự vật trong quá trình tồn tại đều gắn với một hình thức vận động đặctrưng. Vận dụng cách tiếp cận về phương pháp của G.Hêghen vào dạy họccho ta phương pháp luận rất quan trọng. Mỗi nội dung dạy học sẽ có mộtphương pháp đặc thù mang lại hiệu quả cao nhất mà không thể thay thế bằngcác phương pháp khác. Do đó không thể nói rằng phương pháp dạy học nàytốt, PPDH kia không tốt mà cần phải xác định, với nội dung này thì PPDHphù hợp với nó là gì? Cách tiếp cận của G.Hêghen cho thấy, muốn xác địnhvà sử dụng PPDH tối ưu, trước hết phải trả lời câu hỏi dạy cái gì? Sau đó mớiđến câu hỏi dạy như thế nào? Tức là cách dạy phải luôn phù hợp với nội dungdạy học. Sự thay đổi nội dung sẽ dẫn đến thay đổi PPDH và hình thànhphương thức dạy học mới.Cũng về vấn đề phương pháp, theo cách tiếp cận của C.Mác thì C.Máccho rằng: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuấtra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào với tư liệu lao động nào”.Mỗi hoạt động đều có cấu trúc ba thành phần: chủ thể hoạt động; đối tượng vàtư liệu [phương tiện] lao động, trong đó, phương pháp và phương tiện làthước đo trình độ lao động. Cách tiếp cận này của C.Mác cho ta thấy trongdạy học, phương pháp có tính độc lập tương đối với nội dung và trình độ, hiệuquả của hoạt động. Dạy học được quyết định bởi phương pháp và phương tiệndạy học. Ngoài ra, đối với một nội dung dạy học sẽ có nhiều phương pháp đểtriển khai, trong đó luôn có một phương pháp tốt nhất. Vì vậy, muốn đạt hiệuquả cao trong dạy học phải trả lời được câu hỏi: phương pháp nào tối ưu nhất?Phương tiện nào là tốt nhất trong quá trình chuyển tải nội dung bài dạy đếnvới người học?Lịch sử mấy chục năm gần đây nghiên cứu về vị trí vai trò của phươngpháp dạy học đã cho thấy PPDH có vai trò quan trọng to lớn, nó là một trongnhững mắt xích quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng dạyhọc.Trong các tài liệu về lí luận dạy học có nhiều quan niệm khác nhau vềPPDH, mỗi một quan niệm phản ánh sự phát triển nhận thức của các nhà khoahọc, các nhà sư phạm về bản chất, khái niệm PPDH ở mỗi thời kì xác định.* Theo quan điểm của nhà Triết học Anh P.Bêcơn [1561-1626] , ông đãví phương pháp như ngọn đèn lớn soi sáng cho con người đi trong đêm tối.Ông nói rằng: người thọt mà đi đúng đường sẽ đến đích trước người khoẻchân mà chạy lạc đường.* Quan điểm của các nhà giáo dục Việt Nam: Cũng như các nhà giáodục nước ngoài, các nhà giáo dục Việt Nam khi nghiên cứu về phương phápdạy học cũng đưa ra các định nghĩa, các quan điểm khác nhau:- Theo TS. Nguyễn Văn Cường “Các PPDH theo nghĩa rộng là nhữnghình thức và cách thức hoạt động của GV và HS trong những điều kiện dạyhọc xác định nhằm đạt mục tiêu dạy học”- Theo PGS.TS Trần Kiều: “ Phương pháp dạy học là một hệ thống tácđộng liên tục của giáo viên nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và thực hànhcủa học sinh để học sinh lĩnh hội vững chắc các thành phần của nội dung giáodục nhằm đạt được mục tiêu đã định.”- Theo G.S Nguyễn Bá Kim: “PPDH là cách thức hoạt động và giaolưu của thầy gây nên những hoạt động và giao lưu cần thiết của trò nhằm đạtđược mục đích dạy học”- Còn tác giả Lê Nguyên Long cho rằng PPDH là con đường, là cáchthức, là hoạt động phối hợp thống nhất giữa giáo viên và học sinh, do giáoviên tổ chức và chỉ đạo, nhằm đạt tới mục đích dạy học- giáo dục xác định.Qua một số quan điểm trên, ta thấy có nhiều quan điểm khác nhau vềphương pháp dạy học, song dù ở cấp độ nào thì các tác giả cũng cho ta thấyđược phương pháp giúp con người nhận thức được hiện thực khách quan vàđảm bảo chất lượng, hiệu quả của các hoạt động thực tiễn. không có phươngpháp, con người sẽ hoạt động không có hiệu quả. Trong dạy học càng cầnphải có phương pháp, vì phải làm cho học sinh tiếp thu kiến thức bằng conđường ngắn nhất, với sự nỗ lực của bản thân mình, dưới sự hướng dẫn giảngdạy của giáo viên. Vì thế PPDH chính là hoạt động giao lưu giữa thầy và trònhằm đạt được mục tiêu giáo dục đã đề ra.PPDH không phải là một thực thể độc lập, tồn tại vì mục đích tự thânmà chỉ là hình thức vận động của một hoạt động đặc thù: hoạt động dạy học.Qua việc phân tích các quan niệm về PPDH, chúng tôi hiểu và quan niệm vềPPDH như sau: Phương pháp dạy học là cách thức ,là con đường tiến hànhcác hoạt động của người dạy và người học nhằm thực hiện một nội dung dạyhọc nhất định.1.1.1.2. Đặc điểm của phƣơng pháp dạy học:Để lựa chọn PPDH thích hợp đối với bài dạy học, giáo viên có thể dựavào các cơ sở sau đây:* Căn cứ vào mục tiêu của bài dạy.Mỗi bài, tuỳ theo mục tiêu, có thể được tiến hành bằng PPDH thíchhợp. Mỗi bài dạy thường có nhiều mục tiêu cụ thể. Ứng với một mục tiêu lạiđược thực hiện bằng một hay một số PPDH nhất định.* Căn cứ vào nội dung của bài dạy.Về mặt nguyên tắc, đối tượng[nội dung] khác nhau thì phương pháptiếp cận cũng khác nhau. Đối tượng thay đổi thì phương pháp cũng phải thayđổi. Do đó, không có PPDH nào thích hợp với tất cả mọi nội dung dạy học.Vì vậy PPDH , phải căn cứ vào vị trí của từng bài trong logic cấu trúc củachương trình, vào trọng tâm của từng bài, từng tiết, vào từng đơn vị kiến thứctrong bài học và mà lựa chọn PPDH khác nhau.* Căn cứ vào các giai đoạn của quá trình nhận thức.Quá trình nhận thức, về cơ bản thường có ba giai đoạn: “Tiếp nhậnthông tin” - “Xử lí thông tin”- “Vận dụng thông tin”. Mỗi giai đoạn có thểtương ứng với những PPDH nhất định: phương pháp “nhập đề” vào bài khácvới triển khai các đơn vị kiến thức mới, củng cố, ôn tập, làm bài tập…* Căn cứ vào đặc điểm đối tượng học sinhDạy học phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, dạy sát với đốitượng, đảm bảo tính vừa sức cũng là một cơ sở để giáo viên lựa chọn PPDHthích hợp. Điều này đòi hỏi giáo viên phải nắm vững trình độ, năng lực củahọc sinh về kiến thức, kĩ năng; về đặc điểm tư duy, tâm- sinh lí lứa tuổi; vềvốn kiến thức thực tế tích luỹ trong cuộc sống; tập quán- thói quen của thànhphần dân tộc…. Chỉ trên cơ sở đó, giáo viên mới dự kiến sử dụng PPDH nàođể có thể kích thích được nhu cầu và hứng thú khám phá, tiếp nhận tri thứccủa học sinh.* Căn cứ vào hình thức tổ chức và phương tiện dạy họcTùy thuộc vào điều kiện cụ thể mà các giáo viên có thể sử dụng cácphương pháp dạy học khác nhau nhằm thực hiện mục đích dạy học đề ra.Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, các thếhệ máy tính mới đã ra đời, những quyển sách điện tử đang dần thay thế chonhững loại sách truyền thống, một số nhà trường ở nước ta cũng đã trang bịcác phương tiện dạy học hiện đại. Tất nhiên khi sử dụng các phương tiện nàytrong dạy học [chẳng hạn như máy vi tính, máy chiếu, projector…] các giáoviên phải thay đổi phương pháp dạy học của mình cho phù hợp và có hiệuquả.Bên cạnh đó, việc sử dụng các phương pháp dạy học còn phụ thuộc vàocác hình thức tổ chức dạy học. Nhìn chung, các phương pháp dạy học chỉ pháthuy tối đa ưu điểm của mình khi được sử dụng phối hợp với nhau một cáchhợp lý và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.* Căn cứ vào điều kiện vật chất của việc dạy học.Đây là những yếu tố, tuy không quyết định, nhưng cũng có ảnh hưởngnhất định đến việc lựa chọn PPDH. Chẳng hạn như: tài liệu, phương tiện[ máytính, máy chiếu ....], số lượng học sinh, thời gian, địa điểm…* Căn cứ vào năng lực, kinh nghiệm của giáo viênViệc lựa chọn phương pháp vừa có tính khách quan lại vừa có tính chủquan. Các nhà sư phạm đều có thể dễ dàng mô tả phương pháp dạy học trựcquan song sử dụng phương pháp này sao cho có hiệu quả quả tốt nhất, phầnlớn phụthuộc vào năng lực, kinh nghiệm của mỗi người. Vì vậy, mỗi giáo viên cần phảikhông ngừng nâng cao trình độ của mình để có thể phối hợp tối ưu cácphương pháp dạy học trong giảng dạy.Lựa chọn PPDH nào , thì điều quan trọng nhất chính là ở chỗ PPDH đóphải “Phát huy được tính tích cực, tự giác,chủ động, sáng tạo của học sinh;phù hợp với đặc điểm của từng lớp, từng môn học; bồi dưỡng phương pháp tựhọc, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tìnhcảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”[Luật Giáodục.2005.Điều 28]1.1.1.3. .3. Hệ thống các phƣơng pháp dạy học:Có nhiều cách phân loại các phương pháp dạy học. Đứng trên nhữnggóc độ nhìn nhận khác nhau về phương pháp dạy học, các nhà giáo dục lạiđưa ra các cách phân loại phương pháp dạy học khác nhau. Chúng ta có thểkhái quát về hệ thống các phương pháp dạy học hiện nay như sau:Theo các nhà giáo dục Việt Nam thì các tác giả đã đưa ra một vài cáchphân loại hệ thống các PPDH như sau:* Dựa vào chức năng của PPDH, tác giả Đặng Vũ Hoạt đã chia hệthống PPDH thành các nhóm phương pháp:+ Chức năng truyền thụ tri thức bằng ngôn ngữ [lời nói và chữ viết] làchủ yếu ta có các phương pháp: phương pháp thuyết trình, phương pháp vấnđáp, phương pháp nghiên cứu tài liệu.+ Chức năng truyền thụ tri thức dựa vào hình ảnh trực quan là chủ yếuta có: phương pháp quan sát và phương pháp trình bày trực quan.+ Chức năng truyền thu tri thức thông qua hoạt động thực hành là chủyếu ta có: phương pháp làm thí nghiệm, phương pháp luyện tập, phương phápôn tập.+ Kiểm tra, đánh giá với tư cách là phương pháp dạy học.* Theo GS. Nguyễn Bá Kim việc phân loại hệ thống các phương phápdạy học như hiện nay là chưa hoàn chỉnh và chưa được thống nhất. Với nhữngphương diện khác nhau ta có những cách phân loại PPDH khác nhau, việcphân loại PPDH theo một logic chặt chẽ là một việc làm không cần thiết, màvấn đề quan trọng là người GV có biết xem xét các phương diện khác nhau,thấy được những PPDH về từng phương diện đó, để lựa chọn, sử dụng nhữngphương pháp cho đúng lúc, đúng chỗ và biết vận dụng phối hợp các phươngpháp trong các phương pháp đó khi cần thiết. Có thể trình bày các PPDHtheo các phương diện sau:- Những chức năng điều hành quá trình dạy học [đảm bảo trình độ xuất phát,hướng đích và gợi động cơ, làm việc với nội dung mới, củng cố, kiểm tra vàđánh giá, hướng dẫn công việc nhà]+ Những con đường nhận thức [suy diễn, quy nạp]+ Những hình thức hoạt động bên ngoài của thầy và trò [GV thuyếttrình; thầy - trò vấn đáp; HS hoạt động độc lập]+ Những mức độ tìm tòi khám phá [truyền thụ tri thức dưới dạng cósẵn, dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề]+ Những hình thức tổ chức dạy học: căn cứ vào số lượng HS trongđơn vị học tập ta có các hình thức: dạy học theo lớp,dạy học theo nhóm, dạyhọc từng cặp.Mặt khác, trong quá trình dạy học tùy từng đối tượng HS khác nhaumà người ta phân biệt dạy học đồng loạt với dạy học phân hoá. Dạy học phânhoá lại được phân chia thành dạy học phân hoá nội tại [phân hoá trong] vàdạy học phân hoá về tổ chức [phân hoá ngoài].Trong các hình thức dạy họcphân hoá ngoài, ta có thể kể hoạt động ngoại khoá,lớp chuyên môn, nhóm HSyếu kém.....+ Những phương tiện dạy học [sử dụng phương tiện nghe nhìn, sửdụng phương tiện chương trình hoá, làm việc với SGK, làm việc với bảngtreo, sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông như công cụ dạy học].+ Những tình huống dạy học điển hình: dạy học những khái niệm toánhọc, dạy học những quy tắc, phương pháp; dạy học giải bài tập toán học.+ Những hình thức tự học: đọc sách; tự tìm kiếm thông tin trong môitrường công nghệ thông tin và truyền thông; học thầy, học bạn, học tậpchuyên gia.Hiện nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu nhưng người ta vẫnchưa thoả đáng về vấn đề phân loại PPDH.1.1.2. Kĩ thuật dạy học1.1.2.1. .1. Khái niệmTrong khi phương pháp dạy học được xem là cách thức hành động cótrình tự, phối hợp tương tác với nhau của giáo viên và của học sinh nhằm đạtđược mục đích dạy học thì kĩ thuật dạy học được hiểu như thế nào?Theo Từ điển Giáo dục học thì “ Kĩ thuật dạy học là tổng thể cácphương pháp sư phạm của nhà giáo dùng để truyền thụ những kiến thức vàgiúp cho phát triển nhân cách học sinh”.Tác giả GS. Bernd Meier- TS Nguyễn Văn Cường thì cho rằng: “Kĩthuật dạy học là những biện pháp, cách thức, hành động của GV và HS trongcác tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạyhọc”.Từ các định nghĩa như trên chúng ta có thể hiểu: Kĩ thuật dạy học lànhững thao tác, hành động của GV và HS trong các tình huống vận dụngphương pháp dạy học cụ thể nhằm đạt được mục đích dạy học.Các kĩ thuật dạy học chưa phải là PPDH độc lập mà chỉ là thành phầnnhỏ của PPDH, là đơn vị nhỏ nhất của PPDH. Việc GV nắm vững PPDH vàcác kĩ thuật dạy học tương thích của các PPDH là một trong những điều kiệnquan trọng để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của quá trình dạy họcđáp ứng với mục tiêu đề ra.1.1.2.2 Hệ thống các kĩ thuật dạy họcTrong quá trình dạy học, với mỗi PPDH cụ thể có các kĩ thuật dạy học[ KTDH] đặc thù được sử dụng tương ứng, cũng có những kĩ thuật dạy họcdùng trong nhiều phương pháp khác nhau. Có nhiều các KTDH, theo các tàiliệu về lí luận dạy học trong nước hiện nay, có nhóm các KTDH như sau:- Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Châu, PGS.TS Vũ Quốc Chung, TSNguyễn Thị Sơn có một số KTDH như: kĩ thuật luyện tập và thực hành, kĩthuật ôn tập, kĩ thuật đặt câu hỏi, kĩ thuật giao bài tập về nhà.- Còn tác giả Phan Trọng Ngọ giới thiệu một số kĩ thuật dạy học như kĩthuật giải thích, kĩ thuật trình diễn, kĩ thuật sử dụng câu hỏi, kĩ thuật sử dụngcác phương tiện dạy học.- Theo “Tài liệu Hội thảo tập huấn Phát triển năng lực thông quaphương pháp và phương tiện dạy học mới” của GS.Bernd Meier- TS NguyễnVăn Cường còn có các kĩ thuật dạy học được sử dụng trong các PPDH theohướng tích cực như: kĩ thuật động não, kĩ thuật tia chớp,kĩ thuật lược đồ tưduy, kĩ thuật phòng tranh, kĩ thuật 635, kĩ thuật bể cá,…..Cũng như PPDH, KTDH là một khái niệm vẫn còn nhiều quan điểmkhác nhau trong việc đưa ra định nghĩa chính xác cũng như hệ thống phânloại. Việc hệ thống hoá các KTDH như trên chỉ có tính chất tương đối, nhằmgợi ra cho giáo viên có ý tưởng kết hợp nhiều kĩ thuật dạy học khác nhau trongdạy học. GV có thể chủ động lựa chọn và áp dụng những kĩ thuật dạy họcthích hợp nhất nhằm nâng cao chất lượng dạy học .1.1.3. Phƣơng tiện dạy học1.1.3.1. .1. Khái niệmTrong lý luận dạy học, vấn đề phương tiện dạy học[PTDH] cũng giốngnhư PPDH và KTDH còn nhiều tranh luận. Phần vì mỗi nhà lý luận lại có mộtquan niệm riêng về vấn đề này, phần vì do có sự tác động nhanh chóng vàmạnh mẽ của khoa học công nghệ vào trong dạy học vì thế nó làm thay đổinhững quan niệm đã có.Theo từ điển tiếng Việt [ Hoàng Phê chủ biên, Hà Nội – Đà Nẵng1997], thì Phƣơng tiện là: “ Cái dùng để làm một việc gì, để đạt được mộtmục đích nào đó”Theo tác giả Nguyễn Bá Kim, khái niệm PTDH được được hạn chế ởnhững thiết bị có khả năng chứa đựng hoặc truyền tải những thông tin về nộidung dạy học và về sự điều khiển quá trình dạy học. Mô hình, hình vẽ, SGK,phiếu học tập, máy vi tính...là những ví dụ về PTDH. Bàn, ghế, ...không phảilà PTDH theo đúng nghĩa này, bởi vì chúng không có khả năng chứa đựnghay chuyển tải thông tin liên quan đến chương trình dạy học.Tác giả Vũ Trọng Rỹ quan niệm: Thiết bị dạy học hay phương tiện dạyhọc, đồ dùng dạy học là thuật ngữ chỉ một đối tượng vật chất hoặc một tậphợp đối tượng vật chất mà người giáo viên sử dụng với tư cách là phương tiệnđiều khiển hoạt động nhận thức của học sinh, còn đối với học sinh thì đó lànguồn tri thức, là phương tiện giúp học sinh lĩnh hội các khái niệm, định luật,thuyết khoa học, hình thành ở họ các kĩ năng, kĩ xảo đảm bảo việc thực hiệnmục tiêu dạy học.“Phương tiện dạy học là những công cụ mà thầy giáo và học sinh sửdụng trong quá trình dạy học nhằm đạt được mục tiêu dạy học” – Thái DuyTuyên.Theo Phan Trọng Ngọ: “Phương tiện dạy học là toàn bộ sự vật, hiệntượng trong thế giới, tham gia vào quá trình dạy học, đóng vai trò là công cụhay điều kiện để giáo viên và học sinh sử dụng là khâu trung gian tác độngvào đối tượng dạy học. PTDH có chức năng khơi dậy, dẫn chuyền và làm tăngsức mạnh tác động của người dạy và người học đến đối tượng dạy học”.Qua một số quan niệm trên ta thấy các tác giả biểu đạt thuật ngữ PTDHtheo các cách khác nhau song đều có một quan điểm chung : là những công cụđược sử dụng hỗ trợ giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học.Từ những quan niệm trên, chúng tôi khái quát về PTDH như sau: PTDHlà những phương tiện vật chất cần thiết để giáo viên và học sinh sử dụng trongquá trình dạy học nhằm đạt được mục đích dạy học.1.1.3.2. Phương tiện dạy họcNhư đã nêu ở trên, PTDH đóng vai trò là công cụ, là điều kiện để giáoviên và học sinh sử dụng trong hoạt động dạy học.Phương tiện dạy học bao gồm các mô hình , tranh ảnh, dụng cụ, băng đĩa ghiâm, ghi hình, phần mềm dạy học[PMDH], máy tính, máy chiếu....Ngày nay, khi khoa học công nghệ phát tiển mạnh mẽ, có nhiều PTDHmới ra đời. Việc ứng dụng hay tích hợp các ứng dụng của công nghệ thông tinnhằm hỗ trợ cho việc dạy học có hiệu quả hơn rất nhiều so với việc sử sụngcác PTDH truyền thống như : tranh ảnh, thí nghiệm.... Các PTDH mới này córất nhiều tên gọi khác nhau như: Bài học điện tử, thiết bị điện tử, PTDH ảo...Để đạt được mục đích dạy học, việc vận dụng các phương pháp dạyhọc không thể tách rời việc sử dụng các phương tiện dạy học, trong đó có cácphương tiện trực quan[PTTQ]. Do đó khi nói đến phương pháp dạy học là nóiđến PTTQ và cách sử dụng nó trong các khâu của quá trình dạy học.1.1.3.3. Phương tiện trực quanĐể có hình ảnh trực quan về sự vật, một mặt cần có sự hoạt động củacon người; mặt khác sự vật ấy phải tác động phù hợp với cơ quan cảm giác vànằm trong vùng ngưỡng của nó. Tuy nhiên, hoạt động nhận thức của conngười nói chung, trong dạy học nói riêng không phải bao giờ và lúc nào chủthể cũng tác động trực tiếp nên đối tượng nhận thức[ đối tượng học tập];không phải bao giờ đối tượng nhận thức cũng xuất hiện trong khả năng cảmnhận của các giác quan của chủ thể. Trong trường hợp các sự vật quá nhỏ[ nguyên tử, điện tử, vi sinh vật], hoặc những chuyển động có bước sóng quángắn[ sóng , ánh sáng, siêu âm] hoặc các vật thể ở quá xa với tri giác mắt củacon người thì con người không thể trực tiếp cảm nhận được chúng. Khi đó,chủ thể nhận thức phải dựa vào các phương tiện trung gian, thông qua cácphương tiện này mà chủ thể có được hình ảnh trực quan về đối tượng. Cácphương tiện trung gian có chức năng làm cho các giác quan của chủ thể được“ mở rộng” và “ nối dài” hơn, tạo điều kiện cho con người nhận thức được sâusắc và đầy đủ về thế giới khách quan.Như vậy trong trường hợp con người không thể “ đến tận nơi ” để sờmó đối tượng hoặc tiếp xúc đối tượng rất tốn kém, ta có thể sử dụng vật thaythế cho đối tượng như tranh ảnh, mô hình, sơ đồ... để diễn tả và biểu diễnchúng. Những phương tiện như vậy có thể gọi chung là “ phương tiện trựcquan” trong nhận thức.Trong dạy học có nhiều cách để tạo ra hình ảnh và biểu tượng trựcquan, người giáo viên có thể sử dụng những kinh nghiệm đã được hình thànhtrong quá trình sống của HS; trong trường hợp khác người giáo viên có thể sửdụng những lời nói giàu hình ảnh để giúp người học sử dụng các biểu tượngđã có mà hình thành các biểu tượng mới.Phương tiện trực quan là những phương tiện được sử dụngtrong hoạt động dạy học, có vai trò là công cụ để giáo viên và học sinh tácđộng vào đối tượng; có chức năng khơi dậy, dẫn chuyền, tăng cường khả nănghoạt động của các giác quan, góp phần tạo nên chất liệu cảm tính của đốitượng nhận thức nhằm đạt được các mục đích dạy học cụ thể.1.1.4. Phƣơng pháp trực quan1.1.4.1. .1. Khái niệmPhương pháp dạy học trực quan là một PPDH được nhiều tác giả trong vàngoài nước quan tâm nghiên cứu. Theo Đặng Thành Hưng, trong mười hai hệthống PPDH hiện tại, PPDH trực quan xếp vào “ hệ thống có lịch sử lâu dàinhất nhưng đến nay vẫn ngự trị trong trường phổ thông”[tr 13]Vì được nghiên cứu và sử dụng trong nhiều hoàn cảnh và điều kiện khácnhau nên PPDH trực quan lại có nhiều cách hiểu và tên gọi khác nhau. Theotác giả Đặng Thành Hưng thì nhóm các phương pháp dạy học trực quan baogồm: Thị phạm[ biểu diễn, làm mẫu, cho xem phim, tranh ảnh, biểu đồ]; quansát độc lập[ quan sát thí nghiệm, theo dõi tình huống]; thăm quan[ nội khóa vàngoại khóa]. Các tác giả Nguyễn Ngọc Bảo, Hà Thị Đức; Hà thế Ngữ, ĐặngVũ Hoạt thì cho rằng phương pháp trực quan bao gồm phương pháp trình bàytrực quan và phương pháp quan sát. Còn tác giả Phạm Viết Vượng cho rằng,PPDH trực quan bao gồm các phương pháp minh họa, biểu diễn thí nghiệm vàquan sát.Khái quát hóa các nghiên cứu về PPDH trực quan cho ta thấy: có hai quanniệm khác nhau về PPDH trực quan.Quan niệm thứ nhất coi PPDHTQ là phương pháp trình bày các phươngtiện trực quan của GV và PP của HS quan sát các PTTQ đó. Khi GV trình bàycác PTTQ để minh họa tri thức thì HS theo dõi, quan sát việc trình diễn cácPTTQ của GV một cách tích cực, nhằm thu hút được nhiều hình ảnh vềchúng. Ngày nay đã có nhiều đổi mới về kĩ thuật, giới thiệu, trình bày PTTQcủa GV và các yêu cầu đối với HS khi quan sát nhưng về cơ bản sự phối hợpgiữa quan sát của HS với trình bày trực quan có kết hợp với ngôn ngữ của GVvẫn là đặc trưng cơ bản của PPTQ theo quan niệm này.Quan niệm thứ hai về phương pháp dạy học trực quan [PPDHTQ] gắnliền với triết học biện chứng và tâm lý học hiện đại về nhận thức. Xuất phát từ

Video liên quan

Chủ Đề