So sánh ngân hàng nhà nước việt nam và fed

Ngày 15/6, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ [FED] chính thức tăng lãi suất cơ bản 0,75 điểm phần trăm, mức tăng mạnh nhất trong gần 30 năm.

Ngay sau hành động trên của FED, một loạt ngân hàng trung ương các nước có quyết định tương tự. Ngân hàng Trung ương Anh thực hiện tăng lãi suất lần thứ 5 liên tiếp, trong khi đó, lần đầu tiên sau 15 năm, Ngân hàng trung ương Thuỵ Sỹ cũng thực hiện tăng lãi suất.

Ngân hàng trung ương châu Âu [ECB] cũng xác nhận sẽ dừng chương trình mua trái phiếu đã áp dụng gần một thập kỷ qua kể từ ngày 1/7, đồng thời, đánh tín hiệu sẽ thực hiện nhiều đợt tăng lãi suất từ tháng 7 tới trong bối cảnh lạm phát tăng kéo dài.

Trước đó, chỉ riêng trong tháng 5/2022 đã có 144 lượt tăng lãi suất của các đồng tiền trên thế giới. Các chuyên gia cho rằng, việc FED tăng lãi suất với biên độ lớn như hiện nay sẽ đẩy mạnh thêm xu hướng này và gây áp lực lên lãi suất đồng tiền của nhiều quốc gia.

Trong bối cảnh lạm phát và lãi suất đang có xu hướng tăng trên toàn cầu, giới phân tích trong nước cũng bắt đầu đề cập nhiều hơn về khả năng Ngân hàng Nhà nước tăng lãi suất điều hành trong thời gian tới.

Theo nhóm nghiên cứu tại HSBC, trạng giá năng lượng cao và kéo dài sẽ tiếp tục đẩy giá cả chung đi lên, khiến lạm phát Việt Nam sẽ có lúc vượt trần 4% trong nửa sau năm 2022.

''Với tình hình này, Ngân hàng Nhà nước có thể phải tăng lãi suất thêm 0,5 điểm phần trăm trong quý 3/2022, trước khi tăng lãi suất ba lần [mỗi lần 0,25 điểm phần trăm] trong năm 2023'', HSBC phán đoán.

Công ty Chứng khoán Maybank Kim Eng [MBKE] cũng cho rằng, Ngân hàng Nhà nước sẽ thắt chặt tiền tệ thông qua tăng lãi suất 0,5 điểm phần trăm để duy trì tăng trưởng vừa phải; tuy nhiên, viễn cảnh này có thể diễn ra vào các tháng cuối năm 2022. 

“Mức tăng 0,50 điểm phần trăm sẽ đưa lãi suất tái cấp vốn lên 4,5%, mức vẫn còn phù hợp theo các tiêu chuẩn lịch sử, khi so với tỷ lệ này trước khi xảy ra đại dịch cho đến tháng 2/2020 là 6%”, MBKE nêu quan điểm.

Còn theo Công ty Chứng khoán VnDirect, việc FED đẩy nhanh lộ trình tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát, dư địa để Ngân hàng Nhà nước duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng đang ngày một thu hẹp. Đối với lãi suất điều hành, nếu có bất kỳ đợt tăng nào trong năm nay thì khả năng cao sẽ diễn ra vào quý 4/2022 và mức tăng [nếu có] sẽ hạn chế, khoảng 0,25-0,5 điểm phần trăm.

Lý giải động thái thận trọng trong điều hành quy mô tiền đồng đối với nền kinh tế của Ngân hàng Nhà nước, các chuyên gia đưa ra 3 nhóm nguyên nhân. 

Thứ nhất, mặc dù áp lực lạm phát trong nước dự kiến sẽ gia tăng trong những tháng tới, nhưng chỉ số giá tiêu dùng bình quân nửa đầu năm 2022 dự báo ở mức 2,5% so với cùng kỳ, thấp hơn nhiều so với mục tiêu của Chính phủ là 4%.

Thứ hai, tổng cầu trong nước vẫn yếu và chưa phục hồi hoàn toàn về mức trước đại dịch.

Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước vẫn ưu tiên mục tiêu duy trì lãi suất cho vay thấp để hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế phục hồi.

Thừa nhận sức ép tăng lãi suất đang rất lớn nhưng tại một sự kiện gần đây, Phó Thống đốc Đào Minh Tú cho biết, từ đầu năm 2022 đến nay, mặt bằng lãi suất và tỷ giá VND/USD sẽ được hệ thống ngân hàng giữ ở mức ổn định.

Trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước vẫn sẽ tiếp tục giữ nguyên các mức lãi suất điều hành nhằm tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn từ Ngân hàng Nhà nước với chi phí thấp, qua đó có điều kiện giảm lãi suất cho vay hỗ trợ khách hàng phục hồi sản xuất - kinh doanh.

“Điều quan trọng hiện nay là dù áp lực lớn, nhưng ngành ngân hàng vẫn đang điều hành chính sách tiền tệ một cách chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối, đồng thời sẵn sàng cung ứng đủ nguồn vốn cho quá trình phục hồi và phát triển kinh tế”, ông Đào Minh Tú nói.

Tại cuộc họp ngày 14-15/06/2022, Ủy ban Thị trường Mở Liên bang [FOMC] đã quyết định tăng lãi suất điều hành thêm 75 điểm cơ bản lên biên độ mới từ 1,5% đến 1,75%. Quyết định tăng thêm 0,75% đánh dấu mức tăng mạnh nhất được thực hiện trong một cuộc họp duy nhất kể từ tháng 11/1994.

Về lộ trình tăng lãi suất tiếp theo, các thành viên FOMC dự báo lãi suất điều hành có thể tăng lên mức 3,1-3,6% vào cuối năm 2022 [cao hơn 1,5% so với ước tính hồi tháng 3] và lên 3,6-4,1% vào năm 2023 [cao hơn 1% so với dự báo trước đó].

NĂM TÁC ĐỘNG LỚN TỪ CHÍNH SÁCH FED ĐẾN KINH TẾ VIỆT NAM

Theo đánh giá của VnDiret, sẽ có năm tác động lớn từ chính sách của FED đến nền kinh tế Việt Nam. Thứ nhất, tình hình tài chính toàn cầu thắt chặt hơn làm giảm triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế thế giới, dẫn đến nhu cầu đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn. Việc Fed thắt chặt chính sách tiền tệ sẽ làm tăng lãi suất cho vay [bằng đồng USD] từ đó làm giảm nhu cầu tiêu dùng của người dân cũng như làm suy yếu nhu cầu mở rộng đầu tư của các doanh nghiệp.

Do đó, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam có thể sẽ chậm lại trong những quý tới do người tiêu dùng tại các thị trường xuất khẩu chủ chốt như Mỹ và châu Âu thắt chặt chi tiêu.

Thứ hai, lãi suất huy động [bằng VND] chịu áp lực tăng trong những tháng cuối năm. Tính đến cuối tháng 5/2022, lãi suất huy động kỳ hạn 3 tháng và kỳ hạn 12 tháng của các ngân hàng quốc doanh không đổi so với mức cuối năm 2021 trong khi lãi suất tiền gửi kỳ hạn 3 tháng và lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng của các ngân hàng tư nhân lần lượt tăng 20 điểm cơ bản và 23 điểm cơ bản so với mức cuối năm 2021.

Lãi suất huy động sẽ tiếp tục tăng từ giờ đến cuối năm 2022 do lãi suất USD tăng và áp lực lạm phát tại Việt Nam tăng cao trong những quý tới. Tuy nhiên, mức tăng sẽ không lớn với dự báo lãi suất từ nay tới cuối năm tăng thêm khoảng 30-50 điểm cơ bản. Lãi suất tiền gửi kỳ hạn 12 tháng của các ngân hàng thương mại có thể tăng lên 6,0-6,2%/năm vào cuối năm 2022 [hiện ở mức bình quân là 5,7%/năm], vẫn thấp hơn so với mức trước đại dịch là 7,0%/năm.

Thứ ba, lãi suất USD tăng gây áp lực lên nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam. Theo ước tính, nợ nước ngoài của Việt Nam chiếm 39% GDP vào cuối năm 2021. Trong bối cảnh thanh khoản trên thị trường tài chính quốc tế thắt chặt hơn, Chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam sẽ khó huy động vốn trên thị trường quốc tế và phải chịu lãi suất cao.

Thứ tư, về lý thuyết, dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài [FII] có thể bị tác động tiêu cực bởi “taper tantrum”. Tuy vậy, thị trường chứng khoán Việt Nam cũng đã chứng kiến một đợt giảm điểm mạnh trong hai tháng qua, kéo mặt bằng định giá các chỉ số chứng khoán về vùng hấp dẫn khi so sánh với lịch sử và các thị trường chứng khoán trong khu vực. Định giá hấp dẫn sẽ kích thích dòng vốn ngoại đổ vào thị trường Việt Nam và phần nào giảm thiểu tác động của “taper tantrum”.

Thứ năm, đồng USD mạnh gây áp lực lên tỷ giá hối đoái của Việt Nam. Vào ngày 14/06/2022, chỉ số đồng USD [đo sức mạnh của đồng USD so với rổ tiền tệ] đạt 104,7 điểm, mức cao trong vòng 20 năm qua. Đồng USD mạnh kéo tỷ giá USD/VND tăng 1,7% kể từ đầu năm. Tuy nhiên, VND vẫn là một trong những đồng tiền ổn định nhất khu vực. Các yếu tố cơ bản để giữ cho VND ổn định trong những năm gần đây vẫn được duy trì, bao gồm thặng dư thương mại cải thiện và dự trữ ngoại hối cao.

Kỳ vọng thặng dư thương mại tăng lên mức 7,2 tỷ USD trong năm 2022 từ mức 3,3 tỷ USD trong năm 2021. Thặng dư tài khoản vãng lai dự báo tăng lên mức 1,4% GDP vào năm 2022, từ mức thâm hụt 0,3% GDP vào năm 2021. Dự trữ ngoại hối của Việt Nam đạt 122,5 tỷ USD vào cuối năm 2022 [tương đương 3,9 tháng nhập khẩu].

Bên cạnh đó, giải ngân FDI tăng trưởng ổn định và nguồn kiều hối dồi dào cũng góp phần ổn định thị trường ngoại hối. Do đó, tỷ giá USD/VND tăng không quá 2% trong cả năm 2022.

DƯ ĐỊA ĐỂ NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC DUY TRÌ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ NỚI LỎNG

Với việc FED đẩy nhanh lộ trình tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát, VnDirect cho rằng dư địa để Ngân hàng Nhà nước duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng đang ngày một thu hẹp. Tuy vậy, Ngân hàng Nhà nước sẽ nỗ lực duy trì chính sách tiền tệ “phù hợp”, chưa vội thắt chặt chính sách ngay để hỗ trợ nền kinh tế phục hồi và ổn định thị trường vì mặc dù áp lực lạm phát trong nước dự kiến sẽ gia tăng trong những tháng tới, nhưng chỉ số giá tiêu dùng bình quân nửa đầu năm 2022 dự báo ở mức 2,5% so với cùng kỳ, vẫn thấp hơn nhiều so với mục tiêu của Chính phủ là 4%.

Ngoài ra, nhu cầu trong nước vẫn yếu và chưa phục hồi hoàn toàn về mức trước đại dịch và Ngân hàng Nhà nước vẫn ưu tiên mục tiêu duy trì lãi suất cho vay thấp để hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế phục hồi.

Đối với lãi suất điều hành, nếu có bất kỳ đợt tăng nào trong năm nay thì khả năng cao sẽ diễn ra vào quý 4/2022 và mức tăng [nếu có] sẽ hạn chế, khoảng 0,25-0,5%. Ngân hàng Nhà nước sẽ cho phép tăng trưởng tín dụng duy trì ở mức cao để hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế. Dòng vốn tín dụng sẽ được ưu tiên cho lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, đặc biệt là các lĩnh vực ưu tiên như công nghiệp, xuất nhập khẩu, nông, lâm, thủy sản.

Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước sẽ kiểm soát kỹ dòng vốn tín dụng vào các lĩnh vực rủi ro cao như bất động sản, chứng khoán và các dự án BOT [Xây dựng-Kinh doanh-Chuyển giao].

VnDirect duy trì quan điểm rằng tăng trưởng tín dụng duy trì mức cao 14% so với cùng kỳ trong năm 2022.

Về lãi suất cho vay, Ngân hàng Nhàn ước đang triển khai gói cấp bù lãi suất với tổng quy mô lên tới 43.000 tỷ đồn. Gói cấp bù lãi suất có thể giúp giảm mặt bằng lãi suất cho vay trung bình từ 20-40 điểm cơ bản trong năm 2022. Tuy nhiên, tác động thực tế của gói cấp bù lãi suất đối với doanh nghiệp và nền kinh tế có thể thấp hơn nếu các ngân hàng thương mại tăng lãi suất cho vay đối với các khoản vay thông thường khác để bù đắp việc tăng lãi suất huy động.

Video liên quan

Chủ Đề