Tại sao gọi là cầu giấy

Cầu Giấy ngày nay đã là một quận với 8 phường, nhưng cái tên của nó lại xuất phát từ một cây cầu rất bé nhỏ nằm trên đường Cầu Giấy, bắc ngang qua sông Tô Lịch, dòng sông hiện đã trở thành một… ống cống lớn của cả thành phố.

Đại Nam nhất thống chí triều Nguyễn có ghi: “Cầu dài 3 trượng, trên cầu có nhà lợp ngói ở huyện Từ Liêm, gọi tên là Giấy.” Như vậy cầu xây bằng gạch, trên lợp ngói, có thể sẽ chẳng kém gì cầu chùa Nhật Bản, một di tích nổi tiếng ở phố cổ Hội An hôm nay chăng?

Cầu Chùa ở Hội An. [Ảnh: Dalbera, Wikipedia, CC BY 1.0]

Tuy vậy, những hình ảnh về cây cầu này còn lại đến nay thì không thấy có lợp ngói. Hẳn là do phần kiến trúc phía trên đã bị mất đi qua bao dâu bể…

Hình ảnh còn lại về Cầu Giấy.

Cảm khái vì điều đó, người ta dễ sinh ra tò mò, muốn tìm hiểu về lịch sử cây cầu này. Và tất nhiên, câu hỏi đầu tiên nảy ra: Tên cầu vì sao lại đặt là “Giấy”?

Khu vực cây cầu được xây cũng là một cái nôi văn hiến, với những làng nghề cổ truyền: làng Giấy [Thượng Yên Quyết] từng có 9 tiến sĩ, làng Cót [Hạ Yên Quyết] cũng có 9 tiến sĩ, làng Nghĩa Đô [làng Nghè] 3 tiến sĩ, cử nhân tú tài thì lên đến hàng trăm người.

Nghề làm giấy ở Thượng Yên Quyết có từ thế kỷ thứ 13, trước cả vùng giấy Bưởi. Ngõ vào làng Giấy xưa ghi ‘chỉ tác’ nghĩa là làm giấy. Gần kề chiếc cầu này có chợ chuyên bán giấy do làng Hạ Yên Quyết [làng Cót] làm. Người dân trong vùng thường đem giấy bày bán ở chiếc cầu cổ nên cầu có tên là cầu Giấy.

Nghề làm giấy ở khu vực này cũng có truyền kỳ hết sức thú vị. Chuyện xưa kể rằng, ông tổ nghề giấy dó là Thái Luân từ Tàu sang đã đi suốt dọc ven sông Tô để dạy nghề. Thoạt tiên ông đến làng An Hòa – Thượng Yên Quyết toan truyền nghề cho dân. Song có người đối đãi với ông không tốt, ông bỏ đi lên vùng Bưởi, dạy nghề cho làng Hồ Khẩu, làng An Thọ, làng Đông Xã, làng Yên Thái, cuối cùng là Nghĩa Đô. Ở mỗi nơi ông dạy làm một loại giấy riêng.

Làng Hồ học được cách làm giấy bản, làng Đông học được cách làm giấy quỳ tức loại giấy vừa mỏng vừa dai để dân làng Kiêu Kỵ dùng lót dát vàng quỳ. Làng Yên Thái học được cách làm giấy lệnh, tức giấy bản tốt mà khổ lại lớn để viết lệnh chỉ của triều đình. Ở Nghĩa Đô có người họ Lại học được nghề làm giấy sắc là loại giấy dùng để viết thần sắc vua ban. Loại giấy này khi xeo xong còn phải “nghè” tức là đặt trên phiến đá rồi dùng vồ đập vào giấy cho giấy được thật mịn mặt và bền. Do đó làng này có tên là làng Nghè.

Lúc này dân làng An Hòa mới thấy ông là của quý nên cử bô lão lên Bưởi xin ông bỏ qua chuyện cũ mà dạy cho dân nghề nghiệp mới này. Cũng nể tình nhưng để tránh đụng chạm đến vùng Bưởi, ông chỉ dạy dân An Hòa cách dùng những thứ dó xấu, những đầu mẩu, đầu mặt – danh từ nghề nghiệp gọi là xề – để làm ra những loại giấy xề tức thứ giấy thô chỉ dùng phất quạt, làm hàng mã và gói hàng.

Và thế là từ khi có nghề này, làng Cót Thượng dần dần được gọi là làng Giấy, nhất là từ khi cái tên chữ Hán Thượng Yên Quyết được đổi ra là An Hòa thì không mấy ai nhớ đến cái gốc “Kẻ Cót” nữa. Từ đó, cái tên “làng Cót” chỉ chuyên dùng để chỉ làng Hạ Yên Quyết.

Cũng cần nói thêm rằng, cách cầu Giấy không xa là đền cổ Voi Phục thờ Linh Lang, trấn phía Tây kinh thành Thăng Long.

Đền Voi Phục xưa.

Thời xưa, khu vực cầu Giấy cũng là một địa điểm khẩn yếu. Học giả Nguyễn Vinh Phúc ghi chép lại:

Nguyên ở khu vực đầu phía Đông cây cầu vốn có một cửa của một tòa thành mà bức tường phía Tây chạy ven bờ trái sông Tô, từ chợ Bưởi xuống đến Cầu Giấy. Đó là tòa thành đất mà Lý Thái Tổ cho đắp từ năm 1014. Việt sử thông giám cương mục có ghi: “Năm Giáp dần [1014] đắp thành đất Thăng Long: bốn bề xung quanh ngoài kinh thành đều sai đắp thành đất”. Cái cửa phía Tây này có tên là Tây Dương. Cửa Tây Dương đã đi vào lịch sử với đoạn ghi sau đây của Đại Việt sử ký toàn thư: “Năm Mậu Thân [1128], tháng giêng, ngày Kỷ Sửu, biếm chức Đại liêu ban Lý Sùng Phúc vì khi đi qua cửa thành Tây Dương, tuần lại có hỏi mà không trả lời”. Đây là tòa thành mà nhiều nhà nghiên cứu gọi là vòng thành Đại La hoặc vòng thành ngoài mà đến đời Hồng Đức được xây gạch và vẽ trên bản đồ.

Như vậy là ở đời nhà Lý, nơi đây đã từng là một chốn canh gác rất nghiêm ngặt, đến nỗi quan to đi qua mà không đáp lời thì bị biếm chức.

Chính vì những ghi chép trên mà có người cho rằng, cầu Giấy trước đây còn có tên là cầu Tây Dương. Vậy thì cây cầu này còn góp mặt trong Đại Việt sử ký toàn thư nữa:

Ngày 22 tháng chín năm Bính Ngọ [1426] các tướng của Lê Lợi đem một vạn quân đến cầu Tây Dương để bao vây quân Minh ở thành Đông Quan.

Đến thế kỉ XVII [1679] có tấm bia “Trùng tu Tô Giang kiều bi ký” của Tiến sĩ Bùi Văn Trinh ghi như sau:

Xã Thượng Yên Quyết, thắng cảnh có cầu danh tiếng ở sông Tô. Phía đông cầu tiếp cận kinh thành văn vật, tụ hội thuyền xe xum vầy. Phía tây cầu thì xa xa là núi Tản Viên hình dáng lạ kỳ, anh linh hiển ứng. Sông Nhị vòng phía bắc, một dòng nước đi về. Miếu thần ở phía Tây Nam, người trong hạt được phồn thịnh. Bên cầu khách đang chén tạc chén thù, trên đường người qua, kẻ lại tấp nập. Thực là nơi ngoại ô lớn thông suốt bốn phương năm ngả trên đường thiên lý.

Văn bia cũng cho biết cầu kết cấu theo kiểu “thượng gia hạ kiều” – trên là nhà, dưới là cầu:

Cầu dài 15 gian như cánh nhạn vút qua trời thu hòa cùng non cao nước biếc, như cầu vồng ôm vòng dải Ngân Hà, một gác cao tỏa chiếu ánh hồng thịnh vượng, rực rỡ, thanh thoát. Trụ cầu vững vàng giữa dòng, đi trên ván cầu như đi trên đất bằng, trên lợp mái.

Như vậy thì cầu Giấy có kiến trúc thật đẹp, nhưng rất có thể vào thời điểm Pháp xâm chiếm Việt Nam, khoảng những năm 80 của thế kỷ 19 [cũng là thời điểm các bức ảnh về cây cầu được chụp], phần kiến trúc phía trên đã bị phá mất. Đó quả là một điều đáng tiếc.

Quang Minh

Tham khảo:

  • Bài viết “Từ các cửa ô Hà Nội đến Ô Cầu Giấy” [tusach.thuvienkhoahoc.com]

Xem thêm:

Mời xem video:

 Nằm ở cửa ngõ phía Tây của kinh thành Thăng Long xưa, Cầu Giấy là môt địa bàn chiến lược vô cùng quan trọng, là cứ điểm vòng ngoài rất lợi hại để tiến vào nội thành.

    Ngăn cách giữa vùng đất Cầu Giấy với nội thành Thăng Long xưa là dòng sông Tô Lịch. Dòng sông này hội lưu và phân lưu cùng nhánh Kim Ngưu thành một vùng ngã ba sông, một vùng thông lên vùng cửa hồ của Hồ Tây, còn dòng chảy xuôi thì võng xuống tận Nam Kinh thành, để rồi gặp lại sông mẹ làm nên tuyến hào nước. Đi từ cửa Tây của Hoàng Thành Thăng Long, cắt qua sông Tô Lịch, chạy thẳng lên xứ Đoài - Sơn Tây, ấy là tiền thân của tuyến đường Cầu Giấy, là hạt nhân hình thành vùng đô thị sầm uất ngày nay. Nối đường với sông là cây cầu mang tên Cầu Giấy.

 

    Sở dĩ mang tên Cầu Giấy vì thời xưa ở đây có ông tổ nghề làm giấy là người Trung Quốc đến đây truyền nghề làm giấy cho nhân dân khắp vùng. Làng Yên Hòa làm giấy thô, giấy gió, làng An Thái làm giấy bản, giấy lệnh, làng Nghĩa Đô làm giấy sắc phong.

                              Ai ơi đứng lại mà trông.

                           Kìa vạc nấu dó, kìa sông đãi bìa.

    Vào thế kỉ XVII, cây Cầu Giấy là một công trình kiến trúc “thượng gia hạ kiều”. Đây là kiểu cầu phổ biến ở nước ta thời xưa, dưới là cầu, trên là nhà cho khách qua đường dừng chân nghỉ ngơi. Cầu gồm 15 nhịp, dài 15 gian, nhạn bay qua tưởng là núi, ánh hồng rực rỡ tựa tòa lầu cao ngất [theo lời văn bia trùng tô Giang Kiều 1679].

    Cùng với sự trường tồn, cổ kính của kinh thành Thăng Long, vùng đất Cầu Giấy có một bề dày lịch sử rất đáng tự hào.

    Vào thời Bắc thuộc, vùng này vốn là vùng đất thuôc huyện Luy Lâu [đời Hán], từ đời Đường được tách ra đặt châu Từ Liêm. Đến đầu thời Gia Long đây là một phần của huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây. Thời Pháp thuộc, Từ Liêm thuộc tỉnh Hà Đông. Đến 1982, xã Dịch Vọng được tách ra một phần để thành lập thị trấn Cầu Giấy, và thị trấn này trở thành thủ phủ cho một huyện Từ Liêm rộng lớn ở ngoại thành phía Tây thủ đô Hà Nội, trước khi trở thành hạt nhân và chuyển hẳn tên gọi cho một quận mang tên Cầu Giấy.

    Ngày 01/9/1997 quận Cầu Giấy chính thức thành lập. Đây là một dấu mốc lớn đánh dấu quá trình phát triển, trưởng thành của vùng đất này. Cầu Giấy từ một vùng ven đô đã trở thành một quận nội đô.

    Trong suốt chặng đường dài đã qua đó, người Cầu Giấy đã chứng kiến nhiều thăng trầm của quê hương, đất nước.

    Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược đầu thế kỉ XV, Cầu Giấy là nơi tập kết quân quan trọng của nghĩa quân Lam Sơn cùng với những cánh quân khác tiến công chiếm lại Kinh Thành.

     Đến cuối thế kỉ XIX, khi thực dân Pháp mở rộng đánh chiếm Hà Nội thì Cầu Giấy là một trận địa, một chiến trường hiển hách. Trong hai lần thực dân Pháp mở rộng, tấn công ra Bắc Kì đánh chiếm Hà Nội thì cả hai lần đó chúng đều thảm bại tại Cầu Giấy [ lần 1: 1873, lần 2: 1883]. Quân ta do Hoàng Tá Viêm và Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy đã tổ chức hai trận phục kích nổi tiếng, tiêu diệt hầu hết quân địch, hai tướng giặc là Gacnier và Rivier đều bị chết thê thảm. Thắng lợi của ta trong hai trận đánh này đã gây khó khăn rất lớn cho thực dân Pháp trong việc mở rộng xâm chiếm Bắc kì. Hiện nay ngôi mộ tượng trưng của Gacnier vẫn còn ở Giảng Võ, còn mộ Rivier ở trước bưu điện Cầu Giấy, như một minh chứng cho những trang sử hào hùng của nhân dân ta cũng như nhân dân quận Cầu Giấy trong cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước.

    Cho đến những năm chuẩn bị cho cách mạng tháng Tám thì ở Yên  Hòa - Cầu Giấy đã có cơ sở cách mạng của xứ ủy Nam Kì, rồi từ đây phát triển sang Dịch Vọng trung, Dịch Vọng tiền. Sáng sớm 19/8/1945, hàng nghìn nhân dân ngoại thành đã biểu tình tuần hành qua Cầu Giấy để vào nội thành tham gia khởi nghĩa. Sau khi tổng khởi nghĩa thắng lợi, khu Cầu Giấy trở thành chỗ trú chân vững vàng của thành ủy Hà Nội.

    Trong những năm tháng đất nước bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ gian khổ, nhân dân Cầu Giấy cùng nhân dân Hà Nội đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, góp phần vào thắng lợi chung của toàn dân tộc.

        Từ khi thành lập Quận đến nay, quận Cầu Giấy đã tròn 20 tuổi. Dù quãng thời gian đó chưa dài, nhưng quận Cầu Giấy đã và đang khẳng định được mình trong sự phát triển chung của toàn thành phố. Những thành tựu về kinh tế, văn hóa, xã hội đang vun đắp thêm vào bề dày truyền thống đáng tự hào của vùng đất địa linh nhân kiệt này.

                                                                                    Tác giả : Cô giáo Trịnh Thị Thư

Video liên quan

Chủ Đề