Tức ngực là dấu hiệu gì

Bệnh sử nên lưu ý vị trí, thời gian, tính chất và cường độ cơn đau. Cần hỏi bệnh nhân về các biến cố trước đó [như tập luyện quá mức nhóm cơ thành ngực], các yếu tố gây khởi phát đau và các yếu tố làm cơn đau dịu đi. Các yếu tố cần lưu ý cụ thể bao gồm: đau xuất hiện khi nghỉ ngơi hay gắng sức, đau có xuất hiện khi căng thẳng tâm lý hay không, đau xuất hiện khi hít thở hay ho, có khó nuốt hay không, liên quan của cơn đau đến bữa ăn, các tư thế làm tăng hoặc giảm đau [ví dụ như nằm nghiêng sang hai bên, hướng về phía trước]. Các tập tương tự trước đó và tình tiết của chúng cần được chú ý đến sự giống nhau hoặc thiếu chúng và liệu các tập có tăng tần suất và/hoặc thời lượng hay không. Các triệu chứng đi kèm cần chú ý bao gồm: khó thở, hồi hộp trống ngực, ngất, vã mồ hôi, buồn nôn hoặc nôn, ho, sốt và rét run.

Đánh giá hệ thống nên tìm kiếm các triệu chứng của các nguyên nhân đang hướng tới, ví dụ như đau và phù chân, hoặc cả hai [huyết khối tĩnh mạch sâu dẫn tới tắc mạch phổi] hoặc yếu mệt kéo dài, sút cân [ung thư].

Tiền sử nên ghi lại các nguyên nhân đã biết, đặc biệt là các bệnh lý tim mạch và tiêu hóa cũng như bất cứ các thủ thuật hoặc khảo sát tim mạch nào từng được tiến hành trên bệnh nhân [như các test gắng sức hoặc thông tim]. Cần lưu ý đến các yếu tố nguy cơ mạch vành [như tăng huyết áp, tăng lipid máu, đái tháo đường, bệnh lý mạch máu não, sử dụng thuốc lá] hoặc yếu tố nguy cơ tắc mạch phổi [như chấn thương hai chi dưới, tiền sử phẫu thuật gần đây, bất động kéo dài, ung thư, mang thai].

Nên lưu ý tới tiền sử sử dụng các thuốc có thể gây co thắt mạch vành [như cocaine, triptans, chất ức chế phosphodiesterase] hoặc gây bệnh lý đường tiêu hóa [đặc biệt là rượu và các thuốc chống viêm phi steroids].

Cần lưu ý tới tiền sử gia đình có nhồi máu cơ tim [đặc biệt đối với thân nhân trực hệ ở độ tuổi < 55 tuổi ở nam và < 60 ở nữ] và tăng lipid máu.

Chú ý đến các dấu hiệu toàn trạng [như nhợt nhạt, vã mồ hôi, tím tái, lo âu].

Khám cổ để phát hiện dấu hiệu tĩnh mạch cổ nổi và dấu hiệu phản hồi gan - tĩnh mạch cổ. Chú ý bắt mạch cảnh, khám các hạch cổ cũng như phát hiện các bất thường tuyến giáp. Nghe động mạch cảnh để phát hiện các tiếng bất thường.

Cần gõ và nghe phổi để đánh giá mức độ cân xứng giữa tiếng rì rào phế nang hai bên, đánh giá các dấu hiệu ứ đọng [rales khô hay ướt, có rales ngáy hay không], các dấu hiệu đông đặc [rung thanh], tiếng cọ màng phổi và các dấu hiệu tràn dịch màng phổi [gõ đục, rì rào phế nang giảm].

Khám tim cần chú ý đến cường độ và thời gian của tiếng T1 [S1] và T2 [S2], sự thay đổi theo hô hấp của tiếng T2 [S2], tiếng cọ màng ngoài tim, các tiếng thổi và tiếng ngựa phi. Khi nghe thấy tiếng thổi, cần đánh giá thời điểm xuất hiện, thời gian kéo dài, cao độ, âm sắc, cường độ và sự biến đổi tiếng khi thay đổi tư thế, khi thực hiện nghiệm pháp Handgrip và nghiệm pháp Valsava. Khi nghe thấy các tiếng ngựa phi, cần có sự phân biệt giữa tiếng tim T4 [S4], thường xuất hiện khi có rối loạn chức năng tâm trương hoặc nhồi máu cơ tim, với tiếng tim T3 [S3], thường xuất hiện khi có rối loạn chức năng tâm thu.

Cần quan sát thành ngực để phát hiện các tổn thương da do chấn thương hoặc do herpes zoster, sờ nắn để phát hiện tràn khí dưới da và các điểm đau. Khám bụng để phát hiện các điểm đau, tăng kích thước các tạng ổ bụng, các khối u, đặc biệt là phần thượng vị và vùng hạ sườn phải.

Khám chân bao gồm bắt mạch chi dưới, các dấu hiệu tưới máu chi, phù, giãn tĩnh mạch nông và phát hiện các dấu hiệu huyết khối tĩnh mạch sâu chi dưới [như phù một bên, ban đỏ, đau].

Cần nghĩ đến các căn nguyên gây đau ngực nguy hiểm nếu bệnh nhân có các dấu hiệu sau đây:

  • Dấu hiệu sinh tồn bất thường [nhịp nhanh, nhịp chậm, thở nhanh, tụt huyết áp]

  • Dấu hiệu giảm tưới máu [như tinh thần lẫn lộn, tím tái, vã mồ hôi]

  • Hạ oxy máu khi đo độ bão hòa oxy máu qua da

  • Mạch hoặc rì rào phế nang không tương xứng hai bên

  • Mạch nghịch đảo > 10 mm Hg

Các triệu chứng cơ năng và thực thể của các bệnh lý thuộc các tạng lồng ngực biến đổi rất đa dạng trên lâm sàng, đặc biệt có sự chồng lấp triệu chứng lẫn nhau giữa triệu chứng của những bệnh lý lành tính và những bệnh lý nguy hiểm. Mặc dù các dấu hiệu cờ đỏ thường hướng tới các bệnh nguy hiểm, và nhiều bệnh lý có những dấu hiệu "kinh điển" [xem bảng Một số nguyên nhân đau ngực Một số nguyên nhân gây đau ngực ], nhưng nhiều bệnh nhân, dù mắc các bệnh lý nguy hiểm, lại không có những biểu hiện nêu trên. Ví dụ, những bệnh nhân thiếu máu cơ tim có thể chỉ biểu hiện triệu chứng khó tiêu, hoặc có thể ấn thành ngực rất đau. Cần nghĩ tới nhiều loại bệnh lý khi đánh giá một bệnh nhân đau ngực, tuy nhiên, các thông tin lâm sàng có thể giúp bác sĩ phần nào đó có sự phân biệt và định khu chẩn đoán.

Thời gian đau có thể cung cấp thông tin về mức độ nghiêm trọng của bệnh. Đau dai dẳng [ví dụ, trong vài tuần hay vài tháng] thường không phải là biểu hiện của bệnh lý gây đe dọa tính mạng tức thì. Biểu hiện đau như vậy thường có nguồn gốc cơ xương, tuy nhiên, cũng cần cân nhắc tới các bệnh lý thuộc hệ thống tiêu hóa hoặc ung thư, đặc biệt là ở đối tượng bệnh nhân cao tuổi. Tương tự thế, triệu chứng đau chói, thoáng qua [

Chủ Đề