Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 đến 1975 có mấy đặc điểm cơ bản

I. Khái quát văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975

Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã mở ra kỉ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam, đây cũng là khoảng thời gian khai sinh ra nền văn học mới, gắn liền với lí tưởng độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

Nội dung của bài học khái quát về các chặng đường phát triển, những thành tựu chủ yếu và những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975 và những đổi mới bước đầu của văn học Việt Nam giai đoạn từ năm 1975, nhất là từ năm 1986 đến hết thế kỉ XX.

1. Vài nét về hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa

Văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975 là nền văn học của chế độ mới, đường lối văn nghệ thời kỳ này mang khuynh hướng nhà văn – chiến sĩ.

Từ năm 1945 đến năm 1975, Việt Nam diễn ra nhiều sự kiện lớn như: Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kéo dài 3 thập kỷ; công cuộc xây dựng cuộc sống, con người mới ở miền Bắc… không có điều kiện giao lưu văn hóa, chỉ giới hạn trong nước nhưng văn học giai đoạn này vẫn phát triển và đạt được nhiều thành tựu.

2. Quá trình phát triển và những thành tựu chủ yếu

a]. Chặng đường từ năm 1945 đến năm 1954

Văn học giai đoạn từ năm 1945 – 1954 phản ánh không khí hồ hởi, vui sướng của dân tộc khi đất nước giành được độc lập và cuộc kháng chiến chống Pháp, gắn bó sâu sắc với đời sống cách mạng và kháng chiến. Văn học giai đoạn này tập trung khám phá sức mạnh và những  phẩm chất tốt đẹp của quần chúng nhân dân. Thể hiện niềm tự hào dân tộc và niềm tin vào tương lai tất thắng của cuộc kháng chiến.

Với hình thức thể hiện phong phú, đa dạng như truyện ngắn, kí, thơ, văn xuôi, kịch, lí luận phê bình… nhưng hầu hết đều các tác phẩm đều thiên về khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

- Những tác phẩm và tác giả tiêu biểu trong lĩnh vực văn xuôi gồm: Một lần tới Thủ đô, Trận phố Ràng của Trần Đăng; Đôi mắt, Nhật ký ở rừng của Nam Cao; Làng của Kim Lân; Vùng mỏ của Võ Huy Tâm; Kí sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng; Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc…

- Những tác phẩm và tác giả tiêu biểu của lĩnh vực thơ kháng chiến gồm: Cảnh Khuya, Rằm tháng giêng của Hồ Chí Minh; Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm; Tây Tiến của Quang Dũng; Đất nước của Nguyễn Đình Thi; Đồng chí của Chính Hữu; đặc biệt là tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu.

- Ngoài văn xuôi và thơ, đây cũng là giai đoạn phát triển của các thể loại kịch [Bắc Sơn, Những người ở lại của Nguyễn Huy Tưởng; Chị Hòa của Học Phi]. Riêng mảng lí luận, nghiên cứu, phê bình văn học tuy chưa phát triển mạnh nhưng cũng có một số tác phẩm có ý nghĩa quan trọng ra đời.

b]. Chặng đường từ năm 1955 đến năm 1964

Giai đoạn từ năm 1955 – 1964 là chặng đường văn học xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước.

- Những tác phẩm văn xuôi tiêu biểu gồm: Mùa Lạc của Nguyễn Khải; Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng; Vợ nhặt của Kim Lân; Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi; Cái sân gạch của Đào Vũ.

- Đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của thơ ca với những tác phẩm tiêu biểu như: Gió lộng của Tố Hữu; Ánh sáng và phù sa của Chế Lan Viên; Quê Hương của Giang Nam…

c]. Chặng đường từ năm 1965 đến năm 1975

Văn học giai đoạn từ năm 1965 – 1975 tập trung vào chủ đề ca ngợi tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

- Những tác phẩm văn xuôi tiêu biểu gồm: Người mẹ cầm súng của Nguyễn Đình Thi; Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành; Hòn Đất của Anh Đức; Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng; Mẫn và tôi của Phan Tứ; Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu; Bão biển của Chu Văn.

- Thơ ca chống Mĩ cũng có nhiều tác phẩm tiêu biểu như: Ra trận, Máu và hoa của Tố Hữu; Đầu súng trăng treo của Chính Hữu; Gió Lào cát trắng của Xuân Quỳnh…

- Đây cũng là giai đoạn rực rỡ của kịch và những công trình nghiên cứu, lí luận, phê bình… như công trình của các tác giả Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên.

Trong giai đoạn từ 1945 đến 1975, cần lưu ý tới văn học vùng địch tạm chiếm, trong đó có nhiều xu hướng như chống cộng, đồi truỵ, tiến bộ, yêu nước và cách mạng. Những tác phẩm tiêu biểu như Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam, Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng.

3. Những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975

a]. Nền văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước.

Mục tiêu chung của toàn dân tộc, văn học giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975 vận động theo hướng cách mạng hoá, gắn bó với vận mệnh đất nước. Đề tài chủ yếu của văn học giai đoạn này là Tổ quốc [bảo vệ đất nước, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước], CNXH [đề cao phẩm chất người lao động trên mặt trận sản xuất và xây dựng đất nước]. Những tác giả tiêu biểu viết về đề tài này gồm: Tố Hữu, Chế Lan Viên, Giang Nam, thanh Hải, Thu Bồn, Lê Anh Xuân, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Thi, Anh Đức, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải, Đào Vũ, Chu Văn…

b]. Nền văn học hướng về đại chúng

Đại chúng vừa là đối tượng phản ánh, vừa là nguồn cảm hứng sáng tác của các tác giả, hình thành trong họ một quan niệm mới, đất nước của nhân dân. Quần chúng trở thành hình tượng của văn học như hình ảnh, thân phận người mẹ, chị phụ nữ, em bé… với ngôn ngữ biểu đạt bình dị, trong sáng, dễ hiểu.

c]. Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn

Văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 mang đậm chất sử thi, tập trung phản ánh những vấn đề cơ bản, những sự kiện có ý nghĩa lịch sử, chủ nghĩa yêu nước và anh hùng. Nhân vật trong các tác phẩm là đại diện cho lí tưởng của dân tộc, gắn bó số phận cá nhân với số phận đất nước, thể hiện những phẩm chất cao đẹp của cộng đồng.

Những tác phẩm nổi tiếng cho khuynh hướng văn học này gồm: Người mẹ cầm súng, Đất nước đứng lên, Rừng xà nu, Đất quê ta mênh mông.

II. Vài nét khái quát văn học Việt Nam từ năm 1975 đến hết thế kỉ 20

1. Hoàn cảnh lịch sử, xã hội và văn hóa

Chiến thắng ngày 30/4/1975 đã mở ra thời kì độc lập, tự do và thống nhất cho đất nước nhưng sau đó là một thập kỉ đầy khó khăn, thử thách do hậu quả chiến tranh kéo dài suốt 30 năm.

Từ năm 1986, nhờ công cuộc đổi mới, kinh tế đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường và văn hóa cũng có điều kiện tiếp xúc với văn hóa nhiều nước trên thế giới.

2. Những chuyển biến và một số thành tựu ban đầu

Giai đoạn sau năm 1975, thơ không còn phát triển mạnh mẽ như trước mà nở rộ những tác phẩm trường ca. Khuynh hướng chung của trường ca là tổng kết, khái quát về chiến tranh, những tác phẩm tiêu biểu gồm: Những người đi tới biển của Thanh Thảo, Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh, Trường ca sư đoàn của Nguyễn Đức Mậu…

- Những tác phẩm văn xuôi tiêu biểu gồm: Đứng trước biển, Cù lao Tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn; Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng; Thời xa vắng của Lê Lựu; Bến không chồng của Dương Hướng; Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh.

- Những tác phẩm kịch tiêu biểu gồm: Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Tôi và chúng ta của Lưu Quang Vũ; Mùa hè ở biển của Xuân Trình.

Văn học giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1986 là chặng đường chuyển tiếp, trăn trở, tìm đường đổi mới. Từ sau năm 1986 là chặng đường đổi mới toàn diện theo khuynh hướng dân chủ hóa,  mang tính nhân bản, nhân văn sâu sắc; có tính hướng nội, quan tâm tới số phận cá nhân trong những hoàn cảnh đời thường, phức tạp với sự đổi mới về nghệ thuật.

III. Kết luận

- Văn học từ năm 1945 -1975 chứa đựng chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng. Văn học giai đoạn này có nhiều thành tựu ở những thể loại thơ trữ tình, truyện ngắn.

- Văn học từ năm Từ năm 1975 – 1986, văn học bước vào đổi mới, vận động theo khuynh hướng dân chủ hóa, phát huy tính sáng tạo với những tìm tòi, thể nghiệm mới.

Page 2

SureLRN

Câu hỏi: Những đặc điểm cơ bản của Văn học Việt Nam từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975?

Trả lời:

a] Nền văn học phục vụ cách mạng, cổ vũ chiến đấu:

Văn học trước hết phải là một thứ vũ khí chiến đấu. Ý thức, trách nhiệm công dân của người nghệ sĩ được đề cao. Quá trình vận động, phát triển của nền văn học mới ăn nhịp với từng chặng đường lịch sử của dân tộc, theo sát từng nhiệm vụ chính trị của đất nước. Tập trung vào đề tài Tổ quốc và CNXH, xây dựng nhân vật trung tâm là người chiến sĩ trên mặt trận vũ trang và hình ảnh con người mới.

b] Nền văn học hướng về đại chúng:

Đại chúng vừa là đối tượng phản ánh và đối tượng phục vụ, vừa là nguồn cung cấp, bổ sung lực lượng sáng tác cho văn học. Văn học quan tâm tới đời sống nhân dân lao động, nói lên nỗi bất hạnh của họ trong xã hội cũ, niềm vui, niềm tự hào về cuộc đời mới, thể hiện con đường tất yếu đến với cách mạng, phát hiện ở họ khả năng cách mạng và phẩm chất anh hùng. Đó là nền văn học có tính nhân dân sâu sắc và nội dung nhân đạo mới.Về hình thức, phần lớn các tác phẩm đều ngắn gọn, nội dung dễ hiểu, chủ đề rõ ràng, hình thức nghệ thuật quen thuộc.

c] Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn

- Khuynh hướng sử thi: tập trung phản ánh những vấn đề cơ bản nhất có ý nghĩa sống còn của đất nước. Nhân vật chính thường tiêu biểu cho lí tưởng chung của dân tộc, gắn bó số phận mình với số phận đất nước, thể hiện và kết tinh những phẩm chất cao đẹp của cả cộng đồng. Lời văn sử thi mang giọng điệu ngợi ca, trang trọng và đẹp một cách tráng lệ, hào hùng.

- Cảm hứng lãng mạn: chủ yếu được thể hiện trong việc khẳng định phương diện lí tưởng của cuộc sống mới và vẻ đẹp con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc.

- Về nghệ thuật, đặc điểm trên thể hiện ở hướng vận động của cốt truyện, xung đột nghệ thuật, số phận, tính cách nhân vật từ hiện đại vươn tới tương lai, từ bóng tối ra ánh sáng, từ gian khổ hy sinh tới niềm vui chiến thắng.

Ngoài ra, các em cùng Top lời giải tham khảo thêm một số tác phẩm nổi bật của văn học giai đoạn này nhé!

1. Thành tựu văn học giai đoạn 1945 - 1975

- Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi đã mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc ta. Từ đây, một nền văn học mới gắn liền với lí tưởng độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội được khai sinh. Nền văn học mới đã phát triển qua hai giai đoạn: từ 1945 đến năm 1975 và từ năm 1975 đến hết thế kỉ XX. Giai đoạn văn học từ năm 1945 đến năm 1975 là một giai đoạn văn học hết sức đặc biệt, bởi nó diễn ra trong một hoàn cảnh lịch sử cũng rất đặc biệt. Chiến tranh giải phóng dân tộc vô cùng ác liệt kéo dài suốt ba mươi năm, công cuộc xây dựng cuộc sống mới ở miền Bắc,… Những sự kiện đó đã tác động mạnh mẽ đến nền văn học. Dưới sự lãng đạo của Đảng Cộng sản, đường lồi văn nghệ đã tạo nên một nền văn học thống nhất về tư tưởng, tổ chức và quan niệm nhà văn kiểu mới: nhà văn – chiến sĩ. Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta còn nghèo nàn và chậm phát triển nên việc giao lưu văn hóa với nước ngoài không thuận lợi, chỉ giới hạn ở một số nước như Liên Xô, Trung Quốc. Ở giai đoạn này, nhìn chung văn học Việt Nam có thể chia làm ba giai đoạn. Cụ thể như sau:

- Giai đoạn thứ nhất là từ năm 1945 đến năm 1954. Trong mười năm đầu, văn học tập trung ca ngợi Tổ quốc và quần chúng nhân dân. Nhiều tác phẩm đã phản ánh hình ảnh cả dân tộc tham gia kháng chiến với tinh thần hăng say, quên mình. Văn học gắn bó sâu sắc với đời sống kháng chiến. Các nhà văn hướng ngòi bút của mình về quần chúng và ngợi ca sức mạnh của nhân dân bằng một niềm tin tất thắng. Văn xuôi giai đoạn này phát triển mạnh ở thể kí và truyện ngắn. Nhiều tập truyện, kí dày dặn đã được giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam như Đôi mắt của Nam Cao, Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Truyện Tây Bắc của Tô Hoài,… Thơ ca cũng có bước phát triển mới: thơ trữ tình công dân, ngợi ca đất nước và con ngươi kháng chiến chiếm vị trí chủ đạo; bên cạnh những thể thơ truyền thống còn có thơ tự do,- thơ không vần hoặc ít vần; cùng với cảm hứng anh hùng ca, thơ kháng chiến còn mang cảm hứng lãng mạn,… Tiêu biểu là các tác phẩm Cảnh khuya của Hồ Chí Minh, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Đất nước của Nguyễn Đình Thi,… Kịch thời kì này cũng phản ánh sinh động hiện thực cách mạng và kháng chiến, tiêu biểu là vở kịch Bắc Sơn của Nguyễn Huy Tưởng, Chị Hòa của Học Phi,… Lí luận, nghiên cứu, phê bình văn học chưa phát triển nhưng đã có một số sự kiện và tác phẩm có ý nghĩa quan trọng như Nhận đường của Nguyễn Đình Thi, Quyền sống của con người trong “Truyện Kiều” của Hoài Thanh,…

- Giai đoạn thứ hai là từ năm 1955 đến năm 1964. ở thời kì này, văn học tập trung phản ánh hình ảnh con người mới, cuộc sống mới. Không khí xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đem lại cho văn học một tiếng nói mới tràn đầy niềm vui, niềm lạc quan. Nỗi đau chia cắt. và ý chí thống nhất đất nước tạo cho văn học một nội lực quan trọng. Văn xuôi mở rộng đề tài, bao quát nhiều vân đề, nhiều phạm vi của đời sống; nhiều tác phẩm viết về sự đổi đời của con người, sự biến đổi số phận và tính cách trong hoàn cảnh xã hội mới tốt đẹp, thể hiện khát vọng hạnh phúc của con người, có ý nghĩa nhân văn khá sâu sắc. Có những truyện ngắn, tiểu thuyết lấy đề tài về cuộc sống trước Cách mạng nhưng phân tích, khát quát theo quan điểm mới. Tiêu biểu là các tác phẩm như truyện ngắn Mùa lạc của Nguyễn Khải, tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, tùy bút Sông Đà của Nguyễn Tuân,… Thơ ca cũng phát triển mạnh mẽ, nhiều tác phẩm có sự hài hòa giữa yếu tố hiện thực và lãng mạn cách mạng. Cuộc sống mới với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nỗi đau chia cắt đất nước và nỗi nhớ miền Nam cùng với khát vọng giải phóng miền Nam thống nhất đất nước,… là những nguồn cảm hứng lớn của thơ ca giai đoạn này. Tiêu biểu là các tập thơ Gió lộng của Tôt Hữu, Riêng chung của Xuân Diệu,… Kịch nói cũng có một số tác phẩm được dư luận chú ý như Ngọn lửa của Nguyễn Vũ, Nổi gió của Đào Hồng cẩm,…

- Giai đoạn thứ ba là từ năm 1965 dến năm 1975. Văn học chặng đường này tập trung viết về cuộc kháng chiến chống Mĩ. Chủ đề bao trùm là ca ngợi tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Văn xuôi mang đậm chất kí, phản ánh nhanh nhạy, kịp thời cuộc sống chiến đấu và lao động của nhân dân anh hùng. Tiêu biểu là truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, tiếu thuyết Hòn Đất của Anh Đức,… Thơ ca cũng có nhiều thành tựu xuất sắc, đào sâu và mở rộng phạm vi phản ánh, tăng cường chất suy tưởng và chính luận. Lịch sử văn học thời kì này trân trọng ghi nhận sự đóng góp của thế hệ các nhà thơ trẻ – những chiến sĩ đã đem đến cho thơ một tiếng nói trẻ trung, sôi nổi, góp phần xây dựng nên bức chân dung tinh thần của một thế hệ trẻ cầm súng. Tiêu biểu là các tác phẩm tập Ra trận của Tố Hữu, Đầu súng trăng treo của Chính Hữu, trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm,… Kịch cũng có những thành tựu đáng ghi nhận như các vở kịch Đôi mắt của Vũ Dũng Minh, Quê hương Việt Nam của Xuân Trình,… Nhiều công trình nghiên cứu, lí luận, phê bình xuất hiện. Có giá trị hơn cả là những công trình của Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu,…

2. Một số tác phẩm văn học tiêu biểu giai đoạn 1945 - 1975

Đất Nước  

[Nguyễn Khoa Điềm]

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó…

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất.

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai.

Khăn thương nhớ ai

Khăn chùi nước mắt.

Đèn thương nhớ ai

Mà đèn không tắt.

Mắt thương nhớ ai

Mắt ngủ không yên.

Đêm qua em những lo phiền

Lo vì một nỗi không yên mọi bề.

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”

Thời gian đằng đẵng

Không gian mênh mông

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ

Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Hàng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

Khi hai đứa cầm tay

Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm

Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất nước vẹn tròn, to lớn

Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang đất nước đi xa

Đến những tháng ngày mơ mộng

Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời…

*

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên.

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…

Em ơi em

Hãy nhìn rất xa

Vào bốn ngàn năm Đất Nước

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta

Cần cù làm lụng

Khi có giặc người con trai ra trận

Người con gái trở về nuôi cái cùng con

Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh

Nhiều người đã trở thành anh hùng

Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ

Những em biết không

Có biết bao người con gái, con trai

Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ truyền lửa cho mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân

Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái

Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại

Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại

Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”

Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội

Biết trồng tre đợi ngày thành gậy

Đi trả thù mà không sợ dài lâu

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi. 

Bài thơ về tiểu đội xe không kính

[Phạm Tiến Duật]

Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi

Ung dung buồng lái ta ngồi,

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

Như sa, như ùa vào buồng lái

Không có kính, ừ thì có bụi,

Bụi phun tóc trắng như người già

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Không có kính, ừ thì ướt áo

Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời

Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa

Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

Những chiếc xe từ trong bom rơi

Ðã về đây họp thành tiểu đội

Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

Không có kính, rồi xe không có đèn,

Không có mui xe, thùng xe có xước,

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:

Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Video liên quan

Chủ Đề