Vẻ đẹp thiên nhiên nông thôn trong thơ Trần Đăng Khoa

Đồng quê trong thơ Trần Đăng Khoa

Vũ Nho

Cánh đồng làng là một mảnh hồn làng quê. Bên cạnh cây đa, luỹ tre, sân đình, cánh đồng từ ngàn xưa đã gắn bó với cuộc sống lao động và trở thành một hình ảnh thân thuộc của thơ ca.

- Trên đồng cạn


Dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.
- Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng
mênh mông bát ngát
Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng
cũng bát ngát mênh mông Với chú bé lớn lên ở nông thôn như Trần Đăng Khoa, cánh đồng không chỉ là hình ảnh từ thơ ca, mà nó còn hết sức chân thực, hết sức cụ thể. Là nơi cắt cỏ chăn trâu, nơi gánh phân, tát nước, nơi bắt cua mò ốc, nơi nghịch ngợm đánh trận, thả diều và nuôi những ước mơ. Theo lẽ tự nhiên, cánh đồng trở thành đối tượng cho nhà thơ bé con Trần Đăng Khoa thả buông cảm xúc. Lấp lánh nhiều vẻ, nhiều gương mặt, nhiều sắc màu, nhiều khoảnh khắc đồng quê. Đây là đồng chiều vào phút giây đặc biệt:

Mặt trời chìm cuối đồng xa


Sương lên mờ mịt như là khói bay
Đất trời cách một gang mây
Và tôi cùng với luống cày tỏa hương [Đồng chiều] Đây là đồng thời khắc mưa khi chớm vào hè:

Rộn ràng là một cơn mưa


Trên đồng bông lúa cũng vừa uốn câu [Mùa Xuân mùa Hè] Khi cánh đồng là một "cánh đồng vui reo", ôm ụ pháo lảnh lót tiếng chích chòe.

Bao nhiêu khẩu pháo đều rê rê nòng


Cánh đồng vui reo
Gió đồng rộng rãi [Tiếng chim chích choè] Khi cánh đồng là cánh đồng rộn rịp náo nức cảnh lao động tấp nập:

Tiếng trâu và tiếng người


Vang ruộng dài lõm bõm [Cánh đồng làng Điền Trì] Một cánh đồng tươi tốt lúa trổ hoa - nơi hoang vu xưa kia người nữ anh hùng du kích từng qua:

Đồng lầy dày lác cô qua


Mấy mùa lúa đã trổ hoa thơm lừng [Về thăm cô Bưởi] Một cánh đồng của cô Thị Màu trên sân khấu và trong đời thực:

Người xem thoáng như quên chị


Chiều nay gánh lúa trên đồng
Tần tảo nuôi con, nuôi mẹ
Mười năm ròng rã chờ chồng. [Cô Thị Màu] Cánh đồng lúa chín có cây đa, mương nước. Lá đa xanh, mương nước bạc, và màu vàng lúa như một bức tranh

... cây đa


Bên mương nước giữa đồng
Lá xanh dòng nước bạc
Biển lúa vàng mênh mông [Cây đa] Cánh đồng đầy chim khi vào mùa gặt:

Hạt mẩy uốn cong bông


Chim ngói bay đầy đồng [Thôn xóm vào mùa]

Lúa chiêm vào mẩy, chim ri bay về

[Gửi theo các chú bộ đội] Cánh đồng đang vụ gặt ven Cầu Cầm những năm tháng đạn bom của chiến tranh:

Rối rít tiếng ai chào


Cánh đồng đang mùa gặt
Lúa vàng trong đáy mắt
Trời xanh trong lưỡi liềm [Cầu Cầm] Cánh đồng của chú bé thả diều so sánh với bầu trời khi có cái diều bay:

Trời như cánh đồng


Sau mùa gặt hái
Diều em lưỡi liềm
Ai quên bỏ lại [Thả diều] Cánh đồng của bầu trời soi gương hay là cánh đồng lên trời, còn trời xuống ruộng:

Đường cày ai rạch


Thành dòng sông Ngân
Sao như gốc rạ
Lô nhô xa gần [Hương đồng] Bài thơ "Hương đồng" đã có những cảm nhận rất tinh tế về đất đai gieo trồng với các mùi đặc biệt.

Đồng ẩm trăng non


Luống cày sực nức
....
Mùi bùn đang ngấu
Mùi phân đang hoại
Vôi chưa tan hẳn
Còn hăng rãnh cày
Hạt giống mùa qua
Bốc men trong đất
Giọt giọt mồ hôi
ủ lâu thành mật
Bốn bề lên hương Chỉ có người con của ruộng đồng, đất đai mới có thể cảm nhận những mùi đó là hương, và mới thấy chúng là "ngào ngạt" [Đi trong ngào ngạt. Niềm vui gieo trồng]. Tất nhiên có thể hiểu đây là hương của niềm vui, ngào ngạt của niềm vui. Có thể nói "Đồng quê" - bài thơ về cánh đồng sau vụ gặt là một bức tranh đẹp, mang nhiều nét đặc trưng của những phác thảo cánh đồng muôn vẻ trước đó của Trần Đăng Khoa:

Làng quê lúa gặt xong rồi


Mây hong trên gốc rạ phơi trắng đồng
Chiều lên lặng ngắt bầu không
Trâu ai no cỏ thả rông bên trời
Hơi thu đã chạm mặt người
Bạch đàn đôi ngọn đứng soi xanh đầm
Luống cày còn thở sùi tăm
Sương buông cho đống hoang nằm chiêm bao
Có con châu chấu phương nào
Bâng khuâng nhớ lúa, đậu vào vai em. Chỉ non tay một chút thôi câu thơ "Làng quê lúa gặt xong rồi" sẽ được viết thành "Làng quê gặt lúa xong rồi" liền một mạch chủ ngữ - vị ngữ, nhưng vì thế mà mất cái mờ ảo không rành mạch rất cần ở trong thơ, nhất là bài thơ tả cánh đồng vắng lúa. Hơn nữa, như thế cũng phá vỡ mất sự tiểu đối của lúa gặt, mây hong, rạ phơi. Có cảm giác như không cần người, không có người, lúa tự gặt, mây tự hong, rạ tự phơi. Hai câu thơ tiếp theo cũng thế. Chiều tự lên, trâu tự đi ngao du [trâu ai no cỏ thả rông bên trời]. Không có người, vắng người nên mới "lặng ngắt bầu không". Nhìn cảnh này, trong ta sẽ thấp thoáng câu thơ Huy Cận:

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Mấy con trâu no cỏ [hay chỉ có một con] thì bị đẩy ra xa tít tận "bên trời" để chỉ còn một cánh đồng rỗng lúa. Hình như hơi thu bắt đầu toả lan từ đây. Chỉ là hơi thu chứ chưa phải là sương thu, cho nên cảnh vật sáng lắm, nét lắm

Bạch đàn đôi ngọn đứng soi xanh đầm

Lấp lánh vẻ đẹp buồn, đẹp xưa trong thơ mới của Thế Lữ "Hàng tùng rủ rỉ bên cồn đìu hiu". Nhưng Trần Đăng Khoa lúc này đã rất có nghề, rất chặt chẽ. Cái tiếng "rủ rỉ" có thể có lắm chứ. Nhưng Khoa đã viết "lặng ngắt bầu không" rồi, nên bạch đàn cũng chỉ lặng ngắt mà soi xanh mặt đầm thôi. Bạch đàn xanh, nước đầm xanh in thành ra màu xanh mới. Nếu không để tầm quan sát trên cao mà hạ thấp xuống "bạch đàn đôi gốc" thì sẽ đánh mất vẻ đẹp của từ "soi" [Nước gương trong soi tóc những hàng tre - Tế Hanh; Chị tre chải tóc bên ao. Nàng mây áo trắng ghé vào soi gương - Trần Đăng Khoa]. Bạch đàn soi, luống cảy thở, sương buông [bây giờ mới có sương], đống hoang nằm chiêm bao. Sương buông màn cho đống hoang nằm ngủ. Một buổi chiều êm. Bao nhiêu hoạt động mà vẫn lặng lẽ êm đềm. Vì đó là hoạt động của vật vô tri được nhân hóa. Chỉ có một con vật duy nhất là con châu chấu. Nó bâng khuâng, nó nhớ, nó đậu... xuống vai chú bé nhà thơ. Bức tranh đồng quê sau vụ gặt vừa có vẻ đẹp xưa cổ điển nhưng cũng đẹp vẻ đẹp sống động, hiện đại của bây giờ. Con châu chấu bâng khuâng hay chính tác giả nhỏ tuổi bâng khuâng. Bươm bướm hóa Trang Chu hay chính Trang Chu là bươm bướm?

Nhà Trang 28/12/1998 Hà Nội 20/3/1999

in trong Vũ Nho - Trần Đăng Khoa thần đồng thơ ca, nxb Văn hóa thông tin, 2000.​

Làng quê Bắc bộ trong thơ Trần Đăng Khoa 

Trần Đăng Khoa là “hiện tượng” của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Những dòng thơ hồn nhiên, tươi mát, độc đáo của Trần Đăng Khoa bắt nguồn từ cảm nhận của nhà thơ về hình ảnh, âm thanh phong phú, muôn màu vẻ của làng quê Bắc bộ - mảnh đất “chôn nhau cắt rốn”, gắn bó với anh suốt một thời thơ ấu. Bài viết là những cảm nhận về những hình ảnh, âm thanh độc đáo của làng quê Bắc bộ trong thơ Trần Đăng Khoa.

Thơ Trần Đăng Khoa chinh phục độc giả bởi một thế giới nghệ thuật thơ mang màu sắc riêng, độc đáo. Đó là thế giới nghệ thuật giản dị, hồn nhiên,  bắt nguồn từ những cảnh vật, thanh âm nhất mực bình dị, quen thuộc, thân thiết.  Khởi đầu nghiệp thơ với những cảm nhận hết sức ngây thơ, hồn nhiên về hình ảnh con bướm vàng bay rập rờn trên bờ cỏ: “Con bướm vàng - Con bướm vàng - Bay nhẹ nhàng - Trên bờ cỏ - Em thích quá - Liền đuổi theo - Con bướm vàng - Nó vỗ cánh - Vút lên cao - Em nhìn theo - Con bướm vàng - Con bướm vàng”, thế mà Trần Đăng Khoa lại có cơ duyên đặc biệt với thi ca. Đến với thơ Khoa, ta không chỉ được sống lại tuổi thơ với bao điều lý thú mà còn rất tự nhiên cảm thấy bị quyến rũ vào một thế giới làng quê yên ả, thanh bình, tươi mát và trong trẻo đến vô ngần.

1. Thơ Trần Đăng Khoa mang đến hình ảnh của một làng quê Bắc bộ thân quen, yên ả, thanh bình:

Trong bài Từ ngọn lúa sinh ra, Khoa tâm sự: “Tôi chỉ có thể viết được cái gì tôi đã thực sự thấy bằng mắt, chỉ rung cảm về cái gì thực sự tôi đã trải trong tâm trí mình. Có thể tìm thấy trong thơ tôi những sự việc hoàn toàn có thực của bản thân tôi, gia đình tôi, làng quê tôi... Tôi thực sự biết ơn cái làng quê nhỏ bé của mình đã nuôi dưỡng tôi như vậy” [Từ ngọn lúa sinh ra – Báo Tiền phong số ra ngày 16/4/1974]. Chính mảnh đất làng thân thương đã nuôi lớn Khoa, và cũng chính tất cả sự sống tiềm tàng của cái làng quê ấy đã đem lại cho thơ Khoa một nhựa sống tràn trề không bao giờ vơi cạn.

Nơi khởi phát nguồn thơ đầu tiên của Trần Đăng Khoa chính là khoảng sân nhỏ trước nhà. Cái sân nhỏ của ngôi nhà quê, nhưng là cả một vũ trụ chứa đầy thú vị đối với cậu bé Khoa.

Quanh sân, có nhiều nhân vật đã đi vào các bài thơ đặc sắc của Khoa, bình dị mà đượm sắc màu cổ tích thần tiên. Đó là ngọn mồng tơi - nhảy múa; là muôn nghìn cây mía – múa gươm; cây bưởi đu đưa - bế lũ con - đầu trọc lốc; xa hơn chút nữa là cây dừa - sải tay – bơi, đến bụi tre tần ngần - gỡ tóc. Khoảng sân này cũng là nơi diễn ra nhiều điều kì lạ khác: đó là những cơn mưa rào Sấm ghé xuống sân – khanh khách - cười; mưa chéo mặt sân - sủi bọt; cóc nhảy chồm chồm; cả Ông trời mặc áo giáp đen – ra trận…hay đám ma bác giun với: Họ hàng nhà kiến kéo ra – Kiến con đi trước, kiến già theo sau – Cầm hương kiến đất bạc đầu – Khóc than kiến cánh khoác màu áo tang – Kiến lửa đốt đuốc đỏ làng – Kiến kim chống gậy, kiến càng nặng vai – Đám ma đưa đến là dài – Qua những vườn chuối, vườn khoai, vườn cà... Chỉ với một góc sân quen thuộc, Khoa đã tạo ra được cả một thế giới huyền diệu chỉ trẻ thơ mới thấy, biết, thích thú.

Từ cái thế giới nho nhỏ ấy, hồn thơ của Khoa cất cánh, rộng mở, hướng tới không gian làng quê rộng lớn hơn, chứa bao điều hấp dẫn.

Đó là hương quê, từ mùi thơm ngát của hoa bưởi rụng đêm qua: Hoa rơi trắng mảnh sân con – Ôi hoa đã rụng vẫn còn ngát hương, của hương nhãn đặc lại – Thơm ngoài sân trong nhà đến mùi vị rất riêng của đất quê: Mùi bùn đang ngấu – Mùi phân đang hoai – Vôi chưa tan hẳn – Còn hăng rãnh cày. Hương vị của làng quê dẫu có thể không quen với ai đó nơi thị thành, nhưng với Khoa, nó đã thành máu thịt. Chính tự anh cũng cảm thấy: Đất trời cách một gang mây – Và tôi cùng với luống cày tỏa hương. Giữa đất và người có một sự giao cảm đặc biệt: Đi trong ngào ngạt – Niềm vui gieo trồng – Thịt da ta cũng – Tỏa hơi ruộng đồng. Cái hương đồng gió nội thân thương ấy như làm say cả chúng ta:

Trời đất hôm nay

Như chim mới hót

Như rượu mới cất

Như mật mới đông

Đó là những khung cảnh tự nhiên bình dị mà thân thương người ta chỉ có thể nhìn thấy ở đất làng:  từ dưới mặt đất Hàng cây cau lặng đứng – Hàng cây chuối đứng im; … trời trở gió heo may - Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau; Dưới bóng đa, con trâu – Thong thả nhai hương lúa – Đủng đỉnh đàn bò về - Lông hồng như đốm lửa đến bầu không gian trên cao Bầu trời xanh biếc mênh mông - Cánh cò chớp trắng trên sông Kinh Thầy.

Viết về con người ở làng quê, thơ Khoa là sự tái hiện chân thực mà đầy cảm xúc về những người nông dân. Người lao động thôn quê với bao nỗi nhọc nhằn: Áo mẹ mưa bạc màu – Đầu mẹ nắng cháy tóc; Những trưa tháng sáu – Chết cả cá cờ - Cua ngoi lên bờ - Mẹ em xuống cấy… Chỉ sinh ra và lớn lên trên mảnh đất làng mới có thể thấm thía đến thế nỗi cơ cực của mẹ, của các cô bác nông dân. Hơn thế, cậu bé Khoa đã rất tinh tế, sâu sắc cất lời ngợi ca, tôn vinh người lao động, chọn cho họ một vị thế xứng đáng, vị thế làm chủ, vươn lên trong cuộc sống. Kết thúc bài thơ Mưa, Khoa viết: Bố em đi cày về - Đội sấm – Đội chớp – Đội cả trời mưa. Không phải ngẫu nhiên mà Khoa viết thế. Khoa thực sự rung động trước tư thế “đội sấm”, “đội chớp”, “đội mưa” rất ung dung, bình tĩnh, tự tin của cha mình. Mọi hình ảnh của bài thơ Mưa quy tụ lại một điểm đẹp nhất, sáng nhất là bức chân dung người nông dân đầy dũng cảm, tự tin và chiến thắng.

Đọc thơ Khoa, ta cũng được hòa mình vào cái không khí vui tươi của ngày mùa. Những người làm nghề nông được gặt hái thành quả lao động của mình: Chị chủ nhiệm rũ rơm – Anh dân quân đập lúa – Thóc nở bung trời sao – Nhuộm vàng cả trời cao. Khó có thể tìm thấy ở đâu có niềm vui tập thể bình dị, trong trẻo như niềm vui trên đồng ruộng. Cũng khó có thể tìm thấy ở đâu hình ảnh Thóc nở bung trời sao đẹp và đáng yêu đến vậy.

Thơ Khoa không chỉ gây xúc động về hình ảnh mà còn tạo những bất ngờ thú vị về thanh âm của cuộc sống chỉ có ở làng quê Bắc bộ.

2. Thơ Trần Đăng Khoa mang đến những thanh âm cuộc sống của làng quê Bắc bộ đầy thú vị:

Sống ở thôn quê, tham gia vào tất cả những sinh hoạt văn hóa của làng, Trần Đăng Khoa rất tự nhiên hấp thụ vào mình tất cả những âm thanh bình dị, trong trẻo và vô cùng phong phú của một vùng nông thôn. Khoa phác họa lại trong rất nhiều bài thơ những thanh âm đó.

Từ tiếng của các con vật trong nhà: tiếng mấy chú gà liếp nhiếp, mụ gà cục tác như điên, tiếng con chó vện hay hỏi đâu đâu, tiếng con vịt bầu hay nói ầm ĩ… đến tiếng của các con vật ngoài đồng: Ếch nhái uôm uôm mở hội, Ếch con học nhạc, Dế Mèn ngâm thơ; tiếng các con vật trên cao: Xôn xao tiếng sẻ, tiếng ve báo mùa, Những chú chim chiu chít – Bay lên kêu chíp chíp, Tiếng chim chích chòe đang hót… thật sôi nổi, rộn ràng. Và đây là một thứ âm vang đặc trưng của không gian sinh hoạt văn hóa làng: Tiếng trống làng – Tùng! Tùng! Tùng… Âm vang – Đầy làng – Tiếng gà – Khát khát – Tiếng chó – Khau khau – Tiếng gọi nhau – Ơi ới – Tiếng những nồi cơm – Chín vội – Liềm hái – Va nhau… Tiếng ồn ào – Cánh đồng – Chân trời – Vàng rực. 

Làng quê không chỉ sinh động hẳn lên bởi những nhạc điệu rộn ràng, sôi nổi ấy mà còn tha thiết bởi tiếng võng đưa kẽo kẹt. Cái âm thanh Kẽo cà kẽo kẹt quá đỗi bình thường ấy lại chứa trong nó bao điều ý nghĩa: Kẽo cà kẽo kẹt – Mênh mang trưa hè – Chim co chân ngủ - Lim dim cành tre… Cây na thiu thiu – Mắt na hé mở - Chim ngoài cửa sổ - Mổ tiếng võng kêu… Xưa mẹ ru em – Cũng tiếng võng này – Cánh có trắng muốt – Bay – bay – bay – bay. Không gian làng còn lắng đọng trong tiếng hát ru ầu ơ dịu dàng, ấm áp yêu thương của bà: Vẫn là đêm như đêm trong ca dao – Tiếng của đất rì rầm sinh nở - Lời bà ru ngọt ngào sữa lúa – Cháu nằm nghiêng như hạt giống sắp nảy mầm; tiếng mẹ hát Ngọt bùi đắng cay; tiếng đàn bầu Tiếng ân tình mấy ngàn năm trước – Tiếng ân tình hôm nay khiến Ánh trăng bỗng thành bát ngát – Tiếng chim đêm cao vời…

Có ai đi xa mà không nhớ, không thương những tiếng quê hương ấy.

Trần Đăng Khoa còn gây ấn tượng đặc biệt với ta bởi cách cảm âm thanh kỳ lạ và đầy tinh tế. Trong những tiếng quê bình dị, anh nghe được, tái hiện lại được cả những tiếng lắng sâu vào trong không gian mà chúng ta không dễ gì nghe thấy. Đó là tiếng thóc thở hí hóp, Tiếng cây lách cách đâm chồi, tiếng gió trở mình trăn trở, tiếng sương đọng mật, tiếng rì rầm rặng duối – Há miệng đòi uống sương,Tiếng trăng thở động tàu dừa, tiếng thơ thầy đọc đỏ nắng, xanh cây quanh nhà. Nửa đêm, phải tinh lắm mới có thể nghe được tiếngLưa thưa vài hạt mưa ngoài hàng cây , tiếng trời trở gió heo may hòa lẫn với nhau để làm nên cái không khí chớm thu rất đặc trưng. Ta nghe trong thơ có cái chớm lạnh của gió mùa. Thấy ở đây một chút lo xa nhạy cảm của con trẻ, thấy cần thêm tấm áo ấm, thoáng chút xao xác, hơi buồn và vắng vẻ. Đúng là Khoa có một năng lực tinh tế khi nắm bắt, lắng nghe thanh âm cuộc sống. Hay chính sự giao cảm rất sâu giữa thi sĩ với đồng đất quê hương đã khiến anh trở nên tài tình trong việc cảm nhận cái “hồn”, cái “thần” của quê hương xứ sở, có thể nghe và tả đầy rung cảm cả cái âm thanh cái lá đa rụng trong đêm thanh vắng Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng, thậm chí cả Một tiếng gì không rõ – Xôn xao cả đất trời.

Chính những thanh âm vang động của đời thường, những thanh âm trong trẻo, tha thiết của tình người nơi làng quê Bắc bộ trong thơ Trần Đăng Khoa đã truyền cho người đọc một tình yêu sâu sắc với quê hương, một xúc cảm mạnh mẽ với phong vị Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Pháp Gerard Gullume khi đọc thơ Khoa đã cảm động thốt lên:: “Việt Nam, hồn tôi!”. 

Xưa, khi mảnh đất làng chưa phải là thi liệu quen thuộc của văn chương, chúng ta đã xúc động với mấy vần thơ của cụ Tam Nguyên Yên Đổ ưu ái cho hồn xứ sở: Ao thu lạnh lẽo nước trong veo – Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo – Sóng biếc theo làn hơi gợn tí – Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo – Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt – Ngõ trúc quanh co khách vắng teo; Năm gian nhà cỏ thấp le te – Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe… Không gian nông thôn Bắc bộ đã hiện lên thật gần gũi, thân thương, nhưng dẫu sao vẫn còn mang nét tĩnh và trầm mặc quá. So sánh có thể là khập khiễng, nhưng đúng là chỉ đến khi đọc thơ Khoa chúng ta mới cảm nhận được hết, một cách rõ nét, một cách sinh động và gợi cảm cái hình ảnh, thanh âm rất đặc trưng của làng quê Bắc bộ, làng quê Việt Nam. Khoa đã sống trọn vẹn cái không khí của làng quê. Anh đã ngắm nhìn hình ảnh quê hương bằng hình ảnh bông lúa mẩy vàng cả trời sao, đã lắng nghe tiếng quê hương bằng tiếng lúa rì rào, đã thở hơi thở quê hương bằng hương thơm của lúa đồng ngọt sữa, nên trái tim anh

… cứ tự nhiên ca hát

Những lời từ ngọn lúa sinh ra.

Đúng là chỉ khi thấm thía cuộc sống ở mảnh đất làng, khi đã lắng nghe được âm điệu của lúa, khi day dứt với câu hỏi: Đất ơi, núm ruột tôi đất giữ ở nơi nào và nhất là khi trực tiếp sục bàn chân trần trụi xuống bùn, Khoa mới càng thấy rõ: “Có cái gì đó rất quê hương làm óc tim tôi run rẩy” và cảm nhận đến cội nguồn tất cả những gì là máu thịt của nông thôn.

Trần Đăng Khoa – “nhà thơ mục đồng”. Các nhà phê bình văn học vẫn gọi Khoa như vậy khi muốn khẳng định phong cách nghệ thuật của một cây bút thực sự mặc dù tuổi đời còn rất nhỏ. Làng quê Bắc bộ đã tạo nên thơ Khoa, từ màu sắc đến linh hồn, làm nên một thế giới nghệ thuật thơ riêng có, đầy sức cuốn hút đối với nhiều thế hệ người yêu thơ. Có lẽ vì thế, nghĩ đến thơ Trần Đăng Khoa là người ta nghĩ ngay đến những câu thơ mộc mạc như lời hát mục đồng, mặc cho cậu bé mục đồng ấy bây giờ đã bước vào tuổi ngũ tuần:

- Đất trời cách một gang mây

Và tôi cùng với luống cày tỏa hương.

- Mái gianh ơi hỡi mái gianh

Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương.

Tài liệu tham khảo:

1. Thơ Trần Đăng Khoa - Nguyễn Thị Thúy Vân [sưu tầm], NXB Văn hoá Sài Gòn, 2008.

2. Góc sân và khoảng trời - Trần Đăng Khoa, NXB Văn học, tái bản 2004.

Điêu Thị Tú Uyên

Theo //fpec.utb.edu.vn/


Video liên quan

Chủ Đề