Vì sao nói thơ bác đầy trăng
Hay nhất
Ngoài tập "Nhật kí trong tù", chủ tịch Hồ Chí Minh còn để lại nhiều bài thơ chữ Hán và thơ Tiếng Việt. Thơ của Bác phong phú, đẹp đẽ chứa chan tình yêu nước thương dân. Bác cũng có viết một số bài thơ cảm hứng trữ tình nói về tình yêu thiên nhiên. Những vần thơ trăng của Bác đẹp lắm. Nhà văn Hoài Thanh nhận xét "Thơ bác đầy trăng" I, Dàn ý tham khảo A. Mở bài - Giới thiệu tác giả: Hồ Chí Minh + Là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc + Là người cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam + Là nhà thơ tiêu biểu của nền văn học nước nhà. + Phong cách sáng tác: phong phú, đa dạng. - Giới thiệu khái quát vấn đề cần nghị luận: Thơ Bác đầy trăng B. Thân bài 1. Giải thích luận đề "Thơ Bác đầy trăng" - Thể hiện nội dung, hình ảnh quen thuộc đặc trưng trong thơ Bác: ánh trăng + Trăng không chỉ là người tâm tình, tri âm, tri kỉ của Người + Mà trăng còn phản ánh tâm tư, nỗi băn khoăn đang thường trực trong trái tim rộng lớn, mênh mông ấy. 2. Chứng minh - Ngắm trăng Ngục trung vô tửu diệc vô hoa, Đối thủ lượng tiêu nại nhược hà? + Câu thơ đầu tả thực cảnh lao tù khắc nghiệt: không rượu cũng không hoa Trong tù làm gì có rượu và hoa là những thứ vốn để tạo thi hứng cho tâm hồn thi sĩ? Xưa nay, uống rượu ngắm trăng, uống rượu thưởng hoa là chuyện thường tình. Trong những đêm trăng đẹp, thi nhân thường đem rượu ra uống để thưởng hoa , thưởng trọng. Có đầy đủ rượu và hoa thì cuộc vui mới thật thú vị, mĩ mãn . Nói chung , người ta chỉ ngắm trăng khi thảnh thơi, tâm hồn thư thái. Nhân hưởng song tiến khán minh nguyệt Nguyệt tòng song khích khán thi gia + Vầng trăng đã vượt qua song sắt để ngắm nhà thơ ( khán thi gia ) trong tù . Vậy là cả người và trăng đều chủ động tìm đến nhau . - Rằm tháng Giêng + Hai câu thơ đầu tả cảnh sông nước trong mùa xuân. Sông xuân, nước cũng xuân đến bao la bát ngát. Trời xuân lung linh dưới ánh trăng tạo nên một không gian khoáng đạt, nên thơ. + Hai câu sau hiện lên khung cảnh làm việc của Hồ Chí Minh. => Khi bàn xong công việc, vị lãnh tụ vĩ đại mới có thời gian để ngắm ánh trăng đêm. 3. Bình luận - Hình ảnh trong thơ Bác hiện lên với những gì đẹp nhất, giản dị nhất. - Tuy trăng luôn xuất hiện trong thơ Bác nhưng không tỏ vẻ nhàm chán mà luôn có sự sáng tạo, điểm mới lạ trong mỗi lần xuất hiện. - Trăng chính là một trong những hình ảnh làm nên cái hay, cái đẹp trong thơ Bác. 4. Liên hệ C. Kết bài - Khẳng định lại giá trị của vấn đề II, Bài văn tham khảo Không biết tự bao giờ, trăng đã trở thành nguồn ảm hứng dạt dào, bất tận của thi sĩ muôn đời. Trong thơ đông tây kim cổ đã có biết bao bài thơ hay viết về trăng, để lại ấn tượng không phai trong trái tim người đọc. Một trong những tác giả viết nhiều về trăng đó là Hồ Chí Minh. Có lẽ bởi vậy mà nhà thơ Hoài Thanh đã nhận xét rằng "Thơ Bác đầy trăng". Điều này được thể hiện rõ qua hai bài thơ Ngắm trăng và Rằm tháng giêng. Trước hết, bài thơ Ngắm trăng ( Vọng nguyệt ) ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt là chốn lao tù tăm tối của chế độ Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc, vào khoảng những năm bốn mươi hai , bốn mươi ba của thế kỉ XX. Người tù thi sĩ tay bị xích, chân bị cùm, thân thể đoạ đày nơi ngục lạnh mà tâm hồn vẫn lâng lâng, thanh thản, say mê thưởng thức vẻ đẹp của đêm trăng sáng: Ngục trung vô tửu diệc vô hoa, Đối thủ lượng tiêu nại nhược hà? Câu thơ đầu tả thực cảnh lao tù khắc nghiệt: không rượu cũng không hoa Trong tù làm gì có rượu và hoa là những thứ vốn để tạo thi hứng cho tâm hồn thi sĩ? Xưa nay, uống rượu ngắm trăng, uống rượu thưởng hoa là chuyện thường tình. Trong những đêm trăng đẹp, thi nhân thường đem rượu ra uống để thưởng hoa , thưởng trọng. Có đầy đủ rượu và hoa thì cuộc vui mới thật thú vị, mĩ mãn . Nói chung , người ta chỉ ngắm trăng khi thảnh thơi, tâm hồn thư thái. Nhưng ở đây, thi sĩ ngắm trăng trong hoàn cảnh đặc biệt là chốn lao tù mà bản thân bị đày đoạ cực khổ, phải sống cuộc sống “ khác loài người ”, không phù hợp với thú thưởng nguyệt thanh cao. Làm gì có rượu và hoa để thưởng trăng? Chẳng có nhà tù nào lại “ nhân đạo ” đến mức mỗi kì trăng sáng lại mang rượu và hoa đến cho tù nhân ngắm trăng. Ý thơ chỉ có thể hiểu rằng, trước cảnh đêm trăng quá đẹp , thí sĩ bỗng khao khát được thưởng trăng một cách trọn vẹn. Mặc dù giữa chốn lao tù, cái không rượu chổng lên cái không hoa..., hiện thực xám ngắt và lạnh lẽo phủ định tất cả, nhưng trong trái tim yêu đời thiết tha của Bác, cảm hứng vẫn dạt dào, nồng đượm khiến Người phải thốt lên: Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ. Câu thơ thể hiện niềm xao xuyến , rạo rực của Bác trước đêm trăng đẹp. Vầng trăng tròn đầy, ngời sáng kia như thúc giục , mời gọi thì nhân hãy ra giữa chốn tự do mà chiêm ngưỡng, mà bầu bạn với trăng. Ngặt nỗi hoàn cảnh giam cầm trói buộc cho nên việc thưởng trăng của người tù - thi sĩ chỉ thu gọn trong một cử chỉ âm thầm, lặng lẽ: Nhân hưởng song tiến khán minh nguyệt Nguyệt tòng song khích khán thi gia Bác say mê ngắm trắng qua cửa sổ . Bốn bức tường xà lim chật hẹp không ngăn nổi cảm xúc mênh mông. Bác thả hồn theo ánh trăng và gửi gắm vào đó khát vọng tự do cháy bỏng. Dường như thi sĩ muốn nhắn gửi đến trăng lời thì thẳm tâm sự : “Trăng ơi , trăng có hiểu lòng ta yêu trăng đến độ nào ?". Sự thổ lộ , giãi bày chân thành tự trong sâu thẳm hồn người đã được trăng cảm động và chia sẻ. Vầng trăng đã vượt qua song sắt để ngắm nhà thơ ( khán thi gia ) trong tù . Vậy là cả người và trăng đều chủ động tìm đến nhau . Đến bài thơ "Rằm tháng Giêng", hình ảnh trăng một lần nưã được hiện lên: “Rằm xuân lồng lộng trăng soi Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân Giữa dòng bàn bạc việc quân Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”. Hai câu thơ đầu tả cảnh sông nước trong mùa xuân. Sông xuân, nước cũng xuân đến bao la bát ngát. Trời xuân lung linh dưới ánh trăng tạo nên một không gian khoáng đạt, nên thơ. Trong khung cảnh ấy, trong đêm Rằm tháng giêng, Bác “bàn bạc việc quân” để lãnh đạo kháng chiến. Khuya về, khi bàn xong công việc, vị lãnh tụ vĩ đại mới có thời gian để ngắm ánh trăng đêm. Và thế là Người gặp trăng, bỗng trở thành thi nhân với hồn thơ thật đẹp: “Giữa dòng bàn bạc việc quân Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền” Thật vậy, cả hai bài thơ vừa thể hiện tình cảm yêu mến thiên nhiên tha thiết của thi sĩ Hồ Chí Minh , vừa cho thấy sức mạnh tinh thần to lớn của người chiến sĩ cách mạng vĩ đại. Đằng sau những câu thơ đậm đà phong vị cổ điển ấy là một tinh thần thép, biểu hiện ở khát vọng tự do, phong thái ung dung của con người chân chính: Hồ Chí Minh. |