Xót tình máu mủ nghĩa là gì

- Ngày xuân em hãy còn dài: Em còn trẻ đẹp, son rỗi

- Xót tình máu mủ: Ràng buộc bằng tình ruột thịt

- Thay lời nước non: Nhờ trả nghĩa, nhấn mạnh tình cảm thiêng liêng

⇒ Sử dụng độc đáo hàng loạt các thành ngữ

⇒ Cách nói khéo léo, chặt chẽ, có lí, có tình, dùng lý trí kìm nén cảm xúc khiến Thuý Vân không thể chối cãi

⇒ Thể hiện sự thông minh của Thuý Kiều

Đại thi hào Nguyễn Du là một thiên tài văn học, niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Tên tuổi của Nguyễn Du gắn liền với "Truyện Kiều", một trong những tác phẩm nổi tiếng trong sự nghiệp sáng tác của ông. Được viết dựa trên cốt truyện của "Kim Vân Kiều truyện", "Truyện Kiều" phản ảnh sinh động xã hội thời đại của tác giả, một xã hội mục nát bất công, nhẫn tâm dồn ép nhân dân vào bước đường cùng. Tuy chỉ là một đoạn trích ngắn từ "Truyện Kiều", song "Trao duyên" vẫn thể hiện đầy đủ chủ đề của tác phẩm. Sống trong thời đại mà con người bị đồng tiền làm băng hoại đạo đức, nhân vật chính Thúy Kiều bị ép phải bán mình cho Mã Giám Sinh để chuộc cha và em trai, phải từ bỏ tình cảm của mình với Kim Trọng, trao lại duyên tình dang dở ấy cho Thúy Vân dù trong lòng có bao nỗi đau xót. Nỗi đau ấy được khắc họa rõ nét nhất qua mười hai câu đầu của đoạn trích: "Cậy em em có chịu lời, … Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây." Nhan đề đoạn trích là "Trao duyên" nhưng trớ trêu thay đây không phải là cảnh trao duyên thơ mộng của những đôi nam nữ mà ta thường gặp trong ca dao xưa. Có đọc mới hiểu được, "trao duyên" ở đây là gửi duyên, gửi tình của mình cho người khác, nhờ người khác chắp nối mối tình dang dở của mình. Trước phút dấn thân vào quãng đời lưu lạc, Thúy Kiều nghĩ đến Kim Trọng, nghĩ đến việc mình đã không giữ trọn lời đính ước với người yêu, băn khoăn thức trắng đêm nghĩ cách trả nghĩa cho chàng, cuối cùng đành nhờ cậy em là Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng. Mở đầu đoạn thơ là lời thỉnh cầu chân thành tha thiết của Kiều: "Cậy em em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa." Nguyễn Du là một bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ, điều đó có thể dễ dàng thấy được qua hai câu thơ trên. "Cậy" và "nhờ" đều có nghĩa là nhờ vả, xin sự giúp đỡ của một ai đó, nhưng thay vì sử dụng từ "nhờ", Nguyễn Du đã khéo léo chọn từ "cậy", bởi vì từ "cậy" này có nghĩa là nhờ với tất cả sự hi vọng và tin tưởng, nét nghĩa này từ "nhờ" không thể hiện được. Cũng như vậy, thay vì từ "nhận", tác giả lại dùng từ "chịu" bởi vì khác với từ "nhận", từ "chịu" không chỉ thể hiện sự đồng ý, nhận lời mà còn kèm theo ý bắt buộc, khiến cho người được nhờ vả khó nói lời từ chối. Cách tác giả dùng từ rất chính xác, bởi lẽ đây là chuyện rất quan trọng đối với Kiều, nàng hi vọng Thúy Vân đồng ý, nên lời van nài cũng có chút ép buộc. Tuy Kiều cũng hiểu việc nhờ Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng là hết sức vô lí, nhưng nàng vẫn quyết tâm muốn trả nghĩa cho người yêu, bỏ qua lẽ thường, nàng "lạy" và "thưa" đối với em mình. Kiều dùng chính lễ nghi lạy trước thưa sau, thay bậc đổi ngôi này để ràng buộc Vân. Trong tình thế vừa tình vừa lễ như vậy, Vân sao có thể không nhận lời? Lạy xong, Kiều mở lời giãi bày hoàn cảnh của mình với em, nói ra ý định muốn em kết duyên với Kim Trọng: "Giữa đường đứt gánh tương tư, Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em." Thành ngữ "đứt gánh tương tư" có ý chỉ tình yêu dang dở. Tình cảm của Kiều với Kim Trọng chưa kịp tới hồi viên mãn thì sóng gió đã ập tới, đành phải dở dang, Kiều đau khổ biết mấy, nhưng đành ngậm ngùi trao lại cho em. Nàng dùng điển tích về "keo loan" để thể hiện ý định muốn Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng. Không những thế, nàng cũng bày tỏ sự ray rứt đối với em, đem mối tình sâu đậm của nàng biến thành một mối "tơ thừa" giao phó cho Thúy Vân, "mặc" cho Thúy Vân định liệu. Trao duyên cho em nhưng nào đã dễ trút đi gánh nặng? Bao nhiêu kỉ niệm ngày xưa của mối tình đầu, kỉ niệm đẹp đẽ của một thời ào ạt trở về khiến nàng đau đớn khôn nguôi, nàng không dằn được lòng mình, tâm sự với em: "Kể từ khi gặp chàng Kim, Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề." Từ "khi" được lặp lại ba lần gợi cho người đọc nghĩ đến tình cảm sâu nặng giữa Kiều với chàng Kim, nhớ đến những kỉ niệm đẹp của hai người. Với nghệ thuật liệt kê "ngày quạt ước", "đêm chén thề" những kỉ niệm đẹp đẽ ấy trở nên sống động hơn trong lòng Kiều. Những kí ức ấy vốn rất ngọt ngào, giờ đây khi nhớ đến lại trở thành một nỗi đau không thể nào nguôi trong lòng nàng, đặc biệt là khi nghĩ đến nguyên nhân của nỗi đau này: "Sự đâu sóng gió bất kì, Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai." "Sóng gió bất kì" là khi Kim Trọng phải về quê chịu tang chú, gia đình Kiều lại bị mắc oan, cha và em Kiều bị bắt, cách duy nhất để cứu họ là nàng phải bán mình, đồng nghĩa với việc nàng phải làm trái với lời hẹn ước trước kia với người yêu. Hoàn cảnh trái ngang quá, giữa hai lẽ "hiếu" và "tình", Kiều chỉ có thể chọn một. Nàng dằn vặt nội tâm, day dứt đau đớn, cuối cùng đành hi sinh tình yêu của mình để làm tròn chữ hiếu. Nàng tỏ nỗi lòng với Vân, dùng nỗi đau của mình để thuyết phục Vân, hy vọng em mình có thể thấu hiểu cho và chấp nhận yêu cầu của mình. Đã tỏ bày nỗi lòng nhưng vẫn sợ Vân không đồng ý, Kiều lại dùng lí lẽ để thuyết phục em: "Ngày xuân em hãy còn dài, Xót tình máu mủ thay lời nước non. Chị dù thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây." Để thuyết phục em, Kiều không tiếc viện đến tình máu mủ, cùng với cả cái chết. Các thành ngữ "tình máu mủ", "lời nước non", "thịt nát xương mòn", "ngậm cười chín suối" được dùng đến trong bốn câu thơ trên thể hiện sự quyết tâm thuyết phục em cho bằng được của Kiều. Đối với nàng, việc trả nghĩa cho Kim Trọng còn quan trọng hơn cả mạng sống, chỉ cần Vân kết duyên với Kim Trọng, cho dù có chết đi thì Kiều cũng thấy được an ủi, mãn nguyện. Chính sách viện đến tình máu mủ và cái chết ấy đã khiến cho Vân chẳng thể nào từ chối lời khẩn cầu của nàng. Với thể thơ lục bát được sử dụng một cách nhuần nhuyễn, đầy sáng tạo kết hợp với nhiều biện pháp tu từ, sử dụng sáng tạo thành ngữ dân gian và kết hợp tài tình ngôn ngữ bác học với ngôn ngư bình dân, Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét tâm trạng dằn vặt, đau đớn khi phải hi sinh chữ tình để làm tròn chữ hiếu của Kiều, khiến hình tượng của nàng trở nên đẹp đẽ hơn trong lòng người đọc. Đồng thời, qua tác phẩm ta còn có thể thấy được sự yêu thương, cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du dành cho nhân vật của mình. Thông qua việc thể hiện nỗi đau của Kiều khi phải trao duyên tình dang dở của mình cho em, "Trao duyên" mang đến độc giả cái nhìn chân thực về thời đại của tác giả, một thời đại mà con người bị đồng tiền làm băng hoại đạo đức, bị chính đồng tiền dồn ép tới đường cùng, không còn lối thoát. Chính giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc ấy mà đoạn trích, cũng như "Truyện Kiều" đã để lại trong lòng nhiều thế hệ độc giả ấn tượng sâu sắc.

Giải chi tiết:

Giới thiệu tác giả, tác phẩm

- Nguyễn Du là đại thi hào của nền văn học Việt Nam và là danh nhân văn hóa thế giới. Nguyễn Du có điều kiện tiếp nhận truyền thống văn hóa quý báu của gia đình và của nhiều vùng quê khác nhau – tiền đề cho sự phát triển tài năng nghệ thuật của ông sau này. Chủ nghĩa nhân đạo là một trong những nội dung lớn xuyên suốt trong những sáng tác của Nguyễn Du.

- Truyện Kiều là một trong những sáng tác xuất sắc của Nguyễn Du và là kiệt tác của nền văn học Việt Nam được Nguyễn Du sáng tác dựa trên cốt truyện của cuốn tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện [Thanh Tâm tài nhân]. Trao duyên là một đoạn trích đặc sắc của tác phẩm Truyện Kiều. Đoạn trích trên là những lời Thúy Kiều nói với Thúy Vân trong cái đêm sau gia biến khi nàng đã quyết định bán mình để có ba trăm lạng vàng cứu cha và em ra khỏi những đòn tra khảo dã man. Đoạn trích nói về bi kịch tình yêu tan vỡ, bi kịch mở đầu cho một chuỗi những bi kịch kéo dài mười năm lăm của đời Kiều.

Phân tích đoạn trích

* Câu 1, 2: Lời nhờ cậy của Thúy Kiều

Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Trước khi kể chuyện tình yêu của mình, trước khi trao duyên, Kiều đặt Vân vào một tình thế không thể từ chối được.

->Thúy Kiều đã sử dụng ngôn từ hết sức tinh tế, hết sức cẩn trọng để đạt được hiệu quả cao nhất. Ngoài ra, nàng cũng rất hiểu cho tình thế của Thúy Vân, đây là câu chuyện nhất mực hệ trọng, là hạnh phúc của một đời người, đây là câu chuyện rất đột ngột với Thúy Vân.

-“cậy”:

+ là nhờ giúp đỡ, nhờ người khác làm mộ việc gì đó cho mình -> nhờ

+ nghĩa hàm ẩn:

Sự gửi gắm, tin tưởng [tin cậy] Trông mog, hi vọng rất tha thiết [trông cậy]

->Thúy Kiều đã thể hiện sự gửi gắm, nương nhờ rất tha thiết.

-“chịu lời”

+ Nét nghĩa chính tương đương với nhận lời – nhận lời một cách thoải mái

+ Nhận lời làm việc gì đó mà không tự nguyện, miễn cưỡng chấp nhận

->Thúy Kiều rất hiểu cho tình thế, cảm xúc của Thúy Vân khi phải nghe lời sắp nói.

    Kim Trọng có thể là người hoàn hảo, có trí tuệ, có thể là người rất lí tưởng với Thúy Kiều nhưng chưa hẳn đã làm cho Thúy Vân rung động, nhất là khi Vân chưa hề có tình yêu với chàng Kim. -> thiệt thòi của Thúy Vân

- “lạy, thưa”:

+ Cặp từ này phi lí khi được sử dụng trong quan hệ chị em của lễ giáo phong kiến

+ Trở thành hợp lí trong quan hệ giữa người ban ơn với kẻ chịu ơn. -> thể hiện sự tôn trọng trước những gì Thúy Vân sẽ làm cho mình

ð  Cách dùng từ của Thúy Kiều đã đặt Thúy Vân vào tình thế khó có thể từ chối trước những điều éo le, nghịch cảnh sắp nói.

* Câu 3 – câu 12: Lí lẽ trao duyên

- Thúy Kiều đưa ra mâu thuẫn mà mình đang phải đối mặt, đang rất dằn vặt, suy nghĩ:

+ Thúy Kiều đã hẹn thề với Kim Trọng

Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

++ Quạt ước - ngày: tặng quạt để ngỏ ý ước hẹn trăm năm

++ Chén thề - đêm: uống rượu để thề nguyền trung thủy

->Đây là câu chuyện đã diễn ra giữa Thúy Kiều và Kim Trọng. Thúy Kiều tặng quạt cho Kim Trọng. Hai người uống rượu thề nguyền trong đêm tự tình:“Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”.

Thúy Kiều còn nhiều lần khác nói lời thề nguyền chung thủy với Kim Trọng:

-                                         Đã lòng quân tử đa mang

                             Một lòng vâng tạc đá lòng thủy chung

-                                        Cùng nhau trót ăn nặng lời

                           Dẫu thay mái tóc dám dời lòng xưa

-                                       Còn non còn nước còn dài

                           Còn về còn nhớ đến người hôm nay

->Nguyên tắc ứng xử của người xưa: đã thề thì nhất định phải thực hiện

>< Nhưng Thúy Kiều lại vi phạm lời thề, là người bội ước khi bán mình chuộc cha.

   Sự bội ước ấy được diễn giải qua một loạt những câu thơ:

+ Giải thích nguyên nhân – khách quan: dù là khách quan nhưng Thúy Kiều vẫn là người bội ước

Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai

->Biến cố rất lớn, rất bất ngờ, đột ngột đến mức người ta không kịp trở tay, không kịp chuẩn bị.  Đó là chuyện cha và em bị vu oan -> gia đình tan nát.

-> Thúy Kiều bị đặt vào mâu thuẫn “Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn”. Cuối cùng quyết định:

Đệ lời thệ hải minh sơn

Làm con trước phải đền ơn sinh thành

Vì:   

                                        Thà rằng liều một thân con

                                 Hoa dù giã cánh, lá còn xanh cây

->Chọn chữ hiếu – tuân thủ nguyên tắc đạo lí phong kiến

=> Rơi vào mâu thuẫn khác: phụ lòng người yêu.

=> Thúy Kiều đã gửi gắm sự áy náy, dằn vặt, hối lỗi

Giữa đường đứt gánh tương tư” -> tình yêu dang dở, “đứt gánh”, thành ngữ “giữa đường đứt gánh” khắc sâu tình cảnh của Thúy Kiều

ð    Đau khổ

- Thúy Kiều đề xuất giải pháp để giải quyết mâu thuẫn:

                                    Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em

->Thúy Kiều đã lựa chọn ngôn từ chuẩn xác

+ keo loan: keo được làm từ huyết của con chim loan

+ dùng keo loan để “chắp vá”

+ tơ thừa: cho thấy hai điều

++ Sự đau đớn của Thúy Kiều

++ Sự tội nghiệp của Thúy Vân

->Mối duyên mình rất trân trọng lại phải lìa bỏ và trao cho người khác. Người ấy cũng không hề có tình cảm với người mình yêu. Mình đau đớn bao nhiêu thì người nhận duyên cũng đau đớn bấy nhiêu

+ Mặc em: có hai nghĩa

++ Mặc kệ

++ Buộc em vào -> Vân không thể từ chối. Vì

Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non

->Suốt từ đầu, Thúy Kiều vẫn rất hiểu cho tình thế của em

+ Ngày xuân: tuổi trẻ, cơ hội hạnh phúc còn phơi phới, rộng mở, thênh thang trước mắt.

->Nếu không có câu chuyện của mình, em sẽ có cơ hội hạnh phúc nhưng em sẽ không vì thế mà từ chối mình bởi:

+ Tình máu mủ: tình chị em ruột thịt. Chị cũng vì gia đình nên mới lỡ dở và phải nhờ đến em

=>Em sẽ thay mình trả nợ duyên cho Kim Trọng “thay lời nước non”.

=> Nợ tình thì không trả được vì khối tình ấy rất sâu nặng nhưng có thể nhờ Thúy Vân trả nợ duyên.

-Thúy Kiều giãi bày tâm trạng của mình:

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây

->Luôn có dự cảm không lành. Khi bước chân ra khỏi nhà, khi phải chia tay tình yêu có nghĩa là sẽ chết.

->Nhưng có điều cứu rỗi: đã phó thác duyên cho Thúy Vân, có thể ngậm cười chín suối, được an ủi, được xoa dịu nỗi đau.

     Sự xoa dịu ấy chỉ có thể có được khi Thúy Vân thay mình trả nợ duyên Kim Trọng

->Đây cũng là một đoạn ra điều kiện với Thúy Vân.

=> Vân không thể từ chối.

=> Thúy Kiều đặt trách nhiệm “chắp mối tơ thừa” sang cho Vân để Vân không thể từ chối.

=> Lập luận sắc sảo, hợp lí

=> Sự thông minh của Thúy Kiều.

Tổng kết 

Video liên quan

Chủ Đề