Baài văn cảm nhận bài quê hương lớp 8 năm 2024

Quê hương luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều nhà văn, nhà thơ. Mỗi tác giả mang đến cái nhìn và cảm nhận riêng về vùng đất quê hương. Bài thơ 'Quê hương' của nhà thơ Tế Hanh là một trong những tác phẩm nổi bật khi nói về đề tài này. Tác phẩm không chỉ tái hiện hình ảnh đẹp của quê hương biển mà còn truyền đạt niềm tự hào và tình yêu quê hương sâu sắc.

Khung cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển và tư thế lao động của người dân quê hương được Tế Hanh mô tả sinh động ở khổ thơ thứ hai. Chuyển đến khổ thơ thứ ba, bức tranh đoàn thuyền trở về như sau:

'Ngày hôm sau, sự ồn ào trên bến đỗ Dân làng hối hả, tấp nập đón thuyền về Dưới trời biển tĩnh, cá đầy thuyền Những con cá tươi ngon, thân bạc trắng'

Cảnh biển hùng vĩ, năng động khi ra khơi, và không khí phấn khởi khi trở về được Tế Hanh tận dụng một cách tinh tế. Tác giả sử dụng từ ngữ như 'ồn ào', 'tấp nập' để tạo nên bầu không khí sôi động. Người ở nhà hào hứng đón đợi đoàn thuyền trở về, họ hạnh phúc khi nhìn thấy những con cá tươi ngon, thân mình bạc trắng đầy khoang thuyền. Đó là thành quả của một đêm làm việc miệt mài trên biển.

Họ tràn ngập hạnh phúc nhưng vẫn biết ơn 'Thiên Nhiên'. Câu nói 'Nhờ ơn trời' truyền đạt một tâm hồn kính trọng, thể hiện lối sống giản dị, chất phác và tấm lòng mộc mạc của những người dân sống bên bờ biển. Dù có sức mạnh và bản lĩnh, họ hiểu rằng thành công của họ phụ thuộc lớn vào thời tiết, đặc biệt là thiên nhiên. Biển cần phải êm, sóng lặng, không có bão giông, thì thuyền mới dễ dàng ra khơi. Đó là niềm tin sâu sắc trong cuộc sống của người dân làng chài.

Với tình yêu thương quê hương và sự kết nối sâu sắc, Tế Hanh đã mô phỏng khung cảnh cực kỳ chân thực. Người đọc như được hòa mình trong không khí ấy, cảm nhận đầy đủ những cảm xúc.

Không chỉ thế, dưới bàn tay tài năng của nhà thơ, chúng ta còn thấy hình ảnh con người trở nên tuyệt vời:

'Dân chài với làn da ngăm rám nắng Toàn bộ hình thể thơm tho vị xa xăm Chiếc thuyền yên bình trở về sau một đêm dài Nhìn thấy muối biển thấm đều trong vỏ thịt.'

Đã một đêm làm việc cật lực trên biển nhưng trên gương mặt họ không còn dấu vết của mệt mỏi. 'Làn da ngăm rám nắng' miêu tả đặc điểm của làn da của những người làng chài. Chịu đựng nhiều thử thách từ thời tiết biến đổi, hương vị mặn mòi của biển đã thấm sâu vào tâm hồn, biến họ thành những con người mạnh mẽ và kiên cường. Bước xuống từ những con thuyền chứa đựng nhiều cá, họ như những chiến binh của biển cả: 'Cả thân hình nồng thở vị xa xăm'. 'Vị xa xăm' là hương vị của nắng gió, là hương vị trong hơi thở của đại dương. Hình ảnh 'làn da ngăm rám nắng' hòa quyện với câu chuyện lãng mạn 'Cả thân hình nồng thở vị xa xăm' tạo nên vẻ đẹp tinh tế của con người biển cả. Đó chính là vẻ đẹp toàn diện của người lao động.

Ngoài hình ảnh về con người là những chiếc thuyền. Sau thời gian dài làm việc chung với người dân trên biển, chúng không thể giấu diếm sự mệt mỏi của mình. Hình ảnh nhân hoá 'Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm' giúp độc giả dễ dàng hình dung được dáng vẻ mệt mỏi của con thuyền. Nó trở nên yên bình, lặng im để lắng nghe hương vị muối biển thấm vào từng vết thương trên thân thể. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được sử dụng một cách tinh tế. Trong tầm nhìn của nhà thơ, nó không chỉ là một vật thể vô tri, vô giác mà còn là một hình thái sống động, có linh hồn, hòa mình sâu sắc vào cuộc sống của con người và nhịp sống của nơi này.

Không phải ai cũng có thể hiểu rõ những điều này. Vị mặn của biển, hơi thở của cuộc sống làng chài có lẽ đã thấm sâu vào tâm hồn của Tế Hanh. Từ đó, nó đã lan tỏa vào trái tim tinh tế của nhà thơ, trở thành một khoảng trời yêu thương kỳ diệu. Tác giả đã thành công trong việc sử dụng những kỹ thuật nghệ thuật độc đáo như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Giọng thơ truyền đạt đầy cảm xúc, nhịp điệu linh hoạt. Qua đó, bức tranh về đoàn thuyền trở về, tôn vinh vẻ đẹp của con người lao động được tái hiện. Đồng thời, nó chứa đựng những nỗi nhớ, tự hào và tình yêu quê hương sâu sắc.

Với những thành công về nội dung và nghệ thuật đó, đoạn thơ thứ 3 của bài 'Quê hương' đã để lại nhiều dấu ấn trong lòng người đọc. Bài thơ trở thành biểu tượng của thơ ca về quê hương, là minh chứng cho tâm hồn nhạy bén, tinh tế của Tế Hanh.

Nội dung được phát triển bởi đội ngũ Mytour với mục đích chăm sóc và tăng trải nghiệm khách hàng.

Quê hương là nguồn cảm hứng vô tận của nhiều nhà thơ Việt Nam và đặc biệt là Tế Hanh – một tác giả có mặt trong phong trào Thơ mới và sau cách mạng vẫn tiếp tục sáng tác dồi dào. Ông được biết đến qua những bài thơ về quê hương miền Nam yêu thương với tình cảm chân thành và vô cùng sâu lắng

Thơ Tế Hanh bao giờ cũng trong trẻo. Dù năm nay nhà thơ đã xấp xỉ tuổi 80, tâm hồn như vẫn nguyên vẹn những cảm xúc thuở hoa niên. Quê hương là nguồn thi cảm dồi dào của Tế Hanh. Những bài thơ hay nhất của ông là những bài viết về quê hương yêu dấu.

Người đọc bắt đầu biết đến Tế Hanh từ bài thơ Quê hương in trong tập Nghẹn ngào năm 1939. Trong 14 tập thơ đã xuất bản của Tế Hanh, kế từ khi ông bước chân vào làng thơ đến nay, không tập nào thiếu vắng những bài thơ viết về quê cũ. Quê hương đã trở' thành

một hệ thống hình tượng "ám ảnh" suốt đời thơ Tế Hanh. Thuở hồn nhiên cắp sách đến trường, quê hương trong mắt cậu học trò nghịch ngợm là những "con đường nhỏ chạy lang thang, kéo nỗi buồn không dạo khắp làng" [Lời con đường què], là "con sông xanh biếc, nước gương trong soi tóc những hàng tre" [Nhớ con sông quê hương]. Khi đã trưởng thành "cầm súng xa nhà đi kháng chiến", tâm hồn nhà thơ vẫn trở về quấn quýt với con sông quê, mảnh vườn xưa, cái giếng đầu làng. Xa quê từ năm 15 tuổi, mấy chục năm sau Tế Hanh vẫn xốn xang khi nghe một điệu bài chòi [Điệu quê hương] trên sóng phát thanh. Tình yêu quê hương đã trở' thành niềm thao thức khôn nguôi khiến nhà thơ nhìn thấy mặt quê hương hiển hiện trên gương mặt người yêu dấu… Có thể nói, quê hương là điểm khởi đầu sự nghiệp sáng tác của Tế Hanh và là nguồn đề tài không bao giờ vơi cạn của nhà thơ xứ Quảng.

Ngay từ bài thơ đầu tiên viết về quê hương, người đọc đã có cảm tình với một giọng thơ chân thành, rủ rỉ. Chàng thanh niên miền biển kể về làng quê của mình bằng những lời mộc mạc:

"Làng tôi vốn làm nghề chài lưới

Nước bao vây cách biển nửa ngày sông".

Sau câu mở đầu giản dị, cảm hứng như đã được khơi nguồn thi sĩ bắt đầu say sưa mô tả cảnh đẹp của quê hương:

"Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng

Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã

Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang

Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió"….

Dòng thơ cứ nhẹ nhàng tuôn chảy, hình ảnh như tự nó thi nhau kéo đến, đẩy câu thơ đi liền một mạch theo dòng cảm xúc dào dạt của nhà thơ. Ngọn bút của thi nhân chỉ điểm phớt qua vài nét mà cảnh vật.như bừng sáng: "trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng". Một ngày mới ở làng thuở bắt đầu bằng vẻ tươi mát của thiên nhiên và tâm trạng hào hứng của người lao động. Chiếc thuyền "băng" ra biển trong tư thế của một "con tuấn mã", khi những "trai tráng" vạm vỡ, đầy sinh lực khua những nhịp chèo hối hả, mê say: "Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang". Thuyền lướt ra khơi, cánh buồm được kéo lên từ từ rồi bất chợt căng phồng vì no gió… Những hình ảnh so sánh đẹp và gợi cảm đi vào bài thơ một cách tự nhiên, dung dị, như không cần một cố gắng kĩ thuật nào. Dưới ngòi bút nhà thơ, cảnh sớm mai ở làng chài hiện lên đầy vẻ rạng rỡ, tinh khôi và điểm sáng huy hoàng nhất ở đây là hình ảnh:

"Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió".

Biết bao thi tứ đã nảy sinh từ cánh buồm kiêu hãnh và thơ mộng. Léc-môn-tốp [nhà thơ Nga] có bài thơ trữ tình nổi tiếng về một cánh buồm khao khát đời giông tố:

"Thấp thoáng xa xa một cánh buồm

Chập chờn trên biển cả mù sương

Buồm kiếm tìm chi nơi đất lạ?

Giã từ chi đó chốn quê hương?"

[Thuý Toàn dịch]

Thơ Nguyễn Bính cũng có một cánh buồm đau đáu nhớ nhung:

'"Anh đi đấy, anh về đâu?

Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm"…

Sau này, Hoàng Trung Thông còn mượn hình tượng Những cánh buồm để trò chuyện với con mình… Có bao nhiêu cánh buồm trong thơ ca là có bấy nhiêu cách cảm nghĩ khác nhau về hình tượng đó. Đối với Tế Hanh, cánh buồm như một biểu tượng của làng quê. Cánh buồm mỏng manh như "mảnh hồn làng” nhưng nó mở rộng "bao la" như tâm hồn rộng mở của quê hương, nó vươn lên, dân thân và che chở… Từ một "cánh buồm" hết sức cụ thể đem so với "mảnh hồn làng" vô cùng trừu tượng, nhà thơ đã mở' ra một khoảng trời thênh thang cho những liên tưởng của người đọc: cánh buồm, hay mảnh hồn làng, là sự che chở' cho thuyền nhỏ bé, là sức mạnh [góp gió] đẩy thuyền đi xa, là phương tiện để chèo lái con thuyền… Người dân chài ra khơi như mang đi một phần máu thịt quê hương, cánh buồm gắn với con thuyền như "hồn vía" làng quê che' chở, neo giữ họ… Kẻ xa quê lâu ngày, thoáng thấy cánh buồm tưởng như bắt gặp hình bóng của miền quê yêu dấu… Tế Hanh, với trái tim mẫn cảm của một nhà thơ, đã thấy ỏ' cánh buồm, tâm hồn lộng gió của quê hương mình.

Tình cảm gắn bó với làng quê khiến nhà thơ cảm nhận được sâu sắc niềm vui đơn sơ, hồn hậu của những.người dân chài khi thuyền cá trở' về:

"Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ

Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.

Nhờ ơn trời biển, lặng cá đầy ghe,

Những con cá tươi ngon thân bạc trắng"

Cuộc sống khắc nghiệt, luôn phải đương đầu với muôn nỗi hiếm nguy buộc những người dân ở đây gạn kết thành một cộng đồng chặt chẽ. Họ hợp lực với nhau trong những chuyên đi biển và chia sẻ cùng nhau mọi nỗi vui buồn. Mỗi lần thuyền ra khơi đánh cá, cả người ở nhà lẫn người ra đi đều cầu trời khấn Phật để được bình an. Vì thế, mỗi một khoang cá nặng trở về là niềm vui, là hạnh phúc của mọi nhà: "Khắp dân làng tấp nập đón ghe về". Hơn ai hết, người dân chài thấu hiểu: đằng sau những mẻ cá "tươi ngon" là bao nỗi vất vả gian nan, bao hiểm nguy mà người thân của họ đã trải qua. Khi nhà thơ thay họ xúc động thốt lên:

"Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe"

Người đọc bỗng cảm thấy một niềm hạnh phúc rưng rưng lan toả trong dòng thơ rất đỗi bình thường:

"Những con cá tươi ngon thân bạc trắng".

Giọng thơ đang náo nức, sôi nổi ở đoạn đầu, đến đây bắt đầu lắng xuống, nhịp thơ đi chậm lại. Ngòi bút nhà thơ chuyển sang đặc tả chân dung người đánh cá và con thuyền về bến:

"Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm;

Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm

Nghe chất muối thấm dần trong thớ vố"

Đây là khổ thơ đẹp nhất, gợi cảm nhất của bài thơ, giống như một tác phẩm điêu khắc bằng thơ. Nếu như ở phần trên Tế Hanh thiên về mô tả cảnh đẹp nhìn thấy thì ở đây, nhà thơ lại nghiêng về khai thác những vẻ đẹp cảm thấy. Hình tượng thơ, vì thế, như có

chiều sâu hơn. Với "làn da ngăm rám nắng" người dân chài làm ta liên tưởng đến bức tượng đồng vạm vỡ. Hình ảnh đẹp như tượng nhưng ấm nồng sự sống, bởi: "Cả thân hình nồng thở vị xa xăm". Nhà thơ đã thi vị hóa một hiện tượng bình thường trong đời thực – nước biển mặn ngấm vào da thịt người dân chài tạo thành mùi vị riêng trên cơ thể họ – để gợi nên một hình ảnh vô cùng lãng mạn: chàng đánh cá sau chuyến phiêu du trên biển, lúc trở về còn mang theo hương vị nồng nàn của những vùng biển lạ. Và con thuyền, được hình dung như một cơ thể sống động, cũng mỏi mệt "nằm" im trên bến, lặng lẽ cảm nhận vị mặn mòi của biển ngấm vào cơ thể

"Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ

Trong câu thơ nhân hóa con thuyền, nhà thơ đã phối hợp tài tình hai hiện tượng: nước biển mặn ngấm sâu vào vỏ gỗ của con thuyền ngâm nước lâu ngày, tiếng tí tách rạn nứt của lòng thuyền ngấm mặn khi phơi mình trên bờ cát… Cả người và thuyền, hai hình tượng đều đẹp đến say lòng trong trạng thái nghỉ ngơi thư giãn. Bao nhiêu tài hoa của nhà thơ như đã dồn tụ ở bốn câu thơ đặc sắc này. Nếu bài thơ kết thúc ở đây, có lẽ sức gợi cũng chẳng kém gì khi có thêm khổ cuối:

"Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ

Màu nước, xanh, cá hạc, chiếc buồm vôi,

Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,

Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá".

Đoạn kết bài thơ chỉ muốn tổng hợp lại những nỗi nhớ cụ thể của chàng trai. Có lẽ thơ không nên nói đến tận cùng, nói đủ đầy như thế chăng?

Nhưng, đối với Tế Hanh, sự hồn nhiên chân thành trong tình cảm bao giờ cũng lấn át những dụng công kĩ thuật của nghề thơ. Bất chấp thời gian và sự biến đổi của lòng người, cảm xúc về quê hương vẫn là nguồn mạch dâng trào trong trái tim thi sĩ, để mỗi lần thấy biển, nhà thơ lại xốn xang:

Chủ Đề