Bộ phận nào trên cơ thể con người là bằng chứng cho thấy tổ tiên chúng ta từng có đuôi

Đó là kết quả của một nghiên cứu mới, lần đầu tiên, đo lường chính xác lượng nước mà con người mất và thay thế mỗi ngày so với họ hàng động vật sống gần nhất của chúng ta.

Con người tiêu thụ nước chỉ bằng một nửa loài vượn

Theo nghiên cứu được công bố ngày 5-3 trên tạp chí Current Biology, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, trung bình con người tiêu thụ 3 lít, tương đương khoảng 12 cốc nước mỗi ngày. Trong khi tinh tinh, khỉ đột sống trong vườn thú phải tiêu thụ gần gấp đôi con số đó.

Nghiên cứu đã so sánh lượng nước luân chuyển của 309 người với nhiều lối sống, từ nông dân, săn bắn hái lượm, đến nhân viên văn phòng, với 72 con vượn sống trong vườn thú và khu bảo tồn.

Kết quả này hơi bất ngờ, vì con người có số tuyến mồ hôi nhiều gấp 10 lần tinh tinh và nói chung, hoạt động mạnh hơn nhiều so với loài vượn, nên đáng ra phải tiêu thụ nhiều nước hơn mỗi ngày. Nhưng trong số các loài linh trưởng, con người đã tiến hóa để trở thành mô hình có dòng chảy thấp.

Loài người tiến hóa để tiết kiệm nước hơn các loài linh trưởng.

Phó giáo sư nhân chủng học tiến hóa Herman Pontzer, Đại học Duke, tác giả chính cho biết, một sự thay đổi cổ xưa về khả năng tiết kiệm nước của cơ thể con người có thể đã cho phép tổ tiên săn bắn hái lượm của chúng ta phiêu lưu xa hơn các con suối và hố nước để tìm kiếm thức ăn.

Phó giáo sư Pontzer nói: “Ngay cả khi chỉ có thể đi lâu hơn một chút mà không có nước cũng đã là một lợi thế lớn khi con người ban đầu bắt đầu kiếm sống trong những thảo nguyên khô hạn”.

Ông Pontzer cho hay, để duy trì sự cân bằng chất lỏng trong phạm vi lành mạnh, cơ thể của con người hoặc bất kỳ động vật nào khác giống như một cái bồn tắm: "nước đi vào phải bằng lượng nước đi ra".

Thí dụ như mất nước bằng cách đổ mồ hôi, và tín hiệu khát của cơ thể xuất hiện, yêu cầu chúng ta uống. Con người thường uống nhiều nước hơn cơ thể cần, và thận sẽ loại bỏ lượng chất lỏng thừa.

Đối với mỗi cá nhân trong nghiên cứu, các nhà nghiên cứu một mặt tính toán lượng nước hấp thụ qua thức ăn và đồ uống, mặt khác đo lượng nước bị mất qua mồ hôi, nước tiểu và đường tiêu hóa.

Thêm vào đó, thực tế cho thấy những con vượn lớn như tinh tinh, linh trưởng, khỉ đột và đười ươi có một cuộc sống lười biếng. "Hầu hết các loài vượn dành 10 đến 12 giờ mỗi ngày để nghỉ ngơi hoặc ăn, sau đó chúng ngủ 10 giờ. Chúng chỉ di chuyển vài giờ mỗi ngày", ông Pontzer cho biết.

Các nhà nghiên cứu đã so sánh sự khác biệt về khí hậu, kích thước cơ thể và các yếu tố như mức độ hoạt động và lượng calo đốt cháy mỗi ngày của người và vượn. Vì vậy, họ kết luận rằng, việc tiết kiệm nước của con người là có thật.

Những giả thuyết tại sao con người tiết kiệm nước

Các loài vượn lớn như tinh tinh, linh trưởng, khỉ đột và đười ươi có sống cuộc sống lười biếng hơn con người, nhưng lại tiêu thụ nhiều nước hơn. Ảnh: Sở thú Lincoln Park. 

Các phát hiện cho thấy một điều gì đó đã thay đổi trong quá trình tiến hóa của con người đã làm giảm lượng nước mà cơ thể chúng ta sử dụng hàng ngày để duy trì sức khỏe.

Một giả thuyết được đưa ra là phản ứng khát của cơ thể chúng ta đã được điều chỉnh lại để về tổng thể, chúng ta cần nước cho mỗi calo ít hơn so với họ hàng loài vượn. Ngay cả khi còn là trẻ sơ sinh, rất lâu trước khi có thức ăn đặc đầu tiên, tỷ lệ nước trên calo của sữa mẹ thấp hơn 25% so với sữa của các loài vượn lớn khác.

Một khả năng khác là bằng chứng hóa thạch cho thấy rằng, khoảng 1,6 triệu năm trước, với sự ra đời của loài người cổ xưa Homo erectus, con người bắt đầu phát triển sống mũi cao hơn. Những người anh em họ của chúng ta là khỉ đột và tinh tinh có mũi phẳng hơn rất nhiều.

Đường mũi của chúng ta giúp tiết kiệm nước bằng cách làm mát và ngưng tụ hơi nước từ không khí thở ra, biến nó trở lại thành chất lỏng ở bên trong mũi, nơi nó có thể được tái hấp thu.

Việc có một chiếc mũi nhô lên cao hơn có thể đã giúp con người ban đầu giữ được nhiều độ ẩm hơn trong mỗi lần hít thở.

Ông Pontzer kết luận: “Vẫn còn bí ẩn cần giải đáp, nhưng rõ ràng con người đang tiết kiệm nước. Việc tìm ra chính xác tại sao chúng ta lại làm vậy sẽ thực sự thú vị".

Cơ thể người hiện đại ngày nay chắc chắn không giống như tổ tiên ngày trước. Quá trình tiến hóa đã mang đến nhiều sự thay đổi, trong đó có việc cơ thể thích nghi với những hoạt động mới của xã hội. Điều này dẫn đến việc nhiều bộ phận, không còn phù hợp với thời đại nữa và dần bị thoái hóa, chỉ còn sót lại một chút dấu vết của thời kỳ đấu tranh sinh tồn khắc nghiệt.

1. Cơ gan tay - 10% dân số đang có nó

Hãy thử nắm ngửa tay ra và kéo căng phần cổ tay. Nếu bạn thấy có một chiếc gân nổi lên, thì bạn nằm trong số 10% dân số thế giới "may mắn" được sở hữu nó.

Bộ phận này được gọi là "long palmar muscle" - cơ gan tay, và nó... hoàn toàn vô dụng. Thực ra thì trước kia nó có hữu dụng, ở thời mà con người rất cần đến nhóm cơ này để leo trèo bằng chi trước. Nó giúp tăng lực nắm, qua đó giúp người xưa bám vào vật thể một cách dễ dàng hơn.

Để chứng minh điều này, một nghiên cứu đã được thực hiện vào năm 2014 chỉ ra rằng các loài linh trưởng thường xuyên leo trèo như khỉ, vượn cáo... có phần cơ gan tay rất dài. Trong khi đó ở khỉ đột, tinh tinh, vượn và cả người, bộ phận này ngắn hơn rất nhiều.

Ngày nay, con người chẳng cần phải trèo cây nữa, nên nhóm cơ này cũng thoái hóa dần. Giờ đây, ngoài việc là bằng chứng củng cố thuyết tiến hóa của Darwin, thì nó chẳng còn tác dụng gì nữa.

Cụ thể hơn, các chuyên gia cho biết palmaris longus là những gì còn sót lại của tổ tiên chúng ta ngày trước - những người sử dụng chi trước để leo trèo.

Tuy nhiên ngày nay, có hay không có bộ phận này cũng không khiến lực nắm hay cơ bắp của chúng ta yếu đi. Nói cách khác, ngoài việc là bằng chứng củng cố thuyết tiến hóa của Darwin, bộ phận này... vô dụng.

2. Ruột thừa

Ruột thừa - đúng như cái tên mà loài người đặt cho nó - là một bộ phận khá thừa thãi, lại dễ gây viêm nhiễm. Những người làm phẫu thuật cắt bỏ ruột thừa xong đều chẳng cảm thấy gì khác, vẫn tiếp tục cuộc sống như bình thường.

Trên thực tế, các nhà khoa học đã chứng minh rằng ruột thừa tồn tại để bảo vệ hệ miễn dịch, bằng cách lưu trữ những lợi khuẩn trong đó. Nguyên do có cơ chế này là vì hệ thống dạ dày và ruột vốn sẽ luôn tìm cách loại bỏ vi khuẩn, nhưng không phân biệt lợi khuẩn và khuẩn gây bệnh. Vậy nên, các lợi khuẩn sẽ phải tìm chỗ trú ẩn, và chúng sẽ chọn ruột thừa.

Nhìn chung, đây là một cơ chế khá hữu ích trong quá khứ - thời điểm y học chưa phát triển. Nhưng ngày nay, ruột thừa không còn nhiều tác dụng nữa, lại dễ trở thành ổ viêm nhiễm có khả năng gây chết người. Vậy nên dù được bênh vực cỡ nào, đa số đều đồng tình rằng khúc ruột này... đúng là thừa.

3. Xương cụt

Xương cụt là khúc xương ở phía cuối xương sống, và nó là minh chứng cho thấy tổ tiên của chúng ta từng... có đuôi.

Ở các loài động vật, đuôi là bộ phận giúp chúng ta duy trì thăng bằng và khả năng di chuyển tốt. Nhưng khi con người học được cách đi bằng 2 chân, việc tồn tại một cái đuôi bỗng trở nên vô nghĩa. Vậy là qua thời gian, nó tiêu biến đi, chỉ còn lại khúc xương cụt.

4. Cơ quan Jacobson - vomeronasal organ [VNO]

Các loài động vật có vú đều có một cơ quan đặc biệt gọi là vomeronasal organ. Nó nằm trong khoang mũi, được cho là một cơ quan phụ trợ liên quan đến khứu giác. Tuy nhiên với con người, cơ quan này hoàn toàn chẳng có tác dụng gì, mà chỉ là phần còn sót lại của quá trình tiến hóa thôi. Bởi lẽ, các nhà khoa học sau rất nhiều công sức nghiên cứu cũng không tìm thấy bằng chứng nào về việc VNO có thể vận hành như các loài vật khác.

5. Răng khôn

Chắc hẳn nhiều người từng phải đau khổ vì chiếc răng này. Nhẹ thì ê ẩm, nặng thì đau nhức đến mức không ăn được gì, và phải tới nhờ các nha sĩ giải quyết.

Trên thực tế thì với người xưa, những chiếc răng này khá quan trọng. Các nghiên cứu cho thấy, hộp sọ của tổ tiên loài người có bộ hàm lớn hơn và cũng nhiều răng hơn, phù hợp để nhai các loại thực phẩm cứng. Nhưng qua thời gian, thói quen ăn uống của loài người cũng thay đổi, dẫn đến chuyện xương hàm dần trở nên nhỏ hơn. Mỗi tội, những chiếc răng còn dư thừa lại không biến mất. Chúng vẫn ở đó, chờ đến khi con người "đủ tuổi" thì trồi lên và gây biết bao đau khổ.

6. Đôi tai Darwin [Darwin’s tubercle]

Hay còn gọi là "sụn tai Darwin". Dấu hiệu nhận biết một người sở hữu đôi tai này, đó là có một phần sụn nhỏ lồi lên phía vành tai. Lý do có cái tên như vậy là vì Darwin chính là người đầu tiên đề cập đến nó.

Và tác dụng của nó, không gì khác ngoài 2 chữ... vô dụng, chỉ là một phần còn sót lại của quá trình tiến hóa thôi.

7. Đôi tai biết động đậy

Một số người có khả năng cử động được tai, số khác thì không. Và để làm được điều đó, đôi tai của bạn cần một nhóm cơ đặc biệt.

Các cơ trong tai vốn tồn tại từ thời xa xưa, nhằm giúp tổ tiên hướng tai về phía có tiếng động, qua đó tăng khả năng sinh tồn. Còn giờ thì tai con người đã bé hơn trước, nên nhóm cơ này ngoài việc là một khả năng khá "ngầu" thì chẳng còn tác dụng gì nữa.

8. Mí mắt thứ 3

Nhiều người khi nhìn vào gương sẽ thấy một vùng màu đỏ nằm ở phía hốc mắt gần mũi. Nhiều người còn nhầm nó với tuyến lệ - lacrimal caruncle, bởi chúng nằm cạnh nhau. Nhưng thực ra, đó là mí mắt thứ 3, và khoa học cũng đặt cho nó một cái tên rất đàng hoàng: plica semilunaris.

Tuy nhiên, trên thực tế lớp mí mắt này gần như không có tác dụng gì. Các nhà khoa học cho biết đây là sản phẩm còn sót lại của quá trình tiến hóa, và là bằng chứng cho thấy con người từng có một mí mắt thứ 3 giống như các loài chim, thằn lằn và một số loài thú hiện nay, với tác dụng làm sạch mắt, bảo vệ mắt khỏi ánh Mặt trời, hoặc trở thành "kính bơi" khi chúng xuống nước.

Qua thời gian, mí mắt thứ 3 ở người đã bị vô hiệu hóa, chỉ còn lại một dấu tích nhỏ và trở thành một cơ quan rất... vô dụng. Theo các chuyên gia, sở dĩ con người để lại một chút dấu tích này là vì nó vẫn chưa gây hại gì cho quá trình tiến hóa.

9. Cơ da cổ - Platysma muscle

Nhiều người có phần cơ này lắm. Nó trải dài từ phần cổ trước tới tận ngực. Nhưng nếu hỏi nó có tác dụng gì không thì... không nhiều đâu!

Tác dụng lớn nhất của phần cơ này là vì mục đích thẩm mỹ, cho phép con người thực hiện một số biểu cảm rõ hơn trên khuôn mặt, đặc biệt là ở vùng miệng. Có điều theo các nhà khoa học, nó là thứ còn sót lại từ một bộ phận gọi là panniculus carnosus trên các loài động vật, để giúp chúng cử động ria mép nhằm ngăn côn trùng đậu lên đó.

Nguồn: BS, VT.co

Video liên quan

Chủ Đề