Chấn thương ở đầu theo dõi bao lâu

Các nguyên tắc điều trị cho bệnh nhân tăng ICP bao gồm

Phản ứng nhanh đặt nội khí quản Đặt nội khí quản Hầu hết các bệnh nhân cần có đường thở nhân tạo có thể kiểm soát bằng đặt nội khí quản, tứ mà có thể Ống nội khí quản qua miệng [ống thông qua miệng] Ống nội khí quản qua mũi [ống thông qua... đọc thêm [sử dụng giãn cơ] được sử dụng thay vì đặt ống nội khí quản sống nếu BN cần hỗ trợ đường thở hoặc thở máy Tổng quan về thông khí cơ học Thông khí cơ học có thể Không xâm lấn, liên quan đến các loại mặt nạ Xâm nhập, bao gồm đặt nội khí quản Lựa chọn và sử dụng các kỹ thuật thích hợp đòi hỏi sự hiểu biết về cơ học hô hấp. Có nhiều... đọc thêm . Đặt nội khí quản qua đường mũi có thể gây ho và nôn và do đó làm tăng ALNS. Thuốc được sử dụng để làm giảm tối thiểu tình trạng tăng ALNS khi kiểm soát đường thở - ví dụ, lidocaine 1,5 mg/kg IV 1-2 phút trước khi cho giãn cơ. Etomidate là một tác nhân tuyệt vời vì nó có tác dụng tối thiểu lên huyết áp; liều truyền TM ở người lớn là 0,3 mg/kg [hoặc 20 mg đối với người lớn thể chất trung bình] và ở trẻ em là 0,2 đến 0,3 mg/kg. Một lựa chọn khác, nếu không có hoặc nguy cơ thấp bị hạ huyết áp là propofol 0,2 đến 1,5 mg/kg truyền TM. Succinylcholine 1,5 mg/kg đường tĩnh mạch thường được sử dụng như một chất gây liệt cơ.

Mức độ oxy và thông khí nên được đánh giá bằng bằng cách sử dụng máy đo oxy máu động mạch và khí máu [nếu có thể, đánh giá CO2 cuối thì thở ra]. Mục tiêu là mức PaCO2 bình thường [38 đến 42 mm Hg]. Tăng thông khí dự phòng [PaCO2 25 đến 35 mmHg] không còn được khuyến cáo nữa. PaCO2 thấp hơn làm giảm ALNS bằng cách gây co mạch não, nhưng sự co mạch này cũng làm giảm tưới máu não, do đó làm tăng thiếu máu não. Vì vậy, tăng thông khí [PaCO2 mục tiêu 30 đến 35 mmHg] chỉ được sử dụng trong vài giờ đầu tiên và đối với tăng ALNS không đáp ứng với phương pháp điều trị khác.

An thần có thể được sử dụng để hạn chế sự kích động, hoạt động cơ bắp quá mức [ví dụ như do mê sảng], và giúp giảm nhẹ đáp ứng đau và do đó giúp ngăn ngừa tình trạng tăng ALNS. Để an thần, propofol thường được sử dụng ở người lớn [chống chỉ định ở trẻ em] vì thuốc khởi phát tác dụng nhanh và thời gian tác dụng rất ngắn; liều 0,3 mg/kg/h truyền tĩnh mạch liên tục, tăng dần khi cần thiết [lên đến 3 mg/kg/h]. Không dùng bolus ban đầu. Tác dụng phụ thường gặp nhất là hạ huyết áp. Sử dụng liều cao kéo dài có thể gây viêm tụy. Các thuốc nhóm benzodiazepine [ví dụ midazolam, lorazepam] cũng có thể được sử dụng để an thần, nhưng chúng không có tác dụng nhanh như propofol và khó xác định được đáp ứng liều của từng người. Thuốc chống rối loạn tâm thần có thể làm chậm quá trình phục hồi và tránh sử dụng nếu có thể. Thuốc giãn cơ hiếm khi cần sử dụng; nếu cần dùng, phải cho BN an thần đầy đủ.

Để kiểm soát đau tốt thường phải sử dụng opioid.

Duy trì trạng thái đẳng tích và độ thẩm thấu huyết thanh bình thường [độ thẩm thấu bình thường hoặc hơi tăng, mục tiêu thẩm thấu huyết tương từ 295 đến 320 mOsm/kg [295 to 320 mmol/kg]] là điều quan trọng. Để kiểm soát ALNS, các nghiên cứu gần đây đã phát hiện ra rằng dung dịch muối ưu trương [thường là 2% đến 3%] là một chất tăng độ thẩm thấu hiệu quả hơn mannitol. Sử dụng liều bolus 2-3 mL/kg truyền TM nếu cần thiết hoặc truyền liên tục 1 mL/kg/h. Theo dõi và duy trì nồng độ natri huyết tương ≤ 155 mEq/L.

Thuốc lợi tiểu thẩm thấu [ví dụ mannitol] truyền TM là biện pháp thay thế để làm giảm ALNS và duy trì độ thẩm thấu huyết tương. Tuy nhiên, chúng nên được dành cho những bệnh nhân có tình trạng xấu đi hoặc được sử dụng trước phẫu thuật cho những bệnh nhân có máu tụ. Mannitol dạng dung dịch 20% với liều 0,5 đến 1 g/kg truyền TM [2,5 đến 5 mL/kg] trong vòng 15 đến 30 phút và lặp lại với liều từ 0,25 đến 0,5 g/kg [1,25 đến 2,5 mL/kg] khi cần thiết [thường sau mỗi 6 đến 8 giờ]; nó làm giảm ALNS trong vài giờ. Mannitol phải được sử dụng thận trọng ở bệnh nhân bị bệnh động mạch vành nặng, suy tim, suy thận hoặc xung huyết mạch phổi vì mannitol làm tăng nhanh thể tích trong lòng mạch. Do thuốc lợi tiểu thẩm thấu làm tăng bài tiết nước tiểu nhiều hơn natri, sử dụng mannitol kéo dài cũng có thể dẫn đến mất nước và tăng natri huyết. Furosemide 1 mg/kg truyền TM cũng giúp làm giảm lượng dịch trong cơ thể, đặc biệt là giúp tránh được tình trạng tăng thể tích dịch thoáng qua do sử dụng mannitol. Cân bằng nước và điện giải phải được theo dõi chặt chẽ trong khi sử dụng thuốc lợi tiểu thẩm thấu.

Gây mê bằng pentobarbital là một lựa chọn can thiệp sâu hơn và hiện nay ít được sử dụng hơn nếu không kiểm soát được tăng ALNS. Gây mê bằng pentobarbital 10 mg/kg truyền TM trong 30 phút, 5 mg/kg/h trong 3 giờ, sau đó dùng liều duy trì 1 mg/kg/h. Liều này có thể được điều chỉnh để ngăn chặn sự tăng đột ngột sóng điện não đồ, một chỉ số được theo dõi liên tục. Hạ huyết áp là phổ biến và được quản lý bằng cách truyền dịch, và nếu cần thiết, sử dụng thuốc vận mạch.

Hạ thân nhiệt toàn bộ điều trị vẫn chưa được chứng minh lợi ích.

Một loạt các chất bảo vệ thần kinh đã và đang được nghiên cứu, nhưng cho đến nay, chưa có thuốc nào chứng minh được hiệu quả trong các thử nghiệm lâm sàng.

Ảnh minh họa. Nguồn: resusready.com.au

Chấn thương đầu luôn là một loại chấn thương nguy hiểm, cho dù sau khi va chạm, bạn vẫn cảm thấy bình thường thì cũng không nên lơ là việc theo dõi.

Nếu sau khi bị chấn thương đầu, bạn thấy mình xuất hiện các dấu hiệu sau đây, thì bạn cần đến phòng cấp cứu ngay.

1. Bạn bị đau đầu

Một trong số những dấu hiệu phổ biến nhất sau một chấn thương đầu là đau đầu. Dấu hiệu này xảy ra với khoảng 30% số người bị chấn thương đầu, và thường có nguyên nhân là do tích tụ máu hoặc dịch ở phía dưới sọ. Đa số các trường hợp đau đầu sau một chấn thương đầu đều không có gì đáng lo ngại, nhưng nếu sau một vài ngày bị chấn thương đầu, bạn cảm thấy đau đầu và đi kèm với các triệu chứng của tình trạng chấn động [concussion], ví dụ như yếu tay hoặc chân, khó nói, mất ngủ hoặc cơn đau đầu diễn biến nặng hơn, thì bạn nên đến gặp bác sĩ ngay lập tức.

2. Bạn không ngửi thấy bất cứ mùi gì

Một triệu chứng có thể xuất hiện sau chấn thương đầu đó là chứng mất khứu giác hoặc mất khả năng cảm nhận mùi. Dấu hiệu này thường rất khó nhận biết, kể cả đối với các bác sĩ, vì nhiều người sẽ không cảm thấy khó chịu hoặc không bận tâm về việc bị mất hoặc thay đổi khứu giác. Tuy nhiên, bạn vẫn nên lưu tâm tới khứu giác của mình. Bởi tình trạng mất khứu giác sau chấn thương đầu có thể có nguyên nhân là do tổn thương đường thở. Và vì triệu chứng mất khứu giác không phải là dấu hiệu đặc trưng của chấn thương đầu [mất khứu giác cũng có thể là dấu hiệu của bệnh Alzheimer] nên việc đến khám bác sĩ và tìm ra nguyên nhân thực sự của tình trạng này là vô cùng quan trọng.

3. Bạn thường xuyên bị quên

Mất trí nhớ là một triệu chứng khá phổ biến ở những người đã từng bị chấn thương đầu nhưng đây thực sự là một triệu chứng nghiêm trọng bởi đó có thể là dấu hiệu cho thấy đã có tình trạng đụng giập hoặc bầm tím các mô não. Loại mất trí nhớ thường gặp nhất sau chấn thương đầu đó là trí nhớ ngược chiều [retrograde memory]. Người bệnh có thể sẽ quên mất những sự kiện xảy ra trong quá khứ, trước khi chấn thương đầu xảy ra, đó có thể là những sự kiện xảy ra trước chấn thương đầu 2 giây hoặc 2 năm. Nhiều người gặp phải những triệu chứng này có thể sẽ vẫn lấy lại được trí nhớ lâu dài theo thời gian, mặc dù trong một số trường hợp, việc lấy lại trí nhớ xảy ra rất ngẫu nhiên. Nguyên nhân của tình trạng mất đi trí nhớ về những sự kiện xảy ra trước chấn thương, có thể là do sự mất cân bằng hóa chất trong não bộ.

4. Bạn cảm thấy chóng mặt

Việc cảm thấy bị chóng mặt sau một chấn thương tại đầu hoặc cổ là rất bình thường, nhưng nếu tình trạng chóng mặt kéo dài, bạn sẽ cần tiến hành một vài xét nghiệm để tìm ra nguyên nhân. Nếu bạn được chẩn đoán mắc phải tình trạng chóng mặt sau chấn thương thì bạn có thể sẽ cảm thấy chóng mặt khi xoay đầu ở một số vị trí, bạn cũng có thể sẽ bị đau nửa đầu đi kèm với chóng mặt, thậm chí là mất thính giác. Những triệu chứng trên có thể sẽ diễn biến nặng hơn theo thời gian nếu bạn không được điều trị kịp thời.

5. Bạn bị nôn mửa

Nôn mửa gần như là một phản ứng ngay lập tức của cơ thể với các chấn thương về mặt thể chất ở bên ngoài. Nhưng nếu sau chấn thương, bạn vẫn có thể ăn trưa và sau đó lại nôn hết bữa trưa ra ngoài, thì đó là dấu hiệu cho thấy bạn cần đến gặp bác sĩ. Một nghiên cứu tại Anh chỉ ra rằng, 7% số người trưởng thành và 12% số trẻ em được khảo sát đã bị nôn mửa sau khi gặp một chấn thương đầu. Trong số này, 28% người trưởng thành và 33% trẻ em xuất hiện tình trạng nứt hộp sọ, điều này gợi ý có mối liên quan giữa 2 tình trạng trên.

6. Bạn bị mất thói quen ngủ

Theo một nghiên cứu gần đây về rối loạn giác ngủ, 60% số người được khảo sát sống chung với tình trạng chấn thương đầu và thường xuyên gặp phải tình trạng khó ngủ. Với một số người, khó ngủ sẽ khiến họ không nghỉ ngơi đầy đủ được vào ban đêm, trong khi với một số người họ có thể sẽ phải thức trắng đêm. Nguyên nhân của tình trạng này là do đảo lộn đồng hồ sinh học, thay đổi ảnh hưởng của một số chất hóa học lên cơ thể hoặc não bộ không thể kiểm soát được nhịp thở của cơ thể. Nếu bạn nhận thấy những thay đổi về thói quen ngủ của mình hoặc thấy bản thân mình xuất hiện các dấu hiệu trầm cảm, thì tốt nhất bạn nên đến gặp bác sĩ để tránh được những thay đổi có hại cho cơ thể.

7. Bạn bị thay đổi cảm xúc

Mọi người đều có những thay đổi cảm xúc trong suốt cả ngày, và tất nhiên, một số người cũng sẽ bị thay đổi cảm xúc sau một chấn thương đầu. Nhưng nếu cảm xúc của bạn không trở nên tích cực hơn sau đó, thì đó có thể là dấu hiệu của một vấn đề nghiêm trọng. Thay đổi cảm xúc sau chấn thương đầu thường không phải là những đợt ủ rũ, buồn bã nhỏ mà thường là những sự bùng phát cảm xúc thất thường, có nguyên nhân là do tổn thương vùng não bộ kiểm soát hành vi và cảm xúc. Một số người sẽ có những đợt tự khóc hoặc tự cười một cách vô lý, không phản ánh đúng tâm trạng của họ, ví dụ như cười một cách không kiểm soát được khi nghe một câu chuyền buồn. Một số người sau chấn thương đầu cũng có thể sẽ dễ bị kích động hơn. Do vậy, tốt nhất, bạn nên đến bác sĩ kiểm tra để có thể kiểm soát được cảm xúc của mình một cách tốt nhất.

Không coi thường các chấn thương đầu

Tất cả các bác sĩ đều cho rằng, bạn không nên coi thường bất cứ một chấn thương đầu nào, bởi bất cứ chấn thương đầu nào cũng có khả năng gây ra biến chứng, đôi khi những biến chứng chỉ xuất hiện sau nhiều năm. Những người đã từng bị chấn thương đầu ở mức độ trung bình hoặc nặng có thể sẽ có nguy cơ mắc các rối loạn do thoái hóa thần kinh cao hơn, ví dụ như bệnh Alzheimer, bệnh Parkinson và chứng mất trí. Các chấn động tại đầu [concussion] cũng được coi là một dạng chấn thương đầu ở mức độ nhẹ. Có những số liệu cho thấy những người đã bị chấn động tại đầu, đặc biệt là những người trên 65 tuổi, sẽ có nguy cơ bị chứng mất trí cao hơn.

Nguồn: Viện Y học Ứng dụng Việt Nam

Video liên quan

Chủ Đề