Đặc điểm của các cuộc khởi nghĩa dưới triều Nguyễn

Nhà Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi Nguyễn Ánh [vua Gia Long] lên ngôi hoàng đế vào năm 1802 và kết thúc khi Bảo Đại thoái vị vào năm 1945, tổng cộng là 143 năm. Triều Nguyễn là một triều đại đánh dấu nhiều thăng trầm trong lịch sử Việt Nam, đặc biệt là cuộc xâm lược của người Pháp giữa thế kỷ 19.

Từ năm 1802–1884, các vua nhà Nguyễn nắm toàn quyền quản lý đất nước, trải qua 4 đời vua: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Gia Long và sau đó là Minh Mạng đã cố gắng xây dựng Việt Nam trên cơ sở Nho giáo. Trong thời kỳ này, nội bộ đất nước ổn định, triều Nguyễn ít được lòng dân, chỉ trong 60 năm đã xảy ra hơn 400 cuộc nổi dậy của người dân.

Một ngôi làng ở thời Nguyễn

Nói đến chuyện này thì không thể không nhắc đến tình hình xã hội và đời sống nhân dân khi ấy. Sử cũ chép lại, cuộc khủng hoảng xã hội ở nửa sau thế kỉ XVIII đã khiến nhà nước quân chủ phong kiến thời Nguyễn tăng thêm tính chuyên chế, củng cố quan hệ sản xuất phong kiến. Xã hội chia thành hai giai cấp: giai cấp thống trị bao gồm vua quan và địa chủ, cường hào ; giai cấp bị trị bao gồm các tầng lớp nhân dân lao động mà tuyệt đại đa số là nông dân.

Khi ấy, nhà Nguyễn cố gắng hoàn chỉnh bộ máy chính trị nhằm ổn định tình hình xã hội nhưng không ngăn được nạn tham ô. Dân gian truyền tai nhau câu: "Con ơi, mẹ bảo con này/Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan".

Không chỉ có nhân dân than thở: "Muốn nói gian làm quan mà nói" hay "quan tha, nha bắt"... mà cả vua Minh Mạng cũng bất bình, đã từng nhận xét: bọn quan lại "xem pháp luật như hư văn, xoay xở nhiều vành, chỉ cốt lấy tiền, không được thì buộc tội", Đại Nam thực lục.

Cảnh xử án thời Nguyễn

Ở nông thôn, địa chủ cường hào lại tiếp tục hoành hành, ức hiếp nhân dân. Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ đã tâu với vua: "Cái hại quan lại là một, hai phần, còn cái hại cường hào đến 8, 9 phần". Nhà nước chia vùng để đánh thuế, mức thuế khá nặng. Tô tức của địa chủ cũng khá cao. Mỗi năm người dân đinh phải chịu 60 ngày lao dịch.

Cũng trong thời kỳ đó, vua Nguyễn còn tập trung sức dân, của cải để xây dựng kinh thành, cung điện ở Phú Xuân, phá dỡ cung điện vua Lê ở Hà Nội chuyển vào, điều động hàng nghìn dân đinh, binh lính Thanh Hóa, Nghệ An, Bắc thành vào làm đến hàng chục năm. Theo sử cũ, trong một lần tuần du ra Bắc, vua Thiệu Trị đã bắt nhân dân xây dựng 44 hành cung ở dọc đường để vua nghỉ ngơi.

Không chỉ vậy, thiên tai, mất mùa, đói kém thường xuyên xảy ra. Có năm bão lụt lớn làm đổ hàng vạn nhà dân, hàng ngàn người chết. Có năm nạn dịch lan tràn làm hàng chục vạn người chết.

Một bài vè đương thời có câu :

Xúc đầy nghĩa địa

Thây thối bên cầu

Trời ảm đạm u sầu

Cảnh hoang tàn đói rét.

50 năm có 400 cuộc khởi nghĩa chống triều đình

Nhà Nguyễn là triều đại chứng kiến các cuộc nổi dậy của nông dân cũng như các tầng lớp khác bùng nổ dữ đội, nhất là ở Bắc Hà. Các nhà sử học tính rằng số lượng các cuộc nổi dậy nửa đầu thế kỷ 19 còn nhiều hơn toàn thế kỷ 18. Từ năm 1802 cho tới năm 1862, tại Bắc Hà có từ 350 cho tới 400 cuộc nổi dậy của nông dân nổ ra.

Trong số đó có 50 cuộc diễn ra dưới thời Gia Long từ năm 1802-1820, 254 cuộc dưới thời Minh Mạng [1820-1840], 58 cuộc dưới thời Thiệu Trị [1840-1847] và 40 cuộc nổi dậy dưới thời Tự Đức [1847-1862]. Dù vậy, trong số này cũng đã tính luôn cả các vụ nổi dậy liên quan tới vấn đề Công giáo, các phong trào phù Lê diệt Nguyễn của dân Bắc Hà, các toán cướp nổi lên hùng cứ địa phương, các toán tàn quân Thái Bình Thiên Quốc vượt biên vào cướp và cả những vụ bạo loạn như của Lê Duy Phụng do thực dân Pháp kích động để rảnh tay xâm chiếm Việt Nam.

Chân dung Cao Bá Quát, thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân ở Ứng Hòa [nay thuộc Hà Nội]

Tiêu biểu và rộng lớn nhất trong phong trào nông dân là các cuộc khởi nghĩa do Phan Bá Vành và Cao Bá Quát lãnh đạo. Khởi nghĩa Phan Bá Vành nổ ra năm 1821 ờ Sơn Nam hạ [Nam Định, Thái Bình...] mở rộng hoạt động ra các trấn Hải Dương, An Quảng. Nông dân tham gia đông đảo. Dân gian có câu: Trên trời có ông sao Tua, ở làng Minh Giám có vua Ba Vành.

Triều đình khi ấy đã huy động lực lượng quân sự lớn tấn công đàn áp trong nhiều năm và đến năm 1827, cuộc khởi nghĩa bị dẹp yên. Làng Trà Lũ [Nam Định] bị phá trụi, 7000 - 8000 người bị bắt.

Khởi nghĩa do Cao Bá Quát lãnh đạo bùng lên ở vùng Ứng Hoà [Hà Tây cũ] năm 1854, mở rộng hoạt động ra các tỉnh Hà Nội, Hưng Yên, nhưng do chưa chuẩn bị đủ lực lượng nên năm 1855 đã bị triều đình đàn áp.

Trong quá trình đàn áp các cuộc khởi nghĩa theo lệnh của triều đình Nguyễn, nhiều binh sĩ bất bình, có lúc đã chống đối. Vào năm 1833, ở Phiên An [Gia Định] đã nổ ra cuộc khởi nghĩa lớn của binh lính do Lê Văn Khôi lãnh đạo. Được sự hưởng ứng của binh lính và nông dân nhiều nơi, nghĩa quân đã có lúc làm chủ cả các tỉnh thuộc Nam Bộ ngày nay, nhưng đến năm 1835 thì bị đàn áp.

Ở nửa đầu thế kỉ XIX, các dân tộc ít người ở phía bắc cũng như phía nam nhiều lần nổi dậy chống chính quyền.

Ở phía Bắc nổi lên cuộc khởi nghĩa của người Tày [Cao Bằng] dưới sự lãnh đạo của Nông Văn Vân vào các năm 1833 - 1835, của người Mường ở Hoà Bình và Tây Thanh Hoá dưới sự lãnh đạo của các tù trưởng họ Quách với danh nghĩa "phù Lê" vào các năm 1832 - 1838. Ở vùng Tây Nam Kì, trong các năm 1840 - 1848, nhiều cuộc khởi nghĩa của người Khơ-me đã nổ ra, gây nhiều khó khăn cho sự thống trị của nhà Nguyễn.

Các cuộc khởi nghĩa cuối cùng đều bị thất bại, nhưng đã khiến cho nhà Nguyễn suy yếu, lâm vào tình trạng bất ổn triền miên.

Xem thêm: 6 kẻ thù dẫn đến sự thất bại của nhà Nguyễn trong chiến dịch Nam Kỳ

Trình bày đặc điểm của phong trào đấu tranh chống phong kiến ở nửa đầu thế kỉ XIX. So sánh với các triều đại trước và phân tích ý nghĩa của nó.

- Đặc điểm của phong trào :+ Phong trào đấu tranh đã nổ ra ngay từ khi nhà Nguyễn vừa mới thành lập và kéo dài liên tục, Chỉ tính đến riêng trong nửa đầu thế kỉ XIX, đã có gần 400 cuộc khởi nghĩa, như vậy trung bình mỗi năm có khoảng 10 cuộc khởi nghĩa. Thời vua Minh Mạng, thời kì phát triển của nhà Nguyễn, đã nổ ra 250 cuộc Khởi nghĩa.+ Phong trào đấu tranh đã lôi cuốn đông đảo các tầng lớp trong xã hội tham gia, nhiều cuộc khởi nghĩa do các quan lại của nhà Nguyễn lãnh đạo, thậm chí lực lượng binh lính cũng chống lại triều đình.+ Phong trào đấu tranh có quy mô khắp trong cả nước từ Bắc vào Nam, từ miền xuôi đến miền ngược.+ Các cuộc khởi nghĩa diễn ra liên tục song mang nặng tư tưởng cục bộ địa phương nên chưa tạo thành một phong trào chung, vì vậy nhà Nguyễn có điều kiện để tập trung lực lượng đàn áp.- So sánh và ý nghĩa :+ Ở các triều đại trước đó, khởi nghĩa nông dân thường nổ ra vào thời kì cuối của các triều đại khi các triều đại đó đã đi vào giai đoạn suy vong và số lượng không nhiều, không có quy mô toàn quốc. Trong khi đó, ở triều Nguyễn vừa mới thành lập đã nổ ra khởi nghĩa với quy mô lớn, thời gian kéo dài và lôi kéo đông đảo các lực lượng xã hội tham gia.

+ Phong trào đấu tranh đã chứng tỏ sức mạnh của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống lại ách áp bức, bóc lột.

Các bài cùng chủ đề

Lịch sử lớp 10

Trình bày đặc điểm của phong trào đấu tranh chống phong kiến ở nửa đầu thế kỉ XIX. So sánh với các triều đại trước và phân tích ý nghĩa của nó.

  • In bài này
  • Gửi Email bài này

Chi tiết Chuyên mục: Bài 26: Tình hình xã hội ở nửa đầu thế kỉ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân

- Đặc điểm

+ Phong trào đấu tranh của nhân dân nổ ra ngay từ đầu triều đại

+ Nổ ra liên tục, số lượng lớn

+ Nhiều cuộc khởi nghĩa với quy mô lớn và thời gian kéo dài như khởi nghĩa Phan Bá Vành, Lê Văn Khôi.

- Các triều đại trước phong trào đấy tranh của nhân dân thường nổ ra vào cuối triều đại, nhưng thời Nguyễn phong trào đấu tranh của nhân dân diễn ra ngay khi nhà Nguyễn vừa lên cầm quyền. Số lượng, mô mô và thành phần tham gia cũng đông đảo hơn so với các thời kì trước đó.

- Ý nghĩa

+ Chứng tỏ sức mạnh của nông dân và nói lên mấu thuẫn giai cấp gay gắt trong xã hội.

+ Làm cho chế độ phong kiến nhà Nguyễn ngày càng suy yếu.

Xem tiếp...

Những nguyên nhân nào gây nên tình trạng khổ cực của nhân dân đầu thời Nguyễn?

  • In bài này
  • Gửi Email bài này

Chi tiết Chuyên mục: Bài 26: Tình hình xã hội ở nửa đầu thế kỉ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân

- Do chế độ phong kiến nhà Nguyễn khủng hoảng

- Hiện tượng tham nhũng, sách nhiễu nhân dân phổ biến

- Bọn địa chủ, cường hào ức hiếp nhân dân phổ biến.

- Nhà nước huy động sức người, sức của vào việc xây dựng kinh thành, lăng tẩm, ...

- Thiên tai, hạn hán làm cho mất mùa đói kém thường xuyên xảy ra.

Xem tiếp...

So sánh tình hình xã hội nước ta ở nửa đầu thế kỉ XIX với thế kỉ XVIII.

  • In bài này
  • Gửi Email bài này

Chi tiết Chuyên mục: Bài 26: Tình hình xã hội ở nửa đầu thế kỉ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân

- Trong xã hội có sự phân hia giai cấp ngày càng cách biệt hơn so với các triều đại trước:

+ Giai cấp thống trị bao gồm vua, quan, địa chủ cường hào

+ Giai cấp bị trị: nông dân , thợ thủ công

- Đời sống nhân dân cực khổ hơn so với các thế kỉ trước. Tệ nạn tham quan ô lại và cường hào ức hiếp nhân dân phổ biến.

- Phong trào đấu tranh của nhân dân diễn ra liên tục, rộng khắp.

Xem tiếp...

So với các triều đại trước, cuộc đấu tranh của nông dân thời Nguyễn có điểm gì khác?

  • In bài này
  • Gửi Email bài này

Chi tiết Chuyên mục: Bài 26: Tình hình xã hội ở nửa đầu thế kỉ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân

- Nổ ra ngày đầu triều đại, liên tục, số lượng lớn, nhiều cuộc khởi nghĩa quy mô lớn và thời gian kéo dài.

Xem tiếp...

Em nghĩ thế nào về cuộc sống của nhân dân ta dưới thời Nguyễn? So sánh với thế kỉ XVIII.

  • In bài này
  • Gửi Email bài này

Chi tiết Chuyên mục: Bài 26: Tình hình xã hội ở nửa đầu thế kỉ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân

- Dưới thời Nguyễn nhân dân phải chịu nhiều gánh nặng

+ Phải chịu cảnh sưu cao, thuế nặng.

+ Chế độ lao dịch nặng nề

+ Thiên tai mất mùa đói kém thường xuyên

- Đời sống của nhân dân cực khổ hơn nhiều so với thế kỉ XVIII.

Xem tiếp...

Video liên quan

Chủ Đề