Mất cân bằng sinh thái môi trường là gì

- Nguyên nhân gây mất cân bằng sinh thái môi trường:

+ Do hoạt động công nghiệp xả thải các chất độc hại vào môi trường đất, nước, không khí. Hiện nay, hậu quả lớn nhất là gây nên hiệu ứng nhà kính, trái đất đang nóng lên.

+ Rác thải, nước thải sinh hoạt của con người.

+ Hoạt đông khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên như rừng, nguồn lợi sinh vật, khoáng sản…

- Biểu hiện: Sự gia tăng các thiên tai như bão, lụt, hạn hán và biến đổi thất thường về thời tiết khí hậu.

Thứ trưởng Bộ Tài nguyên - môi trường Bùi Cách Tuyến cảnh báo như thế tại hội nghị tổng kết thực hiện kế hoạch hành động quốc gia về đa dạng sinh học giai đoạn 2007-2010 được tổ chức ngày 21-12.

Phó cục trưởng Cục Bảo tồn đa dạng sinh học Phạm Anh Cường cho biết cuối năm 2010, diện tích rừng toàn quốc đạt 13,39 triệu ha, độ che phủ ước đạt 39,5%, không đạt được mục tiêu của kế hoạch hành động quốc gia về đa dạng sinh học được Thủ tướng phê duyệt [giai đoạn 2007-2010 phải đạt độ che phủ 42-43%].

Với các tỉnh vùng đầu nguồn các con sông lớn, ông Cường khẳng định để chống xói mòn, hạn chế lũ lụt, độ che phủ rừng phải đạt ít nhất 68-70%. Tuy nhiên, thực tế nhiều tỉnh mới chỉ đạt 40-50% và đây là một trong những nguyên nhân gây lũ lụt liên tiếp vừa qua.

Đặc trưng của hệ sinh thái tự nhiên

Đặc trưng cơ bản của hệ sinh thái tự nhiên là khả năng tự lập lại cân bằng, nghĩa là mỗi khi bị ảnh hưởng bởi một nguyên nhân nào đó thì lại có thể phục hồi để trở về trạng thái ban đầu. Đặc trưng này được coi là khả năng thích nghi của hệ sinh thái. Khả năng tự thích nghi này phụ thuộc vào cơ chế cấu trúc-chức năng của hệ, thể chế này biểu hiện chức năng của hệ trong mỗi giai đoạn phát triển. Những hệ sinh thái trẻ nói chung là ít ổn định hơn một hệ sinh thái đã trưởng thành. Cấu trúc của hệ sinh thái trẻ bao giờ cũng giản đơn, số lượng các loại ít và số lượng cá thể trong mỗi loài cũng không nhiều lắm. Do vậy quan hệ tương tác giữa các yếu tố trong thành phần không phức tạp. Ở hệ sinh thái phát triển và trưởng thành, số lượng thể loại và cá thể tăng lên, quan hệ tương tác cũng phức tạp hơn. Do số lượng lớn và tính đa dạng của các mối liên hệ, các tương quan tác động và ảnh hưởng lẫn nhau nên dù xảy ra một sự tắc nghẽn nào hay sự mất cân bằng ở một khu vực nào đó cũng không dẫn đến sự rối loạn chung của toàn bộ hệ sinh thái.

Như vậy, trong một hệ sinh thái luôn tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa tính ổn định và tính phong phú về tình trạng, về chủng loại trong thành phần của hệ sinh thái với tính cân bằng của hệ sinh thái. Hệ sinh thái càng trưởng thành thì cân bằng môi trường càng lớn.

Hệ sinh thái nào đó nếu còn tồn tại thì có nghĩa là đều đặc trưng bởi một sự cân bằng sinh thái nhất định. Thế ổn định biểu hiện sự tương quan về số lượng các loài, về chất lượng, về quá trình chuyển hóa năng lượng, về thức ăn của toàn hệ … Nhưng nếu cân bằng bị phá vỡ thì toàn hệ sẽ phải thay đổi. Cân bằng mới sẽ phải lập lại, có thể tốt cũng có thể không tốt cho xu thế tiến hóa.

Hệ sinh thái thực hiện chức năng tự lập lại cân bằng thông qua hai quá trình chính, đó là sự tăng số lượng cá thể và sự tự lập cân bằng thông qua các chu trình sinh địa hóa học, giúp phục hồi hàm lượng các chất dinh dưỡng có ở hệ sinh thái trở về mức độ ban đầu sau mỗi lần bị ảnh hưởng.

Hai cơ chế trên chỉ có thể thực hiện được trong một thời gian nhất định. Nếu cường độ tác động vượt quá khả năng tự lập cân bằng thì sẽ dẫn đến hậu quả cuối cùng là hệ sinh thái bị hủy diệt.

Một số nguyên nhân của sự phá vỡ sự cân bằng sinh thái trong tự nhiên

Sự cân bằng của hệ sinh thái bị phá vỡ do quá trình tự nhiên và nhân tạo. Các quá trình tự nhiên như núi lửa, động đất …. Các quá trình nhân tạo chính là các hoạt động sống của con người như tiêu diệt một loại thực vật hay động vật, hoặc đưa vào hệ sinh thái một hay nhiều loại sinh vật mới lạ; hoặc phá vỡ nơi cư trú vốn đã ổn định từ trước tới nay của các loài; hoặc quá trình gây ô nhiễm, độc hại; hoặc sự tăng nhanh số lượng và chất lượng một cách đột ngột của một loài nào đó trong hệ sinh thái làm phá vỡ sự cân bằng. Ví dụ:

Ở Châu phi, có thời kỳ chuột quá nhiều, người ta đã tìm cách tiêu diệt không còn một con. Tưởng rằng có lợi, nhưng sau đó mèo cũng bị tiêu diệt và chết vì đói và bệnh tật. Từ đó lại sinh ra một điều rất tai hại như mèo điên và bệnh dịch.

Sinh vật ngoại lai chính là mối lo toàn cầu. Đánh dấu ngày đa dạng sinh học thế giới 22/5, Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên thế giới [WCU] đã công bố danh sách 100 loài sinh vật du nhập nguy hiểm nhất. Chúng tàn phá thế giới sau khi “xổng” khỏi nơi cư trú bản địa, mà lại thường có sự trợ giúp của con người. Trong số 100 loài, có những loài rất quyến rũ như lan dạ hương nước và sên sói đỏ, loài rắn cây màu nâu và lợn rừng. Nguyên nhân chính là con người đã mở đường cho nhiều loài sinh vật nguy hại bành trướng. Chẳng hạn loài cầy mangut nhỏ được đưa từ châu Á tới Tây Ấn Độ để kiểm soát nạn chuột. Nhưng rất mau chóng, nó đã triệt hại một số loài chim, bò sát và lưỡng cư ở vùng này. Loài kiến “mất trí” đã tiêu diệt 3 triệu con cua trong 18 tháng trên đảo Giáng sinh, ngoài khơi Ấn Độ Dương.

Sinh vật ngoại lai cũng đã xâm nhập Việt Nam như ở vùng Đồng Tháp Mười và rừng Tràm U Minh hiện đang phát triển tràn lan một loài cây có tên là cây mai dương [cây xấu hổ].
Cây mai dương có nguồn gốc từ Trung Mỹ, chúng sinh sản rất nhanh nhờ gió lẫn sinh sản vô tính từ thân cây. Bằng nhiều cách, chúng đã du nhập vào châu Phi, châu Á, Úc và đặc biệt thích hợp phát triển ở vùng đất ngập nước thuộc vùng nhiệt đới. Tại rừng Tràm U Minh, cây mai dương đã bành trướng trên một diện tích rộng lớn. Nếu tình trạng này tiếp diễn vài năm nữa, rừng tràm U Minh sẽ hóa thành rừng trinh nữ. Do tốc độ sinh trưởng nhanh của loài cây này, đã lấn áp cỏ – nguồn thức ăn chính cho sếu, cá, vì vậy ảnh hưởng đến sếu, cá ở Tràm Chim.

Ốc bươu vàng [pilasisnensis] được nhập khẩu vào nước ta khoảng hơn 10 năm nay. Ban đầu chúng được coi như một loại thực phẩm giàu đạm, dễ nuôi trồng, mang lại lợi ích kinh tế cao. Nhưng do sinh sản quá nhanh mà thức ăn chủ yếu là lá lúa, ốc bươi vàng đã phá hoại nghiêm trọng mùa màng ở nhiều tỉnh phía Nam. Hiện nay, đại dịch này đang phát triển dần ra các tỉnh miền Trung và miền Bắc.

Cá hổ pirama [còn gọi là cá kim cương, cá răng, tên khoa học là Serralmus nattereri] xuất hiện trên thị trường cá cảnh nước ta vào khoảng thời gian 1996-1998. Đây là loài cá có nguồn gốc từ lưu vực sông Amazon, Nam Mỹ, thuộc loại ăn thịt, hung dữ. Nhiều nước đã có quy định nghiêm ngặt khi nhập loài này, vì khi chúng có mặt trong sông, động vật thủy sinh sẽ bị tiêu diệt toàn bộ, tác hại khó mà lường hết được. Trước nguy cơ này, Bộ Thủy sản sau đó đã có chỉ thị nghiêm cấm nhập khẩu và phát triển loại cá này.

Như vậy, khi một mắt xích quan trọng trong toàn hệ sinh thái bị phá vỡ nghiêm trọng thì hệ sinh thái đó dễ dàng bị phá vỡ.

Sinh thái học

Năm 1869, nhà sinh học Đức Ernst Haeckel đã đặt ra thuật ngữ Ecology từ hai chữ Hy lạp là “Okois” có nghĩa là nhà hoặc nơi ở và “logos” có nghĩa là nghiên cứu về. Do đó, có thể hiểu “sinh thái học là môn học nghiên cứu những tác động qua lại giữa các cá thể, giữa những cá thể và những yếu tố vật lý, hóa học tạo nên môi trường sống của chúng”.

Sinh thái học là khoa học nghiên cứu về nơi ở, nơi sinh sống của sinh vật, nghiên cứu về mối quan hệ giữa sinh vật và điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của sinh vật.

Đối tượng nghiên cứu của sinh thái học chính là các hệ sinh thái. Nghiên cứu hệ sinh thái bao gồm các hệ sinh thái tự nhiên như ao, đại dương, rừng, sa mạc, hệ thực vật, hệ động vật … ngoài ra còn có các hệ sinh thái nhân tạo như ruộng rẫy, vườn cây ăn trái và một số các hệ khác.

Do tác động môi trường dẫn đến Hệ cân bằng sinh thái là môi trường – là nơi mà mọi thứ sinh sống và tương tác với các thứ mà vật thể không sống, yếu tố vô sinh như việc rạn san hô, rừng, đồng cỏ, trang trại.

Sự mất cân bằng sinh thái: Đó chính là nguyên nhân và cũng là hiệu ứng trong sinh quyển do tác động môi trường. Hệ sinh thái chính là môi trường nơi mà mọi thứ sinh sống và cũng tương tác với những thứ vật không sống. Yếu tố vô sinh như rạn san hô, rừng, đồng cỏ, và trang trại, … từ “hệ sinh thái” đã được mô tả hệ thống tự nhiên trong “trao đổi” giữa các loài sinh vật và các bộ phận phi sinh học như; phần hữu sinh như các thực vật, động vật và vi khuẩn,… và cả phần vô sinh như đất, không khí, nước…

Tìm hiểu về sự mất cân bằng sinh thái do tác động của môi trường

Tác động môi trường đến ngành Sinh thái học là một ngành khoa học được phát triển bởi nhà khoa học để làm nghiên cứu dễ dàng hơn về mối quan hệ giữa sự vật sinh học và môi trường vật lý của họ là yếu tố vô sinh – và hệ sinh thái này là một phần của khái niệm sinh thái ở một điểm tổ chức của thiên nhiên.

Sinh quyển là khu vực của trái đất, không khí, nước và đất có khả năng trong việc hỗ trợ sự sống. Trong thuật ngữ đơn giản, sinh quyển là bề mặt của hệ thống phân cấp trên trái đất nơi có môi trường sống và sinh vật phát triển mạnh. Nó chứa nhiều loại khác nhau của các cộng đồng sinh vật được gọi là quần xã sinh vật được mô tả bởi thảm thực vật độc đoán của họ như sa mạc, rừng mưa nhiệt đới và đồng cỏ.

Tìm hiểu về sự mất cân bằng sinh thái do tác động của môi trường

Tác động môi trường đến Hệ sinh thái có quy trình; mà duy trì cân bằng sinh thái:Các dòng chảy tuần hoàn của vật liệu từ môi trường vô sinh để sinh quyển và sau đó trở lại với môi trường vô sinh.

Phát huy sự cân bằng của sự tương tác bên trong chuỗi thức ăn. Các quá trình này phải được duy trì trong hệ sinh thái; bất kỳ sự can thiệp với các chu kỳ này sẽ phá vỡ. Và ảnh hưởng đến sự cân bằng sinh thái. Dưới đây là một số trong những lý do và nguyên nhân tác động môi trường đến sự mất cân bằng sinh thái trong thế giới sống.

Những hệ lụy của việc sử dụng vật liệu tổng hợp

Sản phẩm tổng hợp là vật liệu được thực hiện bởi các quá trình hóa học. Được hình thành nhân tạo bằng cách tổng hợp hóa học như túi nhựa, ghế, đồ chơi,…

Những vật liệu tổng hợp có thể kéo dài trong nhiều năm; và không thể được phân hủy. Những sản phẩm tổng hợp như các sản phẩm nhựa khác nhau được tạo thành từ nhựa; sáng tạo này của con người gây cản trở dòng chảy của vật liệu trong sinh quyển.

Những hệ lụy của việc sử dụng vật liệu tổng hợp

Xử lý không đúng cách là một trong những lý do tại sao sản phẩm tổng hợp trở thành những vấn đề; và nguyên nhân của sự mất cân bằng sinh thái. Nó phá hủy hệ sinh thái có thể giết chết các sinh vật; và đồng thời nó gây ra nhiều vấn đề trong thế giới sống như ô nhiễm.

Ném chất thải độc hại vào các cơ quan của nước: tác động môi trường đến do việc chuyển đổi đất nông nghiệp thành khu công nghiệp hay phân khu dân cư chất thải độc hại hơn được tạo ra bởi con người. Các ngành công nghiệp sử dụng hóa chất trong việc đưa sản phẩm của họ. Và một số ngành công nghiệp là rất vô trách nhiệm trong xử lý chất thải của họ.

Một số trong số họ thậm chí còn phát hành chất thải độc hại trong cơ thể của các nước. Như sông, hồ mà dẫn đến cái chết của động vật biển và các vi sinh vật. Sự suy giảm của phân hủy có thể gây ra sự chậm trễ của vật liệu; để trở về từ cuộc sống với môi trường vật không sống.

Các vấn đề môi trường dẫn đến phá vỡ trật tự của các hệ sinh thái

Các vấn đề tác động môi trường được gây ra bởi hoạt động của con người trong sinh quyển: các vấn đề xã hội và môi trường mà phá vỡ trật tự của các hệ sinh thái. Các vấn đề có ảnh hưởng đến cuộc sống của con người đối với cơn thịnh nộ của nó và tác động xấu.

Các vấn đề môi trường dẫn đến phá vỡ trật tự của các hệ sinh thái

Các yếu tố sinh học của hệ sinh thái: sản xuất, tiêu dùng và phân hủy do tác động môi trường. Hệ sinh thái bao gồm các yếu tố sinh học; của một cộng đồng sinh vật tương tác với nhau mà chúng ta có thể nhìn thấy trong chuỗi thức ăn.

Các yếu tố vô sinh: Một phần của hệ sinh thái các yếu tố vô sinh. Còn được gọi là phi sinh vật sống hoặc những sinh vật.

Diệt các loài săn mồi trong hệ sinh thái là tốt. Nhưng suy giảm số lượng của họ trong một tỷ lệ rất thấp gây trở ngại cho sự cân bằng của sự tương tác trong một mạng lưới thức ăn. Một loại trừ lớn của kẻ thù trong cộng đồng sinh có thể làm xáo trộn dân số con mồi; để nâng cao sự mất cân bằng về mật độ.

Ví dụ: Giết chết con rắn trong lĩnh vực này có thể gây ra một sự gia tăng nhanh chóng của dân số chuột. Vì thiếu thốn của dân số rắn và động vật ăn thịt chuột khác. Việc loại bỏ các con rắn trong ruộng lúa giảm động vật săn mồi của chuột. Điều này sẽ dẫn đến sự bùng phát mạnh mẽ trong dân số chuột của khu vực.

Ô nhiễm và các hệ sinh thái

Các chất ô nhiễm như dầu, chất tẩy rửa, nitơ và phốt pho từ phân bón và chì; có thể có một tác động rất lớn đến hệ sinh thái, đặc biệt là nếu các nước bị ô nhiễm. Trong một hồ nước, ví dụ, nó có thể tàn phá cân bằng sinh thái bằng cách kích thích tăng trưởng thực vật; và gây ra cái chết của cá do ngạt thở do thiếu oxy. Chu trình oxy sẽ dừng lại, và nước bị ô nhiễm cũng sẽ ảnh hưởng; đến các loài động vật phụ thuộc vào nước hồ.

Ô nhiễm dầu nhớt trong nước

Con người sử dụng năng lượng hoá thạch, tạo thêm một lượng lớn khí CO2, SO2 v.v…. Mỗi năm con người tạo thêm 550 tỷ tấn CO2 do đốt các loại nhiên liệu hoá thạch; đang làm thay đổi cân bằng sinh thái tự nhiên của trái đất. Dẫn tới việc thay đổi chất lượng và quan hệ của các thành phần môi trường tự nhiên. Ðồng thời, các hoạt động của con người trên trái đất ngăn cản chu trình tuần hoàn nước. Ví dụ đắp đập, xây nhà máy thuỷ điện, phá rừng đầu nguồn v.v… Việc này có thể gây ra úng ngập hoặc khô hạn nhiều khu vực. Thay đổi điều kiện sống bình thường của các sinh vật nước v.v…

Làm thế nào để nghiên cứu tác động của ô nhiễm trên một hệ sinh thái do tác động môi trường

Để hiểu thế nào ô nhiễm tác động môi trường của một hệ sinh thái. Chọn một hệ sinh thái trong khu phố của bạn. Nó có thể là một hồ nước, sông hay bờ biển. Bạn sẽ cần phải hiểu các sinh vật khác nhau trong hệ sinh thái; và làm thế nào mỗi sinh vật có liên quan đến người khác là những gì; mà mức độ được họ trong chuỗi thức ăn; làm thế nào để họ thích ứng với môi trường của họ. Làm cho dự án của bạn tập trung hơn bằng cách chọn một hoặc hai sinh vật quan trọng trong hệ sinh thái.

Bạn sẽ cần phải theo dõi hành vi của họ, thói quen ăn uống. Chu kỳ cuộc sống, thói quen sinh sản và làm thế nào họ đang đối phó với những thay đổi trong hệ sinh thái. Mặc dù những thay đổi này thường chậm, bạn có thể theo dõi chúng trong một khoảng thời gian. 6 tháng hoặc một năm. Lưu ý tất cả các quan sát và phát hiện của bạn, chăm sóc để ghi lại các chi tiết cụ thể của từng loài.

Tags: chất thải độc hạichuyển đổi đất nông nghiệphệ sinh thái

Video liên quan

Video liên quan

Chủ Đề