Phân tích bài tỏ lòng ngắn nhất

Phân tích Tỏ lòng giúp chúng ta cảm thu được hình tượng, khí thế hiên ngang, hùng dũng của con người và quân đội thời Trần. Đồng thời, qua đó cũng giúp người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn, tư cách của thi sĩ Phạm Ngũ Lão.

Phân tích bài tỏ lòng ngắn nhất

Phân tích bài thơ Tỏ lòng gồm dàn ý kèm theo 15 bài văn phân tích siêu hay, ấn tượng nhất được Thư Viện Hỏi Đáp tuyển chọn từ bài làm của các bạn đạt điểm cao nhất. Qua 15 mẫu phân tích bài Tỏ lòng giúp các bạn có thêm nhiều gợi ý tham khảo, trau dồi tri thức, biết cách phân tích các bước đi và hướng khắc phục vấn đề nêu ra trong đề bài. Từ đó nhanh chóng viết thành một bài văn hoàn chỉnh, hay. Ngoài ra các bạn lớp 10 xem thêm phân tích Cảnh ngày hè, dàn ý phân tích Tỏ lòng.

Dàn ý phân tích bài thơ Tỏ lòng

I. Mở bài:

– Giới thiệu về tác giả Phạm Ngũ Lão: Phạm Ngũ Lão là người văn võ song toàn, ông có nhiều sáng tác nói về chí làm trai và lòng yêu nước, song hiện chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán là Tỏ lòng (Thuật hoài) và Viếng Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương (Văn Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương)

– Giới thiệu nói chung nội dung và nghệ thuật bài thơ Tỏ lòng: Tỏ lòng là bài thơ Đường luật ngắn gọn, súc tích, khắc họa vẻ đẹp của con người có sức mạnh, hợp lí tưởng, tư cách cao cả cùng khí thế hào hùng của thời đại.

II. Thân bài:

1. Hình tượng con người và sức mạnh quân đội nhà Trần

a. Hình tượng con người thời Trần

– Hành động: hoành sóc – cầm ngang ngọn giáo → Tư thế kiêu hùng, uy nghiêm, hiên ngang sẵn sàng đấu tranh bảo vệ Tổ quốc

– Không gian kì vĩ: giang sơn – non sông → Không gian rộng lớn, mênh mông, nó ko thuần tuý là sông, là núi nhưng là giang sơn, tổ quốc, Tổ quốc

– Thời gian kì vĩ: kháp kỉ thu – đã mấy thu → Thời gian dài đằng đẵng, ko biết đã bao nhiêu mùa thu, bao nhiêu năm đi qua, trình bày quá trình đấu tranh dai sức, trong khoảng thời gian dài.

⇒ Như vậy:

+ Hình ảnh người tráng sĩ cho thấy một tư thế hiên ngang, mạnh mẽ, hào hùng, sẵn sàng lập nên những chiến công vẻ vang

+ Hình ảnh, tầm vó những người tráng sĩ đấy sánh với núi sông, tổ quốc, với tầm vóc hùng vĩ của vũ trụ.

+ Người tráng sĩ đấy ra đi bảo vệ Tổ quốc ròng rã mấy năm trời nhưng chưa từng một phút chốc nào cảm thấy mỏi mệt nhưng trái lại vẫn bừng bừng khí thế hiên ngang, quật cường, kiêu hùng

b. Hình tượng quân đội thời Trần

– “Tam quân” (ba quân): tiền quân, trung quân, hậu quân – quân đội của cả tổ quốc, cả dân tộc cùng nhau đứng lên để đấu tranh

– Sức mạnh của quân đội nhà Trần:

  • Hình ảnh quân đội nhà Trần được so sánh với “tì hổ” (hổ báo) qua đó trình bày sức mạnh kiêu hùng, hùng dũng của đội quân
  • “Khí thôn ngưu”: khí thế hào hùng, mạnh mẽ lấn lướt cả trời cao, cả ko gian vũ trụ rộng lớn, rộng lớn → Với các hình ảnh so sánh, phóng đại lạ mắt, sự liên kết giữa hiện thực và lãng mạn, giữa hình ảnh khách quan với cảm nhận chủ quan đã cho thấy sức mạnh và tầm vóc của quân đội nhà Trần

⇒ Như vậy, hai câu thơ đầu đã cho thấy hình ảnh người tráng sĩ kiêu hùng, uy phong cùng tầm vóc mạnh mẽ và sức mạnh của quân đội nhà Trần. Nghệ thuật so sánh phong đại cùng giọng điệu hào hùng mang lại hiệu quả cao.

2. Nỗi lòng muốn bộc bạch của tác giả

– Giọng điệu: trầm lắng, suy tư, qua đó bộc lộ tâm trạng băn khoăn, trằn trọc

– Nợ công danh: Theo quan niệm nhà Nho, đây là món nợ lớn nhưng một trang nam nhi lúc sinh ra đã phải mang trong mình. Nó gồm 2 phương diện: Lập công (để lại chiến công, sự nghiệp), lập danh (để lại danh thơm cho hậu thế). Kẻ làm trai phải làm xong hai nhiệm vụ này mới được coi là hoàn trả món nợ.

– Theo quan niệm của Phạm Ngũ Lão, làm trai nhưng chưa trả được nợ công danh “thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”:

  • Thẹn: cảm thấy xấu hổ, thua kém với người khác
  • Chuyện Vũ Hầu: tác giả sử dụng tích về Khổng Minh – tấm gương về ý thức tận tình tận lực báo đáp chủ tướng. Hết lòng trả món nợ công danh tới hơi thở cuối cùng, để lại sự nghiệp vẻ vang và tiếng thơm cho hậu thế → Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão hết sức cao cả của một tư cách lớn. Thể hiện khát khao, hoài bão hướng về phía trước để thực hiện lí tưởng, nó đánh thức ý chí làm trai, chí hướng lập công cho các trang nam tử

⇒ Với âm hưởng trầm lắng, suy tư và việc sử dụng điển cố điển tích, hai câu thơ cuối đã trình bày tâm tư và khát vọng lập công của Phạm Ngũ Lão cùng ý kiến về chí làm trai rất tiến bộ của ông

III. Kết bài

– Khái quát lại trị giá nội dung và nghệ thuật

– Bài học đối với thế hệ thanh niên ngày nay: Sống phải có ước mơ, hoài bão, biết vượt qua khó khăn, thử thách để biến ước mơ thành hiện thực, có ý thức trách nhiệm với tư nhân và tập thể.

Phân tích Tỏ lòng – Mẫu 1

Trong dòng chảy của văn học trung đại Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước là một nội dung lớn, bao trùm và xuyên suốt văn học thời kỳ này với nhiều tác giả, tác phẩm nổi tiếng và bài thơ “Thuật hoài” (Tỏ lòng) của tác giả Phạm Ngũ Lão là một trong số những tác phẩm tiêu biểu. Ra đời sau thắng lợi Mông – Nguyên của quân đội nhà Trần, bài thơ đã trình bày vẻ đẹp của hào khí Đông A, sức mạnh của con người và quân đội thời Trần.

Đọc bài thơ, người đọc có thể nhận thấy hai câu thơ mở đầu bài thơ đã khắc họa một cách rõ nét, chân thực hình tượng của con người và quân đội thời trần. Trước hết đó chính là hình tượng con người thời Trần được khắc họa qua câu thơ trước hết:

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
(Múa ngang ngọn giáo trải mấy thu)

Câu thơ đã vẽ lên hình ảnh con người tay cầm ngang ngọn giáo nhưng bảo vệ, trấn thủ quê hương, tổ quốc. “Cầm ngang ngọn giáo” là một hành động rất mạnh mẽ, nó gợi lên tư thế hiên ngang, kiêu hùng, sẵn sàng đấu tranh của người chiến sĩ. Thêm vào đó, tác giả còn đặt hình ảnh người tráng sĩ trong ko gian “giang sơn” rộng lớn của núi rừng, của Tổ quốc và thời kì đấu tranh dài đằng đẵng, suốt từ năm này qua năm khác – “kháp kỉ thu” đã thêm một lần nữa tô đậm thêm tư thế tư thế hiên ngang, quật cường của người tráng sĩ trong công cuộc đấu tranh bảo vệ quê hương, tổ quốc.

Thêm vào đó, hình tượng quân đội nhà Trần tràn đầy sức mạnh và khí thế cũng được tác giả Phạm Ngũ Lão tái tạo thật sống động, rõ nét.

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)

“Tam quân” chính là ba quân trong được quân đội nhà Trần xây dựng, đó là tiền quân, trung quân và hậu quân. Thêm vào đó, câu thơ với việc sử dụng hàng loạt các hình ảnh so sánh và lối nói phóng đại lúc so sánh quân đội nhà Trần với “tì hổ” – sức mạnh của loài hổ báo, nó có thể át đi cả sao Ngưu trên trời đã cho thấy khí thế hùng dũng, hào hùng của quân đội nhà Trần. Đó cũng chính là sức mạnh, là khí thế của hào khí Đông A được cả dân tộc tự hào.

Như vậy, hai câu thơ mở đầu bài thơ, với hình ảnh so sánh, phóng đại và giọng điệu hào hùng đã khắc họa một cách rõ nét tư thế hiên ngang, quật cường của các tráng sĩ thời Trần cùng sức mạnh, tầm vóc mạnh mẽ của quân đội nhà Trần.

Nếu hai câu thơ mở đầu bài thơ đã trình bày hình tượng con người và quân đội thời Trần thì trong hai câu thơ còn lại tác giả đã tập trung làm bật nổi nỗi lòng của chính mình.

Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu

(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.)

Theo quan niệm của Nho giáo, công danh chính là lập công, ghi danh sử sách để tiếng thơm còn vương lại tới muôn thuở sau, đây cũng chính là một món nợ lớn đối với mỗi trang nam nhi. “Công danh” dường như đã trở thành lí tưởng đối với nam nhi dưới thời đại phong kiến. Là một người văn võ song toàn, từng ghi được nhiều chiến công, nhưng với ông, mình vẫn còn mắc nợ – món nợ “công danh”. Hai chữ “vương nợ” trong bản dịch thơ như khắc sâu thêm nỗi niềm da diết trong lòng tác giả, ông vẫn luôn tự ý thức một cách thâm thúy về trách nhiệm của mình với quê hương, với tổ quốc.

Không ngừng lại ở đó, hai câu thơ còn cho chúng ta thấy được vẻ đẹp tư cách, tâm hồn của Phạm Ngũ Lão. Vẻ đẹp đấy được trình bày qua nỗi “thẹn” của ông với Vũ Hầu. Như chúng ta đã biết, Vũ Hầu tức là Gia Cát Lượng, một nhân vật lịch sử lỗi lạc và là một con người tài năng, một bề tôi trung thành, đã từng nhiều lần giúp sức Lưu Bị khôi phục nhà Hán. Nhắc tới tích chuyện về Vũ Hầu, Phạm Ngũ Lão cảm thấy “thẹn”, thấy xấu hổ, thua kém. Nỗi “thẹn” đấy của Phạm Ngũ Lão xét tới cùng là biểu thị của một tư cách cao đẹp, nó đánh thức chí làm trai đàn cuồn cuộn trong ông và đồng thời cũng trình bày lí tưởng, hoài bão của tác giả.

Như vậy, hai câu thơ khép lại bài thơ với âm hưởng trầm lắng, đã cho người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn, tư cách cao cả của Phạm Ngũ Lão cùng ý kiến tiến bộ về chí làm trai của ông.

Tóm lại, bài thơ “Thuật hoài’ với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt súc tích, tiếng nói cô đọng đã trình bày được hình tượng, khí thế hiên ngang, hùng dũng của con người và quân đội thời Trần. Đồng thời, qua đó cũng giúp người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn, tư cách của thi sĩ Phạm Ngũ Lão.

Phân tích Tỏ lòng – Mẫu 2

Thời đại nhà Trần là thời kỳ vàng son của Hào khí đông A, hào khí đấy đã trở thành một sức mạnh ý thức to lớn của quân và dân ta trong một thời đại đầy hào hùng máu lửa. Hào khí đông A đã trình bày được ý thức kết đoàn, ý chí quyết tâm chống giặc của dân tộc. Từ âm vang của thời đại, của hào khí Đông A sóng dậy, Phạm Ngũ Lão đã sáng tác nên bài thơ Tỏ lòng đầy rực rỡ và ý nghĩa:

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu”

Dịch thơ:

“Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”

Giặc Nguyên tràn vào xâm lược, chúng gian ác về nhân tính, hung bạo về nhân hình bởi lực lượng vững mạnh và sức càn quét đáng sợ. Ứng phó với quân thù man rợ và nguy hiểm đấy cần có một khả năng gan góc phi thường. Ở đây, Phạm Ngũ Lão đã trình bày được tầm vóc của mình và sức mạnh to lớn của quân đội nhà Trần. ” hoành sóc giang sơn”, giữa giang sơn rộng lớn, người tráng sĩ cầm ngọn giáo giặc trong thế hiên ngang để trấn thủ Tổ quốc mình, ngọn giáo ngang tàng đo chiều dài, chiều rộng tổ quốc, kẻ quân tử nắm ngọn giáo đứng sừng sững, làm chủ trước dân tộc, trước thời cuộc. Lúc này đây, người quân tử đứng giữa sơn hà của vũ trụ nhưng ko hề nhỏ nhỏ, trái lại đầy vững chãi, lớn lao, ngọn giáo và người quân tử đang thực hiện sứ mệnh nhưng dân tộc uỷ thác trong tư thế sẵn sàng đấu tranh. “Trcửa ải mấy thu” tức là thời kì làm nhiệm vụ đấy đã lâu rồi và tới nay vẫn thế năm này qua năm khác vẫn ko đổi dời ý chí, tháng năm ko đo được ý chí người quân tử, lòng vẫn tâm huyết với công cuộc giữ nước của mình.

Câu thơ thứ hai mang cả ý chí quyết đấu của toàn dân tộc. Sự đồng lòng của “tam quân” tạo nên một sức mạnh được ví như hổ báo, chúa sơn lâm của núi rừng, khí thế ngùn ngụt chất cao hơn núi “nuốt trôi trâu”. Nếu ở câu thơ thứ nhất là khả năng của một người quân tử, trách nhiệm của một tư nhân với tổ quốc thì sang câu thơ thứ hai đó là khả năng của một tập thể, của trăm vạn người quân tử, trách nhiệm của muôn người với dân tộc. Qua đó, ta thấy được một hào khí của thời đại, của những con người chung chí nguyện chống giặc, dẹp tan quân thù, đem lại hoà bình cho xã tắc, sơn hà.

“Quốc gia còn nhiều những thử thách, khó khăn, vật cản trên tuyến đường đấu tranh còn nhiều gian lao, dù đã quyết chí, dù đã vững lòng nhưng tác giả vẫn còn điều gì đó chưa ưng ý lúc nghĩ về bản thân. Do đó nhưng những câu thơ được bộc bạch đầy tâm trạng, chứa chan nỗi lòng của người quân tử:

“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”

Dịch thơ:

“Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”

Công danh sự nghiệp luôn là khát khao của con người trong bất kỳ thời đại nào. Phạm Ngũ Lão cũng ko nằm ngoài nỗi ưu tư về công danh của mình, dù ông đã là một kẻ tài cao, đức trọng, lập báo chiến công chỗ tổ quốc. Kẻ “nam tử” lúc này đây vẫn thấy mình còn một mối nợ với tổ quốc, đó là tấm lòng của một bậc đại tài đầy khiêm tốn và trách nhiệm.

” Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”

Tác giả mượn điển cố xưa về Vũ Hầu- một kẻ bề tôi trung thành, vị quân sư tài giỏi hàng đầu trong lịch sử Trung Hoa. Đó là lòng cảm thấy hổ thẹn, ko thể ưng ý về bản thân lúc nhắc tới bậc vĩ nhân xưa. Với tác giả, ko thể nào chấp nhận một cuộc sống ko công danh, một sự tồn tại nằm ngoài trách nhiệm với dân tộc, với tổ quốc.

Bài thơ được viết nên bởi cả tấm lòng của người quân tử. Chỉ với 4 câu thơ thôi nhưng ý tứ thật thâm thúy, chí nguyện giúp đời cứu nước thật lớn lao. Bài thơ đã thôi thúc trong lòng em ý thức sống trách nhiệm với bản thân, gia đình và tổ quốc mình, sẽ sống hết mình, hiến dâng thật nhiều cho sự tăng trưởng của Tổ quốc hôm nay và tương lai.

Phân tích Tỏ lòng – Mẫu 3

Phạm Ngũ Lão là một người tài giỏi, có lòng yêu nước nồng nàn, khả năng phi thường. Ông ko chỉ biết tới là một danh tướng thời Trần nhưng còn là một thi sĩ với nhiều bài thơ về chí trai, lòng yêu nước. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là bài thơ Tỏ lòng. Văn bản trình bày những tâm tư, nỗi niềm của vị tướng tài, đồng thời tái tạo chân thực hào khí Đông A sục sôi, hào hùng của thời đại.

Bằng lối viết trực tiếp, mở đầu hai câu thơ tác giả đã dựng những nét vẽ trước hết về chân dung người tráng sĩ Đông A:

Hoàng sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

(Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)

Hình ảnh của con người thân Trần hiện lên với vẻ đẹp hiên ngang, khí chất được mô tả qua hai chữ trước hết “hoành sóc” với tư thế đầy oai hùng, kiên cường như khắc họa đậm nét những con người quả cảm lẫm liệt với ngọn giáo trong tay đi khắp giang sơn để bảo vệ quê hương, tổ quốc. Nó sừng sững như một bức tượng đài đầy hiên ngang giữa ko gian rộng lớn của “ giang sơn” và dòng thời kì trôi chảy “ kháp kỉ thu”, người đấy mang vẻ đẹp của những đấng người hùng từng trải, đã được tôi rèn mỗi ngày. Vận mệnh và sự bình yên của tổ quốc đang được đặt trên đầu ngọn giáo kia, đó là trọng trách lớn lao đặt lên vai người tráng sĩ, nhưng cũng chính ngọn giáo đấy là điểm tựa vững vàng che chắn cho cả dân tộc tồn tại. Câu thơ ko có chủ ngữ mang ngụ ý của tác giả: đó ko chỉ là một hình ảnh duy nhất của một con người duy nhất, nhưng là đại diện của biết bao con người thời đại, là ko khí sục sôi của đất trời Đông A.

Chưa từng có một thời đại nào trong lịch sử, hình ảnh con người trở thành hùng vĩ tới vậy, một khí thế hùng tráng, lúc nào cũng hừng hực: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”. Với cách nói ẩn dụ ước lệ liên kết với phép phóng đại đã tạo cho người đọc một ấn tượng mạnh mẽ về khí thế hùng dũng, kiên cường. Khí thế hiên ngang của quân đội ta xông pha ra trận phi thường tới mức có thể “nuốt trôi trâu”. Ẩn sau cách nói thổi phồng hóa, người đọc cảm thu được lòng tự trọng, niềm tự hào dân tộc của thi sĩ lúc đưa tầm vóc của quân dân nhà Trần sánh ngang với vũ trụ rộng lớn. Đó còn là tình yêu tổ quốc, dân tộc với khát vọng vươn lên để giữ gìn, bảo vệ độc lập, chủ quyền của dân tộc. Vẻ đẹp người tráng sĩ hiên ngang, hùng sảng là kết tinh của vẻ đẹp dân tộc, đây ko chỉ là của một vị người hùng cụ thể nào nhưng là vẻ đẹp muôn thuở của cả một dân tộc người hùng.

Hai câu cuối, thi sĩ bộc lộ, trình bày quan niệm về chí làm trai của mình trong thời buổi lúc bấy giờ

“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”

(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe thuyết vũ hầu)

Với người quân tử trong xã hội phong kiến, đã sống trên đời phải được ghi công với núi sông, chí làm trai phải là phẩm chất ko thể thiếu. Đó là tuyên ngôn chung, xu thế chung, quan niệm chung của tất cả các bậc nam nhi có chí thời bấy giờ kể cả Nguyễn Công Trứ hay Phạm Ngũ Lão. và với Phạm Ngũ Lão, công danh vẫn là một thứ nhưng ông còn vương nợ vì thế nhưng lúc nghe chuyện Vũ Hầu ông cảm thấy hổ thẹn với lòng.Tuy có những cái thẹn khiến người ta trở thành nhỏ nhỏ, có những cái thẹn khiến người ta khinh thường nhưng cũng có nhwungx cái thẹn cho người ta thấy được tầm vóc cao lớn với ý chí quyết tâm mạnh mẽ và cái thẹn của danh tướng thời Trần là cái thẹn đó. Ông so sánh mình với Vũ Hầu để biết bản thân cần phải học hỏi, cần phải nỗ lực hơn, đó là một ý thức cầu tiến của thi sĩ đối với người tài giỏi. Tuy xuất thân từ một người nông dân những tác giả trình bày được sức mạnh ý chí và trí tuệ của mình làm cho người khác ko thể nhìn vào hoàn cảnh xuất thân nhưng chê trách ông điều gì.

Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, chỉ với một số lượng ngôn từ ít ỏi, song lại đạt được tới sự súc tích cao độ lúc đã dựng lên được những bức chân dung con người và hào khí Đông A với vẻ đẹp hào sảng, khí thế, hùng dũng.

Bài thơ tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão xứng đáng là khúc tráng ca hào hùng ngợi ca vẻ đẹp con người và thời đại, bài ca sẽ sống mãi theo năm tháng và luôn in hằn trong tâm trí độc giả.

Phân tích Tỏ lòng – Mẫu 4

Phạm Ngũ Lão là một trong những danh tướng nước ta thời nhà Trần. Ông ko viết thơ nhiều nhưng tác phẩm của ông đều để lại những dấu ấn riêng. Bài thơ “Thuật hoài” hay còn gọi là “tỏ lòng” là một tác phẩm nổi tiếng của Phạm Ngũ Lão trình bày tình yêu nước nồng nàn cùng niệm tự hào và khát vọng hiến dâng lúc tổ quốc bị xâm lược.

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”

Bài thơ tỏ lòng được sáng tác bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đường luật, tuy ngắn gọn với bốn câu thơ nhưng lại mang nhiều hàm ý thâm thúy. Mở đầu bài thơ, Phạm Ngũ Lão đã tái tạo hình ảnh quân đội nhà Trần mạnh mẽ, uy phong thời đấy trên tuyến đường đánh đuổi giặc ngoại xâm:

“Hoàng sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”

(Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)

Hình ảnh người tráng sĩ thời Trần hiện lên trong câu thơ thật uy phong, lẫm liệt qua hình ảnh cây “giáo”. Tư thế của người tráng sĩ hiên ngang đấy được đặt trong ko gian rộng lớn của “giang sơn” và thời kì dài “kháp kỉ thu”. Câu thơ trình bày sức khỏe mạnh khoắn, tư thế hiên ngang sẵn sàng đấu tranh của người tráng sĩ xưa. Người tráng sĩ đấy đứng giữa non sông tổ quốc hùng vĩ, luôn vững vàng bảo vệ tổ quốc đã mấy thu rồi. Hình ảnh con người hiện lên thật xinh xắn, uy phong như vẽ lên một bức tượng đài vô tận về tráng sĩ oai hùng thời Trần.

Không chỉ hình ảnh một tráng sĩ hiện lên oai hùng, nhưng cả “tam quân” thời Trần được khắc họa thật mạnh mẽ phi thường. Hình ảnh ẩn dụ, phóng đại “hổ khí thôn ngưu” là một hình ảnh đẹp, mang tầm vóc lớn. “Hổ khí thôn ngưu” mang ý nghĩa như hổ báo “nuốt trôi trâu” có ý nghĩa lớn trong việc tái tạo khí thế hào hùng của đội quân nhà Trần. Hiện lên trong tâm trí người đọc là ba đội quân hùng hậu, đông đảo với sức mạnh to lớn đang ra quân ào ào và khát vọng đấu tranh hết mình cho giang sơn tổ quốc.

Khí thế hào hùng này là khí thế của một thời hào khí Đông A , gợi cho ta nhớ tới những câu oai hùng trong bài Hịch tướng sĩ thời Trần “Ta thường tới bữa quên ăn , nửa đêm vỗ gối , ruột đau như cắt , nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng”.

Với hào khí của một thời đấu tranh oai hùng, bảo vệ từng mảnh đất cho giang sơn tổ quốc, Phạm Ngũ Lão tiếp tục nói lên những suy nghĩ của bản thân về trí làm trai thời đấy:

“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”

(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu)

Phạm Ngũ Lão đã nhắc tới món nợ công danh “công danh trái”. Đối với những người nam nhi sống trong thời đại xưa, tuyến đường công danh vô cùng quan trọng. “Nợ công danh” ở đây ko phải là công danh tầm thường, ích kỷ cho riêng bản thân mình. Nhưng mà nó chính là món nợ lớn với tổ quốc, là ý trí và tài năng của một người nam tử hán nam nhi, đầu đội trời chân đạp đất, dám hi sinh vì nghĩa lớn, vì sự nghiệp chung của toàn dân tộc.

Qua câu thơ, Phạm Ngũ Lão đã trình bày nỗi lòng, khát khao của bản thân muốn hiến dâng nhiều hơn nữa cho giang sơn, tổ quốc để trả món nợ công danh của trí làm trai. Nhà thơ Nguyễn Công Trứ cũng từng có nhiều vần thơ hay lúc nói về “phận sự làm trai”:

“Vũ trụ chức vụ nội
Đấng trượng phu một túi kinh luân.
Thượng vị đức, hạ vị dân,
Sắp hai chữ “quân, thân” nhưng gánh vác”

Phạm Ngũ Lão đã là một danh tướng, có công lớn với tổ quốc với thời nhà Trần. Vậy nhưng ông vẫn luôn cảm thấy hổ thẹn lúc nghe “thuyết Vũ Hầu”. Ông đã khôn khéo lúc nhắc tới một người ngoài trí đa mưu là Gia Cát Lượng trong thời Tam Quốc để trình bày nỗi thẹn của mình.

Ông thẹn bởi chưa đủ tài cao, mưu trí như Gia Cát Lượng. Nhưng cái “thẹn” đấy lại càng làm toát lên tư cách cao đẹp trong con người Phạm Ngũ Lão. Câu thơ trình bày một khát khao cháy bỏng của bị tướng có tài, muốn hiến dâng hết mình trong sự nghiệp chung của tổ quốc. Đó là trí khí người hùng của một vị tướng vừa có tâm, vừa có tầm đáng kính trọng.

Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, lời thơ sắt đá, hào hùng, hình ảnh thơ lạ mắt, nhịp thơ lúc nhanh mạnh dứt khoát, lúc lại chậm rãi như những dòng suy tư. Bài thơ đã gợi lên một thời hào hùng của cả dân tộc thời đại nhà Trần cùng ý chí sục sôi đấu tranh của người tráng sĩ và mong muốn hiến dâng hết mình cho tổ quốc của danh tướng Phạm Ngũ Lão.

Bài thơ cùng thời đại này có cách xa chúng ta hàng bao nhiêu thế kỷ nhưng vẫn để lại những âm vang lớn trong trái tim triệu triệu người đọc.

Phân tích Tỏ lòng – Mẫu 5

Phạm Ngũ Lão (1255-1320), quê ở làng Phù Ủng, huyện Đường Hào nay là huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Là người có đóng góp to lớn trong cả hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông xâm lược, là phụ tá đắc lực dưới trướng của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, được Trần Quốc Tuấn yêu quý và gả con gái nuôi cho. Tuy là người theo nghiệp nhà binh thế nhưng Phạm Ngũ Lão cũng lại là người rất mê thơ văn, ca từ thơ phú, có nhiều am tường thâm thúy về lĩnh vực này, chính vì thế ông thường được người đời ca tụng là vị tướng văn võ toàn tài. Phạm Ngũ Lão có nhiều tác phẩm hay, tuy nhiên do sự chuyển đổi của lịch sử nhưng bị thất lạc gần hết, nay chỉ còn lại Tỏ lòng (Thuật Hoài) và Viếng Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại Vương. Trong đó Tỏ lòng là bài thơ khá nổi tiếng, nằm trong quy phạm chung nhất “Văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí”, trình bày được khí phách nam nhi trong đất trời, đặc thù là trước viễn cảnh tổ quốc lâm nguy, để lại bài học thâm thúy cho các thế hệ muôn thuở sau.

Tỏ lòng được viết vào khoảng năm 1284, ngay trước lúc cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên lần thứ hai diễn ra, trong bối cảnh Phạm Ngũ Lão và một số vị tướng tài khác được triều đình cử đi canh phòng biên giới phía Bắc, ngừa sự tấn công bất thần của quân địch.

Bài thơ chỉ vỏn vẹn 4 câu thơ 7 chữ, trong đó ở hai câu thơ trước hết tác giả đã tái tạo lại một cách ngắn gọn và đầy đủ hình ảnh và hào khí của con người cũng như quân đội thời Trần với những thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ rực rỡ.

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”

Dịch nghĩa:

“Cầm ngang ngọn giáo giữ gìn non sông đã mấy thu
Ba quân như hổ báo, khí thế kiêu hùng nuốt trôi trâu”

Thứ nhất nói về hình ảnh con người thời Trần, tác giả đã gợi mở ra một bối cảnh ko gian và thời kì rộng lớn, đồng thời dưới triều Trần, một triều đại có nhiều biến động, liên tục phải đương đầu những đội quân hùng mạnh nhất toàn cầu thời bấy giờ, càng làm cho vẻ đẹp của con người thêm rực rỡ và rõ nét hơn cả. Phạm Ngũ Lão lấy hai chữ “giang sơn” để mở ra ko gian địa lý của tổ quốc, đây là một từ ghép rất hay, “giang” tức chỉ sông cũng tượng trưng cho đất, “sơn” tức chỉ núi cũng tượng trưng cho trời, tương tự ghép lại có tức là núi sông. Có thể nói rằng hai từ này hoàn toàn bao quát được viễn cảnh tổ quốc ta, một tổ quốc nhiều sông, cũng lắm núi non, tạo nên một quang cảnh rộng lớn, rộng lớn và tươi đẹp bởi sự dung hòa giữa hai yếu tố trời đất. Kế bên yếu tố ko gian, thì yếu tố thời kì cũng được tác giả vạch ra thông qua ba từ “kháp kỷ thu”, tức là đã mấy thu, trình bày một quãng thời kì dài, rộng, ẩn dụ về bề dày lịch sử của dân tộc, của tổ quốc. Trên cái nền ko gian và thời kì rộng lớn, dài rộng như thế hình tượng con người Đại Việt đã hiện lên một cách nổi trội và hiên ngang với khí thế mạnh mẽ trong hai từ “hoành sóc”, “hoành” trong vẫy vùng còn sóc tức là ngọn giáo dài, vốn là loại vũ khí kinh điển trong các trận đánh của quân đội. Tổng ý cả câu thì Phạm Ngũ Lão muốn gợi ra hình ảnh người dân Đại Việt đã cầm ngang ngọn giáo canh phòng non sông trải qua mấy mùa thu, đã trở thành truyền thống, là hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng cho vẻ đẹp của con người thời Trần. Hình tượng con người cầm ngang ngọn giáo, cho ta thấy được những phẩm chất quý giá, sự kiên cường, dai sức, quả cảm trong đấu tranh. Tầm vóc của nhân dân cũng trở thành lớn lao, sánh ngang với trời đất, trong khí thế mạnh mẽ, sẵn sàng vẫy vùng ngang dọc, diệt quân thù bằng ngọn giáo cầm chắc trong tay.

Đặc trưng trong bối cảnh tổ quốc đứng trước sự xâm phạm của giặc thù, Phạm Ngũ Lão lại được điều đi nhận mệnh trấn thủ biên thuỳ, thì hình tượng người người hùng cầm ngang ngọn giáo canh phòng cho tổ quốc lại càng trở thành oai hùng và hợp với mạch xúc cảm trong thơ. Trong bản dịch của Bùi Văn Nguyên câu “Múa giáo non sông trải mấy thu”, đọc rất thuận mồm, thế nhưng đáng tiếc từ “múa giáo” lại chỉ mang lại cái “mỹ” nhưng ko hoàn toàn lột tả được tính kiêu hùng trong hai từ “hoành sóc”, thành thử làm cho câu thơ mất đi cái ấn tượng về tầm vóc kỳ vĩ, bao trọn cả non sông của con người.

Sánh với hình tượng con người, thì hình tượng quân đội thời Trần cũng hiện lên với những hình ảnh ẩn dụ, so sánh đẹp và đầy hào khí trong câu thừa đề. Phạm Ngũ Lão dùng từ “Tam quân” tức là chỉ ba đạo quân chính thống trong tổ chức quân sự của ta, bao gồm tiền quân, trung quân và hậu quân, hoặc nếu chia theo 3 cánh quân thì có tả quân, trung quân và hữu quân. Hình ảnh tập trung này nhằm mục tiêu gợi ra sự kết đoàn một lòng của quân đội ta trong đấu tranh, đồng thời cũng chỉ sự hùng mạnh, khí thế đấu tranh sôi nổi và sự sẵn sàng sẵn sàng cho công cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc ta. Cả câu “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu” nhằm nhấn mạnh, sự uy vũ, hùng mạnh của quân đội thời Trần, trong đó ta có thể diễn giải theo hai ý. Một là ba quân có sức mạnh tựa như hổ, báo mạnh mẽ nuốt trôi con trâu lớn, hai là sức mạnh của quân đội thời Trần mang tầm vóc kỳ vĩ lấn lướt cả ngôi sao Ngưu trên trời cao – Ngôi sao sáng nhất trong chòm sao Thiên Ưng. Với cách hiểu thứ hai, ta có thể nhận thấy một niềm cảm hứng lãng mạn hiếm thấy trong thi ca trung đại tới từ một võ tướng, ko chỉ mang lại sự uyển chuyển trong thi ca, nhưng còn góp phần nâng đỡ vẻ đẹp hào khí của quân đội nhà Trần với cái tên gọi kinh điển “hào khí Đông A”.

Sau hai câu đề dùng nói về hào khí và vẻ đẹp chung của cả dân tộc thì tới hai câu chuyển và hợp tác giả chuyển sang bộc bạch nỗi lòng, tâm tư ước vọng của mình, đồng thời đây cũng chính là nội dung nhưng tác giả muốn mở ra trong bài, tập trung khai thác về chí nam nhi, về món nợ núi sông nhưng bản thân đang còn mang nặng, trình bày những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn của Phạm Ngũ Lão.

“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”

Dịch nghĩa:

Thân nam nhi nhưng chưa trả xong nợ công danh
Thì luống thẹn thùng lúc nghe người đời kể chuyện Vũ hầu”

Như vậy với hai câu thơ này ta có thể nhận rõ ý kiến “nhập thế tích cực” của Phạm Ngũ Lão, rằng phận nam nhi sinh ra đã mang trên mình món nợ công danh, và phải luôn nỗ lực nỗ lực hết sức dùng tài trí của mình để đóng góp, xây dựng tổ quốc, trả cho kỳ được món nợ công danh. Trong đó một trong những biểu thị rõ nhất của quan niệm này đó là việc ứng thí khoa cử của hàng vạn sĩ tử mỗi năm, trong đó tiêu biểu chúng ta vẫn thường nghe nhắc tới Trần Tế Xương với 8 lần theo đuổi khoa cử, thất bại nhưng ko hề nản lòng. Phạm Ngũ Lão chính là một trong số những người chịu tác động thâm thúy của quan niệm nhập thế tích cực, mặc dù ông ko ra kinh ứng thí, thế nhưng ông đã chọn một cách trả nợ công danh khác đó là theo đuổi tuyến đường tòng quân, góp sức đánh đuổi giặc ngoại xâm, làm nên công trạng cho xứng với thân nam nhi. Có thể nói rằng ý kiến “nợ công danh” đã mang lại cho con người dưới các triều đại phong kiến trong lịch sử một mục tiêu sống, lý tưởng sống cao đẹp và đáng quý, tạo nên trong con người tư thái và khả năng biết phấn đấu làm nên công danh sự nghiệp và quan trọng nhất là góp phần xây dựng, tăng trưởng tổ quốc ngày một vững mạnh trở thành rường cột của quốc gia.

Thế nhưng vẻ đẹp tâm hồn của Phạm Ngũ Lão ko chỉ ngừng lại ở chí làm trai hay món nợ công danh thông thường, nhưng nó còn được tăng trưởng lên một tầm cao mới thông qua nỗi thẹn của ông lúc nghe chuyện Vũ hầu. Phạm Ngũ Lão, nếu xét thấy thì cũng là người có công danh đề huề, coi như đã trả được món nợ công danh, thế nhưng lúc đứng trước chuyện của Vũ hầu – Gia Cát Lượng, thì lại lấy làm xấu hổ bởi bản thân mình ko thể đạt tới trình độ như tiền nhân, người đã một giúp Lưu Bị tranh đoạt giang sơn trong bối cảnh tam quốc. Tác giả tự thấy rằng chút công danh cỏn con của mình cũng không thể sánh vào đâu so với cổ nhân, tự lấy thế làm thẹn, đồng thời cũng tự dặn lòng phải phấn đấu nhiều hơn nữa để trả cho đủ món nợ của nam nhi. Từ đó có thể thấy vẻ đẹp tâm hồn của Phạm Ngũ Lão hiện lên với hai nét chính đấy là ý chí, nỗ lực, mong muốn được đóng góp công sức xây dựng giang sơn, lập công danh sự nghiệp hiển hách và lý tưởng, khát khao trở thành một nhân vật lịch sự lỗi lạc tựa Gia Cát, lưu danh sử sách muôn thuở.

Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão là một bài thơ tuy ngắn gọn nhưng lại mang nhiều ý nghĩa thâm thúy, trước hết là ca tụng vẻ đẹp của con người và quân đội thời Trần, sau đó là khai mở ra bài học về món nợ công danh cho nam nhi khắp người đời, đồng thời cũng trình bày khát khao, lý tưởng và tư cách cao đẹp của một nhà nho, nhà quân sự trên bước đường công danh, sao cho xứng với Tổ quốc dân tộc.

Phân tích Tỏ lòng – Mẫu 6

Phạm Ngũ Lão được biết tới là võ tướng có nhiều công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Không những thế ông còn rất ham đọc sách, làm thơ và được xem là người văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông hiện chỉ còn hai bài thơ là “Tỏ lòng” (Thuật hoài) và “Viếng thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương”. Đặc trưng, “Tỏ lòng” đã trình bày vẻ đẹp của hình tượng người người hùng hiên ngang với lí tưởng và tư cách lớn lao, đồng thời phản ánh hào khí của thời đại Đông A với sức mạnh và khí thế hào hùng.

Bài thơ “Tỏ lòng” (Thuật hoài) được làm bằng chữ Hán, sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Hai câu thơ đầu của bài thơ đã ca tụng vẻ đẹp hào hùng của con người, quân đội thời Trần qua việc khắc họa hình tượng người người hùng hiên ngang lẫm liệt:

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

(Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)

Với giọng điệu khỏe khoắn, bức phác họa người tráng sĩ hiện lên với tư thế hiên ngang, kiên cường trong bối cảnh ko gian rộng lớn rộng lớn. Đó là tư thế “hoành sóc” – cầm ngang ngọn giáo để trấn thủ biên thuỳ, sẵn sàng đấu tranh bảo vệ lãnh thổ. Người tráng sĩ đấy được đặt trong bối cảnh “giang sơn” rộng lớn, thời kì “kháp kỉ thu” muôn thuở. Không gian rộng lớn mang tầm vũ trụ đấy cùng thời kì trải dài như bất tử hóa, thiêng liêng hóa từ thế hào hùng lẫm liệt của người người hùng. Bản dịch thơ dù đã tạo âm hưởng uyển chuyển song chữ “múa giáo” ko khắc họa đầy đủ tư thế vững chãi, hiên ngang của tướng sĩ. Câu thơ trước hết đã tái tạo vẻ đẹp người tráng sĩ trong tư thế sẵn sàng, uy phong trong ko gian rộng lớn, sẵn sàng lập nên những chiến công oanh liệt cho Tổ quốc. Không chỉ ngừng lại ở vẻ đẹp của người chủ tướng, hình ảnh quân đội nhà Trần cũng được diễn tả khôn khéo trong câu thơ thứ hai – “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”.Ba quân được ví như “tì hổ” (hổ báo) và “khí thôn Ngưu” (khí thế át cả sao Ngưu). Bản dịch thơ dịch “khí thôn ngưu” là “nuốt trôi trâu” ko hề sai, ca tụng sức mạnh vô địch, khỏe khoắn của ba quân, tuy nhiên cách dịch “ba quân khí thế hào hùng át cả sao Ngưu trên trời” lại phóng đại, làm tăng hào khí của quân đội nhà Trần, giọng thơ như thế cất lên vừa hào sảng nhưng cũng rất giàu yếu tố thẩm mỹ. Câu thơ có sự liên kết giữa những hình ảnh khách quan và những cảm nhận chủ quan của Phạm Ngũ Lão, góp phần mô tả vẻ đẹp và hào khí hùng dũng của quân đội nhà Trần. Liên kết cả hai câu thơ đầu, người đọc cảm thu được vẻ đẹp kiêu hùng của người tráng sĩ cũng tầm vóc mạnh mẽ của quân đội thời đại Đông A, qua đó gián tiếp thấy được niềm tự hào của tác giả.

Là một thành viên ưu tú của quân đội hào hùng đấy, Phạm Ngũ Lão ý thức rất rõ về trách nhiệm của bản thân, bởi vậy ông đã bộc bạch nỗi lòng mình:

“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu).

Xưa nay viết về chí làm trai, người đọc đã bắt gặp những vần thơ rất đỗi thân thuộc của Nguyễn Công Trứ: Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông. Cũng đồng điệu tâm hồn với bao kẻ sĩ đương thời, Phạm Ngũ Lão vô cùng đề cao lí tưởng trung quân, ái quốc. Bởi vậy, ông cho rằng đã là nam nhi thì phải trả nợ công danh, nhưng nợ công danh ở đây chính là làm điều có công với tổ quốc: “Nam nhi vị liễu công danh trái”. Lí tưởng công danh đấy trình bày cái nhìn tiến bộ và tư cách cao đẹp của một vị tướng hết lòng muốn giúp nước, giúp đời. Nghĩ thấy bản thân chưa trả trọn nợ công danh, tác giả trằn trọc, băn khoăn: “Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”. Vũ Hầu chính là Khổng Minh Gia Cát Lượng, một người tài đức vẹn toàn đời Hán, có công lớn giúp Lưu Bị khôi phục vương triều.Ông cảm thấy “thẹn” lúc đối sánh mình với ông cha, tự thấy bản thân chưa thể sánh được với họ. Khát vọng mong muốn lập nhiều công danh hơn nữa được diễn tả hết sức khiêm nhượng lúc đặt bản thân mình kế bên mưu thần Gia Cát Lượng. Âm hưởng câu thơ trầm lắng trình bày khát vọng lập công và chí làm trai hết sức tiến bộ của Phạm Ngũ Lão.

Với hệ thống ngôn từ súc tích, cô đọng cùng những hình ảnh giàu sức biểu cảm, “Tỏ lòng” đã khắc họa vẻ đẹp của con người thời nhà Trần có sức mạnh, lí tưởng, tư cách cao cả, đồng thời phản ánh khí thế hào hùng của thời đại. Âm hưởng mạnh mẽ đấy để lại dư ba trong lòng người đọc, nhắc nhở thế hệ trẻ chúng ta sống ko bao giờ quên đề ra lí tưởng sống cao cả để sống đẹp, sống có ích hơn.

Phân tích bài thơ Tỏ lòng – Mẫu 7

Quốc gia của chúng ta trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử với các trận đánh tranh chống xâm lược và bảo vệ tổ quốc ko ít những vị tướng, ông vua đã dùng văn học để nói lên những tâm tư tình cảm của mình trước thời cuộc. Tiêu biểu trong số đấy phải kể tới thi sĩ vị tướng Phạm Ngũ Lão với bài thơ thuật hoài, có thể nói bài thơ ko chỉ làm xúc cảm nỗi lòng của thi sĩ với hào khí Đông A nhưng còn nổi trội lên cảm hứng yêu nước người hùng quật cường.

Trước tiên ta nên tìm hiểu về hào khí Đông A là gì?. Hào khí Đông A là Hào khí Đông A là hào khí đời Trần (chữ Đông và chữ A trong tiếng Hán ghép lại thành chữ Trần). Cụm thuật ngữ này từ lâu đã được dùng để chỉ cái ko khí oai hùng, hào sảng của thời Trần (thời kì nhưng chúng ta có những chiến công lừng lẫy lúc cả ba lần đều đánh tan sự xâm lược của giặc Nguyên- Mông). Hào khí Đông A là chỉ cái khí thế hừng hực của thú vui thắng lợi, chỉ cái khát khao mang tính thời đại nhưng ở đó người nào người nào cũng muốn góp sức dựng xây hay dang tay bảo vệ cho sự vững chắc mãi mãi của non sông tổ quốc mình.Hào khí Đông A từ xã hội đi vào thơ văn trở thành sự kết tinh cho những biểu thị cao đẹp của lòng yêu nước. Có ko ít tác phẩm nổi tiếng mang hơi thở của Hào khí Đông A : Tụng giá hoàn kinh sư (Phò giá về kinh) của Trần Quang; hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn thì thuật hoài của Phạm Ngũ Lão cũng trình bày rất rõ hào khí này. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt chỉ có bốn câu thơ thôi nhưng nói lên được cả một chí lớn yêu nước người hùng quật cường.

Câu thơ mở đầu trình bày rõ một tư thế hiên ngang dũng mạnh và ko sợ bất kỳ một khó khăn nào:

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”
(Múa giáo non sông trải mấy thu)

Câu thơ như gợi tả hết cái hào khí Đông A của thời bấy giờ, hình ảnh cầm ngang ngọn giáo trình bày rõ vẻ đẹp hiên ngang của con người thân Trần. Nếu như so sánh thì ta thấy hai chữ “ Múa giáo” như trong bản dịch ko lột tả hết những vẻ của hai chữ “ hành sóc”. Múa giáo trình bày mờ nhạt và có phần yếu ớt hơn so với hành sóc. Nghĩa thật sự của hai chữ hành sóc đó là cầm ngang ngọn giáo trên tay. Ngọn giáo đấy ko chỉ là vũ khí đấu tranh của những người người hùng như Phạm Ngũ Lão nhưng nó còn là thứ để họ trình bày tài năng, khả năng cũng như ý chí hiên ngang quật cường của bản thân mình. Với ngọn giáo đấy và tư thế đấy họ đã mang tới những chiến công lừng lẫy trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ giang sơn của ông cha. Thêm nữa là cụm từ “ kháp kỉ thu” gợi tả một thời kì của lịch sử. có thể nói tầm vóc của chiếc giáo kia được đo bằng ko gian rộng lớn của giang sơn và thời kì của chiều dài lịch sử. Nó giống như một chiếc gậy chấn quốc của những tướng quân tài tình vậy. đặc thù là những người có ý chí quật cường hiên ngang trước những sóng gió và ko thôi yêu nước như Phạm Ngũ Lão.

Nếu như câu thơ thứ nhất lột tả được vẻ đẹp của những vị tướng quân thời Trần thì sang câu thứ hai tác giả tiếp tục mô tả sức mạnh cũng như vẻ đẹp của quân đội:

“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)

Đội quân đấy mang sức mạnh về cả sức quân cũng như ý thức, sức mạnh đấy có thể nuốt trôi tất cả những gì cản bước tiến của họ. Chính thắng lợi quân Nguyên Mông đã chứng minh cho sức mạnh đấy , một quân đội đông đảo như chúng nhưng cũng bị bại trước khí thế oai hùng hiên ngang của ta. Đội quân Sát Thát ra đi với khí thế như hổ báo át đi, mờ đi cả sao Ngưu trên trời. cuộc hành trình cứu nước gian nan khó khăn và đầy những nguy hiểm nhưng ko thể nào làm vơi đi sức mạnh ý chí trong lòng quân ta được. câu thơ là phép so sánh lạ mắt của Phạm Ngũ Lão, qua đó hào khí Đông A được trình bày một cách rõ ràng nhất. đồng thời qua đó trình bày được chủ nghĩa yêu nước người hùng.

Tiếp tới câu thơ thứ ba tác giả trình bày tâm tư tình cảm của mình qua

Nam nhi vị liễu công danh trái
“Công danh nam tử còn vương nợ”

Tác giả nêu lên trách nhiệm nghĩa vụ của một bậc nam nhi sống ở trên đời. Nếu như Nguyễn Công Trứ trình bày chí làm trai của mình qua những câu thơ:

“Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho thỏa sức vẫy vùng trong bốn bể”

Thì Phạm Ngũ Lão lại trình bày quan niệm cũng như chí làm trai – một bậc trượng phu thật sự thì phải có công danh trong người đời. nếu như ko có công danh thì ko đáng là một vị người hùng, một đấng nam nhi sống ở trên đời. Nguyễn Công Trứ làm trai vẫy vùng trong bốn bể khắp giang sơn đâu cũng đặt chân tới và ko có sóng gió nào có thể cản được bước chân của ông thì Phạm Ngũ Lão có chí làm trai là phải có công danh với tổ quốc. Đã sinh ra trên đời thì phải có công với tổ quốc của mình. Điều đó phải chăng chính là chủ nghĩa người hùng yêu nước trong thi sĩ?

Tới câu thơ cuối cùng tác giả trình bày sự khiêm tốn của mình, cho rằng những việc mình làm cho tổ quốc chưa có gì cả nên luống thẹn :

“ Luống thẹn tai nghe thuyết Vũ Hầu”
(Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu)

Phạm Ngũ Lão “thẹn” chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu Gia Cát Lượng đời Hán để trừ giặc, cứu nước. Thẹn bởi vì so với ông cha mình chưa có gì đáng nói. Gia Cát Lượng là quân sư của Lưu Bị, mưu trí tuyệt vời, song điểm làm cho Gia Cát Lượng nổi tiếng rằng lòng tuyệt đối trung thành với chủ. Vì thế “luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu” thực chất là một lời thề suốt đời tận tụy với chủ tướng Trần Hưng Đạo, “thẹn” còn được hiểu là cách nói trình bày khát vọng, hoài bão muốn sánh với Vũ hầu. Xưa nay, những người có tư cách vẫn thường mang trong mình nỗi thẹn. có thể thấy trong thi sĩ có một tư tưởng người hùng yêu nước lớn nhưng lại còn có cả sự trung quân nữa. Bấy nhiêu điều nhưng ông làm được lúc đi đánh giặc, ông đều cho là chưa làm được gì với núi sông của mình.

Bài thơ chỉ có bốn câu thơ thôi nhưng đã lột tả hết được những tâm tư tình cảm của thi sĩ Phạm Ngũ Lão hay cũng chính là nổi trội lên chủ nghĩa người hùng yêu nước của ông nói riêng của quân dân nhà Trần nói chung. Tác giả quan niệm thật đúng với thời cuộc lúc bấy giờ là đã làm trai sống ở trên đời thì phải có công danh với tổ quốc của mình. Bài thơ như một lời tuyên ngôn khẳng định ý chí quyết tâm của thi sĩ với vận mệnh của tổ quốc. Qua đây ta càng thêm yêu quý hơn những người hùng như Phạm Ngũ Lão, một người có ý chí sắt đá trung kiên quật cường và nghĩ cho tổ quốc trước hết.

Phân tích bài thơ Tỏ lòng – Mẫu 8

Đã từng một thời, văn học Việt Nam được biết tới như những con thuyền chở đầy ý chí và khát vọng cao đẹp của người đương thời, đó là những áng thi ca trung đại đầy hào sảng, hùng tráng. Bởi vậy chăng nhưng cứ mỗi lần từng tiếng thơ “ Thuật hoài” ( Tỏ lòng – Phạm Ngũ Lão) vang lên, hiện lên trước mắt ta luôn là hình ảnh người tráng sĩ thời đại Lý – Trần với hùng tâm tráng chí sôi nổi, như những bức tượng đài đẹp nhất đại diện cho cả một thời đại đầy rực rỡ của phong kiến Việt Nam: thời đại Đông A.

Là một vị tướng tài giỏi từng gắn bó thâm thúy với triều đại nhà Trần, Phạm Ngũ Lão hiểu rõ hơn người nào hết tấm lòng thiết tha với non sông và khát khao giữ vững độc lập chủ quyền nước nhà của tướng quân và nhân dân. Trong hoàn cảnh cả dân tộc đang dồn sức thực hiện kháng chiến chống Mông – Nguyên lần hai, cần có một liều thuốc ý thức tiếp thêm sức mạnh để quân dân từng ngày nỗ lực hơn nữa trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc; “ Thuật hoài ” ra đời cũng vì lẽ đó. Đặt trong một hoàn cảnh đặc thù, được viết dưới ngòi bút của con người có tầm vóc lớn lao, bài thơ dù chỉ là một trong hai tác phẩm của Phạm Ngũ Lão còn lưu lại, song cũng đủ để ghi danh tác giả cho tới tận muôn thuở.

Hai câu thơ đầu là những nét phác họa trước hết về chân dung người tráng sĩ Đông A:

Hoàng sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

(Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)

Bằng lối vào đề trực tiếp, trong câu thơ trước hết, tác giả đã dựng lên hình ảnh người tráng sĩ thời Trần mang vẻ đẹp của con người thời đại: cầm ngang ngọn giáo trấn thủ non sông. Chỉ qua một hành động “hoành sóc”, người tráng sĩ hiện lên với tư thế đầy oai hùng và kiên cường, thẳng thắn, vững vàng. Sừng sững như một bức tượng đài đầy hiên ngang giữa ko gian rộng lớn của “giang sơn” và dòng thời kì dài trôi chảy “kháp kỉ thu”, người đấy mang vẻ đẹp của những đấng người hùng từng trải, với kinh nghiệm già dặn đã được tôi rèn mỗi ngày. Vận mệnh và sự bình yên của tổ quốc đang được đặt trên đầu ngọn giáo kia, đó là trọng trách lớn lao đặt lên vai người tráng sĩ, nhưng cũng chính ngọn giáo đấy là điểm tựa vững vàng che chắn cho cả dân tộc tồn tại. Câu thơ tỉnh lược chủ ngữ ngắn gọn mang ngụ ý của tác giả: đó ko chỉ là một hình ảnh duy nhất của một con người duy nhất, nhưng là tầm vóc hào sảng của biết bao con người thời đại, là ko khí sục sôi của đất trời Đông A.

Chưa một thời đại nào trong lịch sử dân tộc, tầm vóc của con người lại trở thành lớn lao tới vậy, với khí thế hùng tráng: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”. Cách nói ẩn dụ ước lệ thân thuộc trong thi pháp thơ ca trung đại với phép phóng đại “tam quân tì hổ” cho người đọc ấn tượng mạnh mẽ về đội quân “sát thát” của nhà Trần, với khí thế hùng dũng, kiên cường. Cụm từ “khí thôn ngưu” có thể hiểu là khí thế của đội quân ra trận với sức mạnh phi thường tới mức có thể “nuốt trôi trâu”, cũng có thể hiểu khí thế đấy sục sôi tới độ át cả sao ngưu, sao mai. Trong cách nói thổi phồng, ta thấy được tình cảm tự hào của thi sĩ lúc đã nâng tầm vóc của quân dân nhà Trần có thể sánh ngang với tự nhiên, vũ trụ rộng lớn. Đó là niềm tự hào của một con người được sinh ra trong một tổ quốc, một thời đại hùng mạnh, đầy phấn khởi, tự tin, luôn khát khao vươn lên, giữ vững chủ quyền cho nước nhà. Từ hình ảnh người tráng sĩ hiên ngang tới tầm vóc lớn lao của ba quân thời đại, rõ ràng, vẻ đẹp người tráng sĩ đấy là kết tinh của vẻ đẹp dân tộc, và vẻ đẹp dân tộc càng tôn vinh thêm vẻ đẹp hùng sảng của những tráng sĩ thời Trần. Hai câu thơ trước hết vang lên, Phạm Ngũ Lão ko chỉ cho ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một vị người hùng thời đại, nhưng là vẻ đẹp muôn thuở của một dân tộc người hùng.

Từ tư thế hiên ngang hùng dũng, thi sĩ giúp người đọc đi sâu hơn để khám phá tâm thế vững vàng với hùng tâm tráng chí bên trong những tráng sĩ:

Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu

Với người quân tử trong xã hội phong kiến đương thời, chí làm trai là phẩm chất ko thể thiếu. Ta từng nhớ đã đọc những câu thơ nhắc tới món nợ công danh của các đấng nam nhi:

Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa lông hồng

(Đoàn Thị Điểm)

Hay:

Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo

(Nguyễn Công Trứ)

Đối với những người tráng sĩ “bình Nguyên” thuở đấy, trong hoàn cảnh tổ quốc đang bị lăm le xâm chiếm bởi giặc ngoại bảng, “nợ công danh” nhưng họ phải trả, đó là làm sao để bảo vệ trọn vẹn tổ quốc, để có thể đem lại yên ấm cho muôn dân. Nói khác đi, hùng tâm tráng chí trong lòng người tráng sĩ chính là niềm yêu nước thiết tha sâu nặng, là tiếng nói khát khao đánh giặc cứu lấy non sông. Điều đặc thù là trong từng câu chữ của “Tỏ lòng”, ý thức quật cường đấy ko được nêu lên một cách giáo điều, khô giòn, nhưng nó như được tỏa ra từ chính trái tim, thốt lên từ tâm can của một con người với khát vọng đang sôi cháy, rực lửa.

Để rồi, nợ công danh chưa trả hết, và người đời lại “luống thẹn” lúc nghe chuyện Vũ Hầu xưa: “Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”. Câu thơ gợi lại một câu chuyện cổ về bậc anh tài Gia Cát Lượng từng giúp tạo nên thế chân vạc Tam Quốc, giúp Thục – Ngô chống Tào… Người tướng sĩ thấy hổ thẹn bởi công lao của mình vẫn chưa đáng bao nhiêu so với Tôn Tử, song đó lại là cái thẹn cao cả, là cái thẹn lớn lao, đáng trân trọng của một bậc nam nhi. Ngũ Lão từng là một trong những vị tướng tài giỏi nhất của nhà Trần, làm tới chức Điện súy thượng tướng quân, vậy còn điều gì khiến người còng hổ thẹn? Rằng, đó ko chỉ là nỗi thẹn, nhưng là niềm khát khao vươn tới những đỉnh cao, vươn tới những tầm vóc rộng lớn hơn nữa. Có những cái thẹn khiến người ta trở thành nhỏ nhỏ, có những cái thẹn làm cho người ta khinh, nhưng cũng có những cái thẹn cho người ta thấy được cả một tầm vóc lớn lao và ý chí mãnh liệt; cái thẹn của người tráng sĩ thời Trần là cái thẹn như thế.

“Thuật hoài” lấy tiêu đề dựa theo một mô-típ thân thuộc trong văn học trung đại, kế bên “ Cảm hoài ” của Đặng Dung, hay “ Tự tình” của Hồ Xuân Hương,… những bài thơ bộc bạch nỗi lòng của người viết. Với “ Tỏ lòng ”, đây là lời tâm tình bộc bạch tâm tư, ý chí của Phạm Ngũ Lão, cũng là của những tráng sĩ thời Trần nhưng tâm can đều dành trọn cho dân tộc. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, chỉ với một số lượng ngôn từ ít ỏi, song lại đạt được tới sự súc tích cao độ lúc đã dựng lên được những bức chân dung con người và hào khí Đông A với vẻ đẹp hào sảng, khí thế, hùng dũng.

Cùng với “ Hịch tướng sĩ ” – Trần Quốc Tuấn, “ Bạch Đằng giang phú ” – Trương Hán Siêu,… “Thuật hoài” mãi là khúc tráng ca hào hùng ngợi ca vẻ đẹp con người và thời đại, và sẽ tồn tại mãi cùng với dòng trôi chảy của thời kì…

Phân tích Tỏ lòng ngắn nhất – Mẫu 9

Phạm Ngũ Lão là một người tài giỏi, có lòng yêu nước nồng nàn, khả năng phi thường, ông là một tướng tài đồng thời cũng là người có tâm hồn văn học. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là bài thơ Tỏ lòng. Văn bản trình bày những tâm tư, nỗi niềm của vị tướng tài, đồng thời tái tạo chân thực hào khí Đông A sục sôi, hào hùng của thời đại.

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

Hai câu thơ đầu đã vẽ nên hình ảnh người tráng sĩ đời Trần với tư thế hiên ngang, hùng dũng “cầm ngang ngọn giáo”, cho thấy tư thế hiên ngang, chủ động khác với câu thơ dịch là “múa giáo” mang tính chất phô trương, trình diễn, ko trình bày được tư thế người hùng, hiên ngang của người tướng sĩ. Đồng thời ko gian nhân vật trữ tình đứng cũng vô cùng rộng lớn, rộng lớn: giang sơn. Tưởng rằng đứng trong ko gian đấy con người sẽ trở thành nhỏ nhỏ, chìm khuất trong ko gian vũ trụ rộng lớn, nhưng trái lại, con người hiện lên trong tư thế làm chủ, mang tầm vóc lớn lao ôm trọn cả non sông tổ quốc. Tư thế đấy còn cho thấy ý thức sẵn sàng đấu tranh, sẵn sàng xả thân để bảo vệ biên thuỳ, lãnh thổ trọn vẹn. Không chỉ vậy, thời kì được nhắc tới ở đây đã trải mấy thu, đó là khoảng thời kì dài, điều đấy còn khẳng định ý chí, quyết tâm dai sức của nhân vật trữ tình. Câu thơ thứ nhất vừa cho ta thấy tầm vóc hiên ngang, vừa cho thấy lòng yêu nước nồng nàn của nhân vật trữ tình.

Câu thơ thứ hai tái tạo lại sức mạnh của quân đội nhà Trần. Tác giả sử dụng các hình ảnh “tam quân” “tì hổ” “khí thôn ngưu” để làm rõ vẻ đẹp sức mạnh đó. Tam quân để nói về quân đội nhà Trần bao gồm tiền quân, trung quân và hậu quân. Còn tì hổ để nói về sức mạnh to lớn như hổ báo của quân đội, giải pháp so sánh đã một lần nữa khẳng định sự dũng mạnh, nhanh nhẹn của quân đội nhà Trần. “Khí thôn ngưu” có thể hiểu theo hai cách, cách thứ nhất tức là khí thế nuốt trôi trâu, nhưng cũng có thể hiểu khí thế át sao Ngưu.

Dù hiểu theo cách nào cũng đều thấy được khí thế, sức mạnh vô song của quân đội nhà Trần. Với hai câu thơ đầu, tác giả đã tái tạo sinh động, chân thực vẻ đẹp của con người thời đại nhà Trần với sức mạnh vô song. Qua đó ta còn cảm thu được hào khí oanh liệt của thời đại nhưng dân tộc bừng bừng khí thế, quyết tâm đánh giặc cứu nước.

Phân tích bài thơ Tỏ lòng – Mẫu 10

Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn võ toàn tài. Ông đã có công tạo điều kiện cho hưng đạo đại vương biết bao nhiêu trận thắng cùng những chiến công lừng lẫy bảo vệ tổ quốc bình yên độc lập, dẹp yên lũ cướp nước. Có thể nói ông giống như một cánh tay đắc lực cho Hưng Đạo Đại vương vậy. tuy nhiên chúng ta ko chỉ biết tới ông với tư cách là một vị danh tướng nhưng còn biết tới ông với tư cách là một thi sĩ. Nhắc tới ông là ta nhớ ngay tới bài thơ thuật hoài – một bài thơ trình bày rõ nỗi lòng của ông cũng như chủ nghĩa người hùng yêu nước, khí thế của quân dân nhà Trần.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, một bài thơ chỉ có bốn câu thơ thì tác giả đã làm thế nào để trình bày hết ý kiến, tình yêu tổ quốc, trung quân được. thế nhưng Phạm Ngũ Lão đã rất tài năng lúc chỉ qua bốn câu thơ đấy nhưng truyền đạt tới mọi người những ý kiến tư tưởng của một con người của trời đất của vũ trụ, của một đấng nam nhi đầu đội trời chân đạp đất. đồng thời tác giả còn trình bày chủ nghĩa người hùng yêu nước của bản thân qua những quan niệm của đại đa số những danh tướng yêu nước trung thành hồi bấy giờ.

Hai câu thơ đầu tác giả tập trung trình bày vẻ đẹp hiên ngang trong tranh đấu cũng như vẻ đẹp kết đoàn ý thức vượt mọi khó khăn gieo neo của những lính tráng nhà Trần:

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”

Hình ảnh con người thân Trần hiện lên hiên ngang với ngọn giáo trong tay họ có thể đi bất kỳ nơi nào có giặc, hành hiệp trượng nghĩa cứu giúp người nghèo kẻ yếu cũng như đánh đuổi quân xâm lược Mông Nguyên. Xét về vẻ đẹp hiên ngang đấy trong bản dịch chữ “hoành sóc” thành “múa giáo” ko lột tả hết được sự hiên ngang đấy. Múa giáo trình bày sự yếu ớt đồng nghĩa với việc ko lột tả được sự hùng mạnh quả cảm của quân đội, con người thân Trần. Hai chữ “hoành sóc” như khắc tạc lên những con người quả cảm lẫm liệt với ngọn giáo ngang trong tay đi khắp giang sơn để bảo vệ tổ quốc. tưởng chừng quân giặc cả toàn cầu phải xác nhận là mạnh kia chỉ là một ngọn gió nhẹ trước khí thế ngút nghìn của họ. Chúng mạnh về số lượng cũng như chất lượng, đầy đủ về vật chất nhưng chúng lại thiếu đi sự nhận định và ý chí vượt qua gieo neo nên chúng phải chuốc lấy thất bại vì đã nhận định thấp con người thân Trần. những con người đấy tuy có nhỏ nhỏ về mặt thể chất hay ko đông đảo như số lượng quân của nhà Mông nhưng ý chí của họ thì vượt qua hữu hạn về mặt thể chất và số lượng đấy. Và cứ thế với ngọn giáo ngang trong tay họ đã trải qua biết bao nhiêu mùa thu như thế để bảo vệ tổ quốc tổ quốc này. Họ góp phần tạo nên một tổ quốc tươi đẹp như xã hội ngày nay. Hình ảnh ngọn giáo trở thành thật đẹp lúc được hiện lên trong cái rộng lớn của ko gian và chiều dài của thời kì lịch sử. Hình ảnh đấy cũng như trình bày được vẻ đẹp của chính tác giả trong những trận chiến nảy lửa, căng go vẫn ngang ngọn giáo để bảo vệ tổ quốc. ko chỉ đẹp về mặt ngoại hình con người thân Trần còn hiện lên với vẻ đẹp của khí chất cao vút, mạnh mẽ lấn lướt hết cả sao Ngưu trên trời. Sức mạnh của quân đội Sát Thát giống như hổ như báo có thể nuốt trôi cả một con trâu mộng. Hay cũng chính là vẻ đẹp kết đoàn ba quân một lòng khơi dậy trong nhau một ý thức thép để có thể vượt qua những trắc trở hóc búa của trận đánh và đi tới một cái kết đẹp và có hậu cho trận đánh tranh chính nghĩa bảo vệ tổ quốc.

Tiếp tới hai câu thơ cuối tác giả trình bày quan niệm về chí làm trai của mình trong thời buổi đấy:

Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu

Đã sống ở trên trời đất thì phải có công danh với núi sông, đó cũng là một tuyên ngôn khẳng định chí làm trai của Nguyễn Công Trứ, theo đó ta thấy quan niệm này ko chỉ của riêng Phạm Ngũ Lão nhưng còn có cả tất cả những bậc nam nhi có chí thời bấy giờ. Đó là xu thế chung, quan niệm chung của họ và cũng chính vì thế nhưng Phạm Ngũ Lão cũng ko nằm ngoài quan niệm đó. Tuy nhiên ở đây tác giả nhấn mạnh thêm quan niệm đấy và mở nó ra với ý nghĩa của tư nhân tác giả nhưng thôi. Dù là một vị tướng trung thành giống như cánh tay phải của Trần Hưng Đạo, trải qua biết bao nhiêu trận đánh vào sinh ra tử nhưng đối với ông đó vẫn chưa được liệt kê vào những công danh của tổ quốc. Đối với Phạm Ngũ Lão thì công danh vẫn là một thứ nhưng còn vương nợ với ông. Và chính vì vương nợ nên ông thấy hổ thẹn lúc nghe chuyện về Vũ Hầu. So sánh mình với Vũ Hầu để thấy những cái chưa được của mình, đây ko phải là sự ngộ nhận thân phận của mình giống như Vũ Hầu nhưng đó là cả một ý thức học hỏi của thi sĩ đối với người tài giỏi. Có một điểm chung là cả ông và Vũ Hầu đều giúp sức cho một người lớn hơn nhưng tác giả muốn nói ở đây là lúc Vũ Hầu giúp được cho vị tướng của mình thì Phạm Ngũ Lão lại khiêm tốn nhận mình chưa giúp được gì cho Hưng đạo đại vương nên thấy hổ thẹn lúc nghe chuyện Vũ Hầu. đồng thời qua đó ta thấy được sự trung thành và hiến dâng hết sức mình của tác giả với Hưng Đạo đại vương. Tuy xuất thân từ một người nông dân nhưng Phạm Ngũ Lão đã trình bày được sức mạnh ý chí và trí tuệ của mình làm cho người ta ko thể vịn vào hoàn cảnh xuất thân đấy để nhưng chê trách được ông.

Phân tích bài Tỏ lòng – Mẫu 11

Thuật hoài là một tác phẩm nổi tiếng của danh tướng đời Trần Phạm Ngũ Lão. Dù được xếp vào loại thơ trữ tình, nhưng từng câu từng chữ lại toát lên cái hào khí Đông A ngút trời của thời đại đó.

Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một người văn võ song toàn, sống thời thời Trần, là vị danh tướng trăm trận trăm thắng. Ông được biết tới sau những chiến công hiển hách chống lại giặc xâm lược Mông – Nguyên.

Phạm Ngũ Lão sáng tác ko nhiều, hiện nay tác phẩm còn lại của ông chỉ có hai bài thơ chữ Hán, trong đó có bài thơ thất ngôn tứ tuyệt “Thuật hoài” (dịch ra là Tỏ lòng).

Thuật hoài được sáng tác trong một bối cảnh đặc thù, bối cảnh an nguy của nước nhà đang bị dọa nạt bởi quân Mông – Nguyên hung tàn, bối cảnh mọi từng lớp của dân tộc nhất trí đồng lòng chống lại ách xâm lược, giữ vững non sông gấm vóc ông cha để lại.

Bài thơ được chia làm hai phần rất rõ ràng. Hai câu mở đầu trình bày hình tượng của quân đội và con người thời Trần, hai câu sau chính là lời bộc bạch nỗi lòng của tác giả.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã vẽ nên hình ảnh tráng lệ của con người và quân đội thời Trần, qua âm hưởng sảng khoái, hào hùng:

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

Qua hai câu thơ này, hình ảnh đấng nam nhi lẫm liệt uy phong đang xả thân vì nước như hiện lên rõ ràng trước mắt. Cũng từ đó, ta cảm thu được một hào khí Đông A ngút trời của một thời đại người hùng trong lịch sử.

Trong đó, câu thơ “Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu” trình bày hình ảnh người lính cầm ngang ngọn giáo, luôn trong một tư thế hiên ngang, sẵn sàng tấn công, áp đạo quân thù xâm lược một cách hùng dũng để bảo vệ giang sơn rộng lớn suốt thời kì dài. Có thể nói, đây cũng chính là hình ảnh tượng trưng cho dân tộc Việt mạnh mẽ, quật cường, ko bao giờ chịu khuất phục, là ánh hào quang toả sáng ngời ngời của chủ nghĩa yêu nước, yêu chính nghĩa.

Câu thơ thứ hai “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu” (dịch thơ: Ba quân hùng khí át sao Ngưu), dịch tức là khí thế của ba quân mạnh như hổ báo, át cả sao Ngưu trên trời, còn có cách dịch khác là “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”. Cho dù hiểu theo cách nào thì người đọc cũng đều cảm thu được sức mạnh vô cùng to lớn, ko đối thủ nào có thể địch nổi của quân dân ta.

Chỉ với hai câu thơ, mười bốn chữ, nhưng Phạm Ngũ Lão đã vẽ nên một bức tranh tuyệt đẹp về người lính quả cảm, hùng dũng, oai hùng trong đạo quân đời Trần. Đồng thời nó cũng trình bày chí khí, khát vọng sục sôi của đấng nam nhi thời loạn. Phạm Ngũ Lão cũng như bao chí sĩ thời đó, đều nguyện hiến dâng thân mình cho lý tưởng ái quốc, trung quân, khát vọng công danh và trọng trách bảo vệ non sông, gấm vóc như hòa làm một.

Do đó cho nên bậc nam nhi như ông mới cảm thấy hổ thẹn lúc chưa thể hoàn thành nghiệp công danh. Nỗi lòng đấy được tác giả trình bày qua hai câu thơ cuối:

“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”

Hai câu thơ này có thể hiểu là nam tử chưa hoàn thành chuyện công danh, lúc nghe chuyện Vũ Hầu liền lấy làm hổ thẹn. Vũ Hầu ở đây chính là Khổng Minh, nhà quân sư lỗi lạc của Lưu Bị nói riêng và của thời Tam Quốc, cũng như toàn lịch sử nhân loại nói chung.

Điều Phạm Ngũ Lão muốn bộc bạch chính là đấng nam nhi phải biết lấy gương sáng của người xưa nhưng so sánh, để phấn đấu cho xứng với tiền nhân. Niềm khát vọng công danh của tác giả, thực chất là khát vọng được hiến dâng tuổi xanh, công sức, tài năng cho Vua, cho giang sơn xã tắc, để có thể ngửng cao đầu sống giữa thời đại người hùng.

Nếu như hai câu mở đầu bài thơ là âm hưởng hào sảng, chí khí ngút trời, thì hai câu sau, tác giả đã chuyển sang xúc cảm trữ tính, như lột tả nỗi lòng mình bằng giọng điệu trầm lặng, da diết, nhưng cũng ko kém phần mạnh mẽ, hùng hồn.

Bài thơ chính là minh chứng rõ ràng nhất cho một võ tướng tài giỏi “bách chiến bách thắng” lại sở hữu một trái tim nhạy cảm của thi nhân. Thuật hoài chính là tác phẩm xuất sắc, trình bày nỗi lòng của tác giả, cũng là nỗi lòng chung của tuổi xanh hùng tráng và lột tả hào khí đời Trần.

Phân tích bài Tỏ lòng – Mẫu 12

Phạm Ngũ Lão là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ từng lớp bình dân song chí lớn tài cao nên ông nhanh chóng trở thành tùy tướng số một kế bên Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên xâm lược, Phạm Ngũ Lão cùng những tên tuổi lớn khác của triều đình đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần quan trọng tạo nên hào khí Đông A của thời đại đó.

Ông sáng tác ko nhiều nhưng Thuật hoài là một bài thơ nổi tiếng, được lưu truyền rộng rãi vì nó bộc bạch khát vọng mãnh liệt của tuổi xanh trong xã hội phong kiến đương thời: làm trai phải trả cho xong món nợ công danh, có tức là phải thực hiện tới cùng lí tưởng trung quân, ái quốc.

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

Dịch thơ tiếng Việt:

Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.

Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh đặc thù không tiền khoáng hậu của lịch sử nước nhà. Triều đại nhà Trần (1226 – 14001) là một triều đại lừng lẫy với bao nhiêu chiến công vinh quang, mấy lần quét sạch quân xâm lược Mông – Nguyên hung tàn ra khỏi lãnh thổ, giữ vững sơn hà xã tắc, nêu cao truyền thống quật cường của dân tộc Việt.

Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại đấy nên ông sớm thấm nhuần lòng yêu nước, ý thức tự hào, tự trọng dân tộc và nhất là lí tưởng sống của đạo Nho là trung quân, ái quốc. Ông ý thức rất rõ ràng về trách nhiệm công dân trước vận mệnh của tổ quốc: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.

Bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) được làm bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật Đường, niêm luật chặt chẽ, ý tứ súc tích, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào hùng, sảng khoái. Hai câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp gân guốc, lẫm liệt, tràn đầy sức sống của những trang nam nhi – chiến binh quả cảm đang xả thân vì nước, qua đó trình bày hào khí Đông A ngút trời của quân đội nhà Trần thời đấy.

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu (Dịch nghĩa: cầm ngang ngọn giáo giữ gìn non sông đã mấy thu); dịch thơ: Múa giáo non sông trải mấy thu. So với nguyên văn chữ Hán thì câu thơ dịch chưa lột tả được hết chất uy phong, kiêu hùng trong tư thế của người lính đang đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Hoành sóc là cầm ngang ngọn giáo, luôn ở tư thế tấn công hùng dũng, áp đảo quân thù. Tư thế của những người chính nghĩa lồng lộng in hình trong ko gian rộng lớn là giang sơn tổ quốc trong suốt, một thời kì dài (giang sơn kháp kỉ thu). Có thể nói đây là hình tượng chủ đạo, tượng trưng cho dân tộc Việt quật cường, ko một quân thù nào khuất phục được. Từ hình tượng đấy, ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước ngời tỏa sáng.

Câu thơ thứ hai: Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu. (Dịch nghĩa: khí thế của ba quân mạnh như hổ báo, át cả sao Ngưu trên trời). Dịch thơ: Ba quân hùng khí át sao Ngưu, đặc tả khí thế đấu tranh và thắng lợi ko gì ngăn cản nổi của quân dân ta. Tam quân tì hổ là một ẩn dụ so sánh nghệ thuật nêu bật sức mạnh vô địch của quân ta. Khí thôn Ngưu là cách nói thậm xưng để tạo nên một hình tượng thơ kì vĩ mang tầm vũ trụ.

Hai câu tứ tuyệt chỉ mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời kì một bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm trong đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần.

Là một thành viên của đạo quân người hùng đấy, Phạm Ngũ Lão từ một chiến binh dày dạn đã trở thành một danh tướng lúc tuổi còn rất trẻ. Trong con người ông luôn sục sôi khát vọng công danh của đấng nam nhi thời loạn. Mặt tích cực của khát vọng công danh đấy chính là ý muốn được đấu tranh, hiến dâng đời mình cho vua, cho nước. Như bao kẻ sĩ cùng thời, Phạm Ngũ Lão tôn thờ lí tưởng trung quân, ái quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông (Chí làm trai – Nguyễn Công Trứ). Do đó cho nên lúc chưa trả hết nợ công danh thì tự lấy làm hổ thẹn:

“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu

(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu).

Vũ Hầu tức Khổng Minh, một quân sư tài giỏi của Lưu Bị thời Tam Quốc. Nhờ mưu trí cao, Khổng Minh đã lập được công lớn, nhiều phen làm cho đôi phương khốn đốn; vì thế ông rất được Lưu Bị tin yêu.

Lấy gương sáng trong lịch sử cổ kim soi mình vào đó nhưng so sánh, phấn đấu vươn lên cho bằng người, đó là lòng tự ái, lòng tự trọng đáng quý nhu yếu ở một đấng nam nhi. Là một tùy tướng thân cận của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão luôn sát cánh kế bên chủ tướng, chấp nhận xông pha nơi làn tên mũi đạn, làm gương cho ba quân tướng sĩ, dồn hết tài năng, tâm huyết để tìm ra cách đánh thần kì nhất nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi lãnh thổ. Suy nghĩ của Phạm Ngũ Lão rất cụ thể và thiết thực; một ngày còn bóng quân thù là nợ công danh của tuổi xanh với giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Nhưng mà tương tự là phận sự với vua, với nước chưa tròn, khát vọng công danh chưa thỏa. Cách nghĩ, cách sống của Phạm Ngũ Lão rất tích cực, tiến bộ. ông muốn sống xứng đáng với thời đại người hùng.

Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Xúc cảm hào sảng thuở đầu dần chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình cho nền âm hưởng trở thành trầm lặng, da diết.

Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài giỏi nhưng lại có một trái tim nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bộc bạch được hùng tâm tráng trí và hoài bão lớn lao của tuổi xanh đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục rất thâm thúy về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại Thuật hoài đã làm vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão.

Phân tích bài Tỏ lòng – Mẫu 13

Từ nghìn xưa, nhân dân ta đã có truyền thống yêu nước nồng nàn, luôn sẵn sàng đứng lên bảo vệ tổ quốc mỗi lúc tổ quốc cần. Lòng yêu nước được trình bày qua nhiều lĩnh vực nhưng có nhẽ nổi trội nhất vẫn là ở lĩnh vực văn học. Trong các bài thơ của ông, có một tác phẩm rất đặc thù “ Tỏ lòng ” đây chính là tác phẩm đã làm toát lên rất rõ về vẻ đẹp, khí thế của con người thân Trần. Phạm Ngũ Lão là danh tướng thời Trần, có công rất lớn trong công cuộc chống Nguyên – Mông. “ Tỏ lòng ” được ông sáng tác lúc trận đánh lần thứ hai Nguyên – Mông đang tới rất gần, nhằm khơi dậy sức mạnh toàn dân. Lúc đó, tác giả cùng một số vị tướng khác được cử lên biên cửa ải Bắc trấn thủ nước.

Nói tới hào khí Đông A là nói tới hào khí đời Trần. Thời này là một mốc son chói lọi trong lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, quân và dân thời Trần đã kiên cường quả cảm lập nên 3 kì tích: 3 lần đại thắng quân Nguyên – Mông, để có được thắng lợi đó, quân dân thời Trần đã phải vượt qua bao nhiêu khó khăn, gieo neo, căm thù giặc sục sôi cùng lòng quyết tâm thắng lợi. Hào khí dân tộc trình bày ở sự hòa quyện giữa hình ảnh người người hùng với hình ảnh “Ba quân” đã tạo nên một bức tranh tượng đài nghệ thuật sừng sững đang xuất hiện.

“Hoành sóc giang sơn khắp kỉ thu
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu“

Câu thơ đầu khắc họa một hình ảnh người người hùng đang trong tư thế hiên ngang, vững chãi, “Hoành sóc” là việc cầm ngang ngọn giáo, với sứ mệnh trấn thủ giang sơn, giữ yên lãnh thổ ròng rã đã mấy năm rồi nhưng ko biết mỏi mệt. Con người đó được đặt trong một ko gian kì vĩ: núi sông, tổ quốc khiến con người trở thành lớn lao sánh ngang với tầm vóc vũ trụ. Hình ảnh còn mang ý nghĩa biểu tượng cho ý thức xông pha sẵn sàng đấu tranh, một tư thế hiên ngang làm chủ chiến trường. Tiếc thay, lúc ta dịch chuyển thành “múa giáo” thì phần nào đã làm hai chữ “hoành sóc” giảm đi tính biểu tượng và tư thế uy phong lẫm liệt của hình tượng lớn lao này. Ngày xưa, quân lính chia làm ba tiểu đội: tiền quân, trung quân và hậu quân. Tuy nhiên, lúc nói tới “ba quân” thì sức mạnh của cả quân đội nhà Trần, sức mạnh của toàn dân tộc đang sục sôi biết bao. Câu thơ thứ hai sử dụng thủ pháp so sánh để làm toát lên khí thế, “Tam quân tỳ hổ” chính là ví sức mạnh của tam quân giống như hổ như báo, nó vững mạnh và oai hùng. Nhờ đó, tác giả đã bộc bạch niềm tự hào về sự trưởng thành, và vững mạnh của bậc quân đội. Không chỉ thế, câu thơ còn sử dụng thủ pháp phóng đại “Khí thôn ngưu” – khí thế quân đội mạnh mẽ lấn lướt cả Sao Ngưu hay là khí thế hào hùng nuốt trôi trâu. Như vậy, hai câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp người người hùng hòa trong vẻ đẹp của thời đại hào hùng tạo nên những con người người hùng. Câu thơ gây ấn tượng mạnh bởi sự liên kết giữa hình ảnh khách quan với cảm nhận chủ quan giữa hiện thực và lãng mạn. Qua đó, tác giả bộc lộ niềm tự hào về sức mạnh của nhà Trần nói riêng cũng như là của toàn dân tộc nói chung.

“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu“

Qua hai câu thơ trên, lí tưởng của người người hùng đang được trình bày rõ qua hai cặp từ “nam nhi và công danh”. Nhắc tới chí là nhắc tới chí làm trai, lập công là để lại công danh, sự nghiệp để lại tăm tiếng cho muôn thuở, công danh được coi là món nợ phải trả của kẻ làm trai. Một danh tướng có nỗi trằn trọc, canh cánh trong lòng là chưa trả xong nợ công danh mặc dù con người đấy đã lập lên bao nhiêu chiến công rồi. Đó chính là khát vọng, lí tưởng lớn lao muốn được phò vua giúp nước, trong ko khí sục sôi của thời đại bấy giờ, chí làm trai có tác dụng cỗ vũ cho con người sẵn sàng đấu tranh giành lại hòa bình cho tổ quốc.

Ở câu cuối của bài thơ, nói lên cái tâm của người người hùng, điều đáng quý kế bên Trí là còn có cái tâm. “Thẹn với Vũ Hầu” – Vũ Hầu chính là Gia Cát Lượng, một tài năng, một tư cách, một người có tâm, tác giả thẹn vì chưa có tài mưu lược như Gia Cát Lượng chăng? Mặc dù tác giả là người lập nhiều công cho tổ quốc nhưng vẫn thấy thẹn. Qua nỗi thẹn đấy, người đọc nhìn thấy thái độ khiêm nhượng, một ý nguyện cháy bỏng được giết thịt giặc, lập công đóng góp cho sự nghiệp chung.

Qua bài thơ, hiện lên hình ảnh của đấng nam nhi thời đại Bình Nguyên, với khát vọng có thể phá được cường địch để báo đáp hoàng ân, để non sông được vững vàng. Vẻ đẹp của người người hùng lồng trong vẻ đẹp của thời đại làm nên hào khí của thời đại nhà Trần, hào khí Đông A. Bài thơ cũng là nỗi lòng riêng của Phạm Ngũ Lão về khát vọng lí tưởng, về tư cách của con người phải được giữ gìn.

Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão – Mẫu 14

Phạm Ngũ Lão (1255-1320), là một vị tướng tài dưới triều Trần, từng đóng góp rất nhiều công lao trong cả hai cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên xâm lược. Khi còn tại thế ông đã từng giữ tới chức Điện súy, phong tước quan nội hầu, đương thời ông chỉ xếp sau cha vợ mình là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn – vị tướng lớn lao nhất lịch sử phong kiến nước ta về tăm tiếng. Tuy là con nhà võ, hàng năm quen chuyện binh đao thế nhưng Phạm Ngũ Lão cũng lại là người rất thích thú thơ ca và được người đời khen tặng là văn võ toàn tài.

Ông từng sáng tác rất nhiều bài thơ hay, thế nhưng theo dòng lịch sử đa số bị thất lạc, tới nay chỉ còn lại hai bài Tỏ lòng và Viếng thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương. Về thi ca, trong văn học trung đại luôn nằm trong một quy phạm chung, làm thơ thì phải bao hàm chữ “chí”, trong “Văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí”. Nghĩa rằng thơ văn thì phải truyền tải một nội dung giáo dục nào đó to lớn, và Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão là một trong số những bài thơ tiêu biểu nhất trình bày cái tính quy phạm đặc trưng này của nền văn học trung đại – lời là lời giáo huấn về chí nam nhi đầy hào khí của thời Trần.

Cho tới tận ngày hôm nay vẫn chưa có một cứ liệu xác thực nào về hoàn cảnh ra đời của Tỏ lòng (Thuật hoài), nhưng theo một số suy đoán thì bài thơ được sáng tác vào năm 1284, trước lúc diễn ra diễn ra cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên lần thứ hai. Lúc này Phạm Ngũ Lão được cử đi trấn thủ biên giới cùng một số tướng soái khác để sẵn sàng cho chiến sự. Ở hai câu thơ đầu Phạm Ngũ Lão đã tái tạo một cách xúc tích và ấn tượng về vẻ đẹp của con người và quân đội thời Trần.

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.”

Để khắc họa hình ảnh con người thời Trần, tác giả đã khôn khéo dựng lên một bối cảnh ko gian và thời kì rất đặc thù, là một cái phông nền lạ mắt để từ đó làm nổi trội lên vẻ đẹp của những con người sống dưới triều Trần, một triều đại nhiều bão táp mưa sa nhất lịch sử phong kiến. Về bối cảnh ko gian, Phạm Ngũ Lão chọn hai chữ “giang sơn” vốn là từ ghép hợp nghĩa, ở đây tức là chỉ núi sông, từ đó mở ra trước mắt người đọc một ko gian vô cùng rộng lớn, rộng lớn và khoáng đạt, đó là ko gian của cả một quốc gia, dân tộc.

Kế bên ko gian, thì bối cảnh thời kì được gợi mở bằng ba từ “kháp kỷ thu”, ý chỉ đã qua hết mấy thu rồi, trước cái cách đo đếm thời kì đấy đã gợi cho người đọc về một khoảng thời kì lâu dài, có bề dày lịch sử vững bền. Trên cái nền ko gian, thời kì dài rộng đấy lại nổi trội lên hình ảnh con người trong tư thế “hoành sóc”, cầm ngang ngọn giáo để trấn thủ non sông đã qua mấy thu.

Tầm vóc của con người nổi trội thông qua hình ảnh ngọn giáo dường như được đo bằng cả chiều rộng của giang sơn, chiều dài của thời kì, vô cùng hiên ngang và hùng tráng. Mang vẻ kỳ vĩ, lớn lao, sánh ngang với tầm vóc vũ trụ, đặc thù tư thế cầm ngang ngọn giáo gợi ra cho người đọc về phẩm chất kiên cường, dai sức, quả cảm luôn trong tư thế sẵn sàng đấu tranh, trong nhiệm vụ trấn thủ non sông, bảo vệ tổ quốc như những vị thần.

Điều này gợi nhắc ta về câu chuyện lịch sử, quân Mông – Nguyên mượn cớ mượn đường nước ta để sang đánh Chiêm Thành, nhưng thực tiễn thủ đoạn của chúng là hòng thôn tính Đại Việt. Trước sự nghi ngờ, quân đội nhà Trần quyết lật đổ thủ đoạn của giặc, trong sự sẵn sàng bao gồm việc cử Phạm Ngũ Lão và một số tướng soái tài giỏi ra trấn thủ tại biên giới để ngừa giặc tấn công bất thần.

Trước hoàn cảnh đấy, có nhẽ ứng với hình ảnh vị tướng cầm ngang ngọn giáo, kiêu hùng canh phòng từng tấc đất của Tổ quốc là hoàn toàn hợp lý và xuất phát từ những sự kiện có thật để tạo nên cảm hứng đầy hào khí hiên ngang, mạnh mẽ trong Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão. Tản mạn một tí về câu thơ dịch “Múa giáo non sông trải mấy thu” của Bùi Văn Nguyên, thì có nhẽ rằng ý thơ chưa thực sự đạt, bởi với hai từ “múa giáo” thực tiễn chỉ cốt thiên về cái “mỹ”, đẹp và có chất thơ, nhưng lại thiếu đi cái chí “hùng” nhưng tác giả muốn biểu đạt.

Còn trong bản gốc hai từ “hoành sóc” mới thực sự diễn tả đúng cái khí thế hùng tráng, hiên ngang của một vị tướng, thậm chí là biểu đạt vẻ kiên cường, hào khí cho cả một thế hệ những con người dưới thời Trần, trước hai cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên xâm lược.

Đó là hình ảnh con người thời Trần, ở câu thừa đề, tác giả đã sử dụng từ “tam quân” tức là ba quân, là đặc trưng của các tổ chức quân đội thời xưa, của các nước phương Đông bao gồm tiền quân, trung quân và hậu quân. Nhưng mà ẩn chứa sau đó là tác giả muốn nói về sức mạnh về cái sự đồng lòng của toàn quân, toàn dân tộc trong công cuộc kháng chiến. Đặc trưng để diễn tả được sức mạnh và hào khí của quân đội trong thời đại này tác giả đã sử dụng phép so sánh “Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu”.

Phép so sánh này đã gợi ra cho người đọc hai cách hiểu chính, thứ nhất có thể diễn giải đơn giản theo ý trên mặt chữ rằng ba quân mạnh như hổ, như báo có thể nuốt trôi cả một con trâu lớn. Một cách hiểu thứ hai có phần văn hoa và suy diễn nhiều hơn đấy là sức mạnh của ba quân như hổ báo, thậm chí át cả sao Ngưu đang ngự trên trời. Cách hiểu thứ hai vừa mang trị giá hiện thực vừa mang một tí cảm hứng lãng mạn hiếm có trong thi ca trung đại, gợi tạo cảm hứng sử thi người hùng ca mạnh mẽ. Tổng kết lại sức mạnh của quân đội thời Trần được tóm gọn bằng cụm từ “hào khí Đông A”, gọi là Đông A bởi vốn hai chữ này là hai bộ thủ trong chữ Hán ghép lại thành chữ Trần.

Sau hai câu khai đề và thừa đề diễn tả hào khí chung của dân tộc, thì tới hai câu chuyển và câu hợp là để giảng giải và làm rõ ý của câu đề và của cả bài thơ. Chuyển là chuyển từ khách thể sang chủ thể là tác giả, để bộc bạch nỗi lòng, tâm tư, ước vọng của bản thân về chí làm trai, về món nợ công danh phải trả cho tổ quốc. Đồng thời câu hợp để kết lại, trình bày sáng rõ vẻ đẹp tâm hồn và tư cách lớn lao của Phạm Ngũ Lão. “Nam nhi vị liễu công danh trái” ý chỉ lý tưởng, chí lớn lập công danh, trình bày qua quan niệm, nhận thức của tác giả về món nợ công danh của kẻ làm trai.

Ở đây món nợ công danh xuất phát từ quan niệm “nhập thế tích cực” của Nho giáo, khác với quan niệm “xuất thế” của Phật giáo, chủ trương lánh đời, ở ẩn, quên đi chuyện thế sự, nhiễu nhương, để tâm hồn thanh tịnh,…. Thì đối với Nho giáo, con người đặc thù là người nam nhi phải mạnh mẽ đứng giữa cuộc đời sóng gió, dùng hết tài trí sức lực của mình để hiến dâng cho đời, giúp dân giúp nước.

Trong đó việc ứng thí khoa cử, tham gia vào chốn quan trường chính là một trong những biểu thị rõ rõ nét và phổ quát nhất của quan niệm “nhập thế tích cực”, và Phạm Ngũ Lão chính là một trong số những con người chịu tác động thâm thúy bởi quan niệm này. Quan niệm đấy đã tạo dựng nên mục tiêu sống, lý tưởng sống chung của các đấng nam nhi dưới thời đại này là phải lập được công danh, có sự nghiệp, tiếng thơm lưu truyền tới muôn thuở. Trở thành một trong những điều tối cần của chí làm trai, nhưng trong văn học Việt Nam đã từng có rất nhiều thi sĩ nói đến tới ví như Nguyễn Công Trứ với “Chí làm trai nam bắc đông tây/Cho thỏa sức vẫy vùng trong bốn bể”.

Đặt trong hoàn cảnh tổ quốc đương thời, quân xâm lược đang ngấp nghé lãnh thổ, thì cũng là lúc để cho những kẻ làm trai có dịp trả món nợ công danh, ra sức giúp nước, giúp tư thục chí lớn. Người nam nhi phải từ bỏ những lối sống tầm thường, ích kỷ, vui vầy vợ con, ruộng vườn để xông pha trận mạc sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp cứu nước, cứu dân. Có thể nói rằng món nợ công danh trong trong nhận thức của Phạm Ngũ Lão vừa mang tư tưởng tích cực của thời đại vừa mang ý thức dân tộc thâm thúy. Chính vì thế nó luôn canh cánh, trằn trọc trong cõi lòng của tác giả.

Kế bên chí lớn làm trai cùng với quan niệm món nợ công danh trước thời cuộc, thì câu thơ cuối chính là câu thơ tỏ rõ vẻ đẹp tâm hồn và tư cách cao thượng của Phạm Ngũ Lão. Nhân cách cao của tác giả trình bày qua nỗi thẹn của ông lúc nghe chuyện Vũ Hầu. Vũ Hầu ở đây chính là chỉ Gia Cát Lượng, một vị quân sư lỗi lạc, một nhân vật lịch sử lớn lao, là người cộng sự trung thành, đóng góp những công lao to lớn trong công cuộc mở rộng lãnh thổ của Lưu Bị – vua nước Thục trong bối cảnh tam quốc phân tranh cực gay gắt làm thành thế chân kiềng.

Đứng trước con người mang tầm vóc tương tự Phạm Ngũ Lão mặc dầu đã lập được rất nhiều công danh nhưng vẫn cảm thấy bản thân mình quá nhỏ nhỏ, tựa như hạt cát giữa sa mạc mênh mông, đồng nghĩa với việc ông ý thức được rằng món nợ công danh đã trả chẳng thấm tháp vào đâu, nhưng vẫn còn phải nỗ lực trả nhiều hơn nữa thì mới xứng với phận nam nhi, xứng với Tổ quốc.

Từ những biểu thị trên ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Phạm Ngũ Lão trước hết là ở ý chí nỗ lực muốn theo gương người xưa lập công danh cho xứng tầm, thứ hai đấy là lý tưởng, chí lớn mong muốn lập được công danh sánh ngang với nhân vật lịch sử lỗi lạc. Có thể nói rằng nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão là nỗi thẹn của một nhà nho có tư cách lớn, cũng là nỗi thẹn của một người dân yêu nước trong khi cái họa xâm lược vẫn đang treo lửng lơ trước mắt.

Thuật hoài đã khắc họa vẻ đẹp của người người hùng vệ quốc hiên ngang, đồng thời cũng cho thấy sự lẫm liệt, lý tưởng và tư cách lớn lao của con người thời Trần, từ đó nói chung hóa, ca tụng hào khí của những con người đương thời – vẻ đẹp của hào khí Đông A. Về nghệ thuật, bài thơ có tính súc tích, cô đọng “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”, đồng thời bài thơ còn mang tính sử thi với những hình tượng thơ kì vĩ lớn lao đã nâng tầm vóc người người hùng sánh ngang với tầm vóc của vũ trụ rộng lớn.

Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão – Mẫu 15

Việt Nam, tổ quốc tuy nhỏ nhỏ đầy những gian lao vất vả nhưng rất đỗi người hùng đã trải qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước với những mốc son chói lọi trong lịch sử. Một trong những mốc son đấy chính là ba cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên xâm lược của vua tôi nhà Trần.

Nhà Trần đã ghi vào pho sử vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử. Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được ghi lại trong những áng văn học kiệt xuất như: “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu, v.v… Đặc trưng và nổi trội hơn hết cả là tác phẩm “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão. Bài thơ là một khúc tráng ca hào hùng và mang nặng nỗi niềm của tác giả.

Phạm Ngũ Lão sinh ra trong thời kì tao loạn với cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên của tổ quốc. Tên tuổi của ông gắn liền với câu chuyện về một chàng trai nghèo mãi nghĩ kế giúp vua đánh giặc tới nỗi bị giáo đâm vào đùi. Kế bên một nhà quân sự tài giỏi, ông còn là một thi sĩ lớn lao với hai tác phẩm “Thuật hoài” và “Viếng Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương” còn vang vọng mãi với non sông.

“Thuật hoài” là bản tuyên ngôn về lý tưởng của kẻ làm trai là đấu tranh để bảo vệ non sông tổ quốc đồng thời trình bày khí thế, sức mạnh và khát vọng thắng lợi của một thời đại người hùng. Bài thơ tiêu biểu cho quy luật văn học nghệ thuật “Quý hồ tinh, bất quý hồ đa”

Mở đầu bài thơ là hình ảnh tráng lệ với âm hưởng hào hùng:

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”

Bước vào thời đại chiến tranh đấy, cái thời nhưng ngọn lửa như thiêu cháy cả tâm hồn quyết tâm diệt tan quân thù xâm lược lãnh thổ, khẳng định lại một lần nữa: “Nam quốc sơn hà Nam Đế cư”! Và lúc đó, xuất hiện tư thế hiên ngang của người người hùng đất Việt “hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”. Câu thơ trước hết đã vẽ nên hình tượng uy phong lẫm liệt của người tráng sĩ với tư thế cầm ngang ngọn giáo sẵn sàng đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Tư thế đấy mang đậm tính tự hào rằng mình là người con đất Việt và sẵn sàng hi sinh để bảo vệ lãnh thổ Việt, bảo vệ nhân dân Việt, bảo vệ non sông gấm vóc nghìn thu này. Hình ảnh lớn lao của người chiến sĩ đã sánh với tầm vóc rộng lớn hùng vĩ của đất trời, lấn lướt cả khí thế của quân giặc. Đó còn biểu tượng cho lối sống cao đẹp hiến dâng hết sức để bảo vệ tổ quốc một cách kiên trì, nhẫn nại. Dù bao nhiêu năm đi chăng nữa thì lí tưởng bảo vệ, khôi phục non sông vẫn mãi trường tồn.

Nếu câu thơ đầu trình bày vẻ đẹp của con người với tầm vóc, tư thế, hành động lớn lao, kỳ vĩ mang tầm vóc vũ trụ thì câu thơ thứ hai tô đậm hình ảnh “ba quân” tượng trưng cho sức mạnh của quân đội nhà Trần và sức mạnh dân tộc Đại Việt lúc bấy giờ.

“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”

Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo quyết đánh tan mọi quân thù xâm lược. Khí thế của đội quân đấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, quân thù nào có thể ngăn cản nổi. “Khí thôn ngưu” tức là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời xuất phát từ câu “khí thôn Ngưu đẩu” hay đó chính là khí thể hùng mạnh có thể nuốt trôi trâu của tam quân thời Trần. Biện pháp nghệ thuật thổi phồng hoá thông minh nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, có tính sử thi. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất lạ mắt, ko chỉ có sức biểu thị thâm thúy sức mạnh vô địch của đội quân “Sát Thát” bất khả chiến bại nhưng nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:

Thuyền bè muôn đội,
Tinh kì phất phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói.

(Phú sông Bạch Đằng – Trương Hán Siêu)

Nếu tư thế của tráng sĩ với hình ảnh cây trường giáo như đo bằng chiều ngang của non sông thì tư thế của ba quân vững mạnh đo bằng chiều dọc gợi ko gian mở ra theo chiều rộng của núi sông và mở theo chiều cao tới tận sao Ngưu thăm thẳm. Con người kì vĩ như át cả ko gian rộng lớn, kì vĩ. Hình ảnh tráng sĩ lồng vào trong hình ảnh dân tộc thật đẹp có tính chất sử thi, hoành tráng. Đó chính là sức mạnh, âm vang của thời đại, vẻ đẹp của người trai thời Trần, là thành phầm của “hào khí Đông A”. Nói cách khác, đó là hình ảnh con người vũ trụ, mang tầm vóc lớn lao. Con người đấy vì người nào nhưng xông pha, quyết đấu? Tất cả xuất phát từ trách nhiệm, ý thức dân tộc và nền thái hoà. Vì thế con người vũ trụ gắn với con người trách nhiệm, con người ý thức, nghĩa vụ, con người hành động, đó chính là những biểu thị của con người tập thể, con người xả thân vì tổ quốc.

Nếu ở hai câu đầu giọng điệu sôi nổi hùng tráng thì tới đây âm hưởng thơ bỗng dưng như một nốt trầm lắng lại với lời bộc bạch, tâm tình, bộc bạch nỗi lòng của thi sĩ:

“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”

Thời xưa, Nho giáo đã nêu lên triết lí kẻ làm trai từ lúc sinh ra đã gánh nợ công danh. Người đàn ông phải hướng tới “tu thân, tề gia, trị quốc, bình người đời” lấy đó là lí tưởng, là cái đích phải hướng tới. Nói như Nguyễn Công Trứ thì:

“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phcửa ải có danh gì với núi sông”.

Thời Trần, cái chí làm trai đấy là “Phá cường địch, báo hoàng ân” của vị người hùng trẻ tuổi Trần Quốc Toản, là câu nói quyết đoán của Thái sư Trần Thủ Độ: “Đầu thần còn chưa rơi xuống xin hoàng thượng đừng lo” hay đó là vị Quốc Công tiết chế với “Hịch tướng sĩ” mang đậm hào khí người hùng: “…dẫu cho thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng cam lòng”. Đấy chính là khát vọng được gánh vác vận mệnh tổ quốc, dân tộc, lập chiến công hiển hách, là lý tưởng lập công danh sự nghiệp của nam nhi thời tao loạn. “Công danh” nhưng Phạm Ngũ Lão nói tới trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược, bằng ý thức quả cảm và chiến công. Đó ko phải là thứ “công danh” tầm thường, đậm màu sắc người hùng tư nhân. Nợ công danh như một gánh nặng nhưng kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm.

Đặt trong thời đại của Phạm Ngũ Lão, chí làm trai này đã động viên con người từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỉ, sẵn sàng đấu tranh hi sinh vì sự nghiệp lớn lao “cùng trời đất muôn thuở bất hủ”. Phạm Ngũ Lão cũng từ cái chí, cái nợ nam nhi, nam tử đó nhưng cùng dân tộc đấu tranh chống xâm lược dai sức, ròng rã bao năm. Đặc trưng ở đây cũng từ cái chí, cái nợ đó nhưng phát sinh trong tâm trạng một nỗi thẹn. Phạm Ngũ Lão “thẹn” chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu Gia Cát Lượng đời Hán để trừ giặc, cứu nước. Thẹn bởi vì so với ông cha mình chưa có gì đáng nói. Gia Cát Lượng là quân sư của Lưu Bị, mưu trí tuyệt vời, song điểm làm cho Gia Cát Lượng nổi tiếng rằng lòng tuyệt đối trung thành với chủ. Vì thế “luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu” thực chất là một lời thề suốt đời tận tụy với chủ tướng Trần Hưng Đạo. Xưa nay, những người có tư cách vẫn thường mang trong mình nỗi thẹn. Nguyễn Khuyến trong bài thơ “Thu vịnh” từng bộc bạch nỗi thẹn lúc nghĩ tới Đào Tiềm – một danh sĩ cao khiết đời Tấn. Với Phạm Ngũ Lão, tuy là một nhà thao lược kiệt xuất, có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên lần hai, ba nhưng ông vẫn tự thấy hổ thẹn. Ông thẹn vì chưa khôi phục được giang sơn, vì thấp kém chưa được như Vũ hầu, chưa báo được Hoàng ân. Nỗi thẹn đấy ko làm cho con người trở thành nhỏ nhỏ nhưng trái lại tăng lên phẩm giá con người. Đó là cái thẹn của một con người có lý tưởng, hoài bão vừa lớn lao, vừa khiêm nhượng. Nỗi thẹn của một con người luôn dành trọn cái tâm cho tổ quốc, cho tập thể. Ẩn sau cái thẹn cao cả, khiêm tốn và đấy là cả một nỗi niềm khát khao được hiến dâng hơn nữa cho Tổ quốc, cho dân tộc. Ông nguyện học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng đấu tranh “Khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bê được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn vững bền: “Non sông nghìn thuở vững âu vàng”.

Thuật hoài là một bài thơ Đường luật ngắn gọn nhưng súc tích với thủ pháp gợi, thiên về ấn tượng, nói chung liên kết với văn pháp hoành tráng mang âm hưởng sử thi đã khắc họa vẻ đẹp của người người hùng hiên ngang, kiêu hùng với sức mạnh lý tưởng lớn lao cao cả, tâm hồn sáng ngời nhận cách cùng khí thế hào hùng, quyết đấu quyết thắng của “hào khí Đông A” – hào khí thời Trần. Ngày nay, việc “cứu nước phò nguy” đâu phải là ko cần thiết nữa vì vậy, mỗi thanh niên chúng ta cần học tập thật tốt, rèn luyện tư cách đạo đức, xác định cho mình lí tưởng sống đúng mực và quan trọng hơn là phải biết ước mơ và hành động vì sự nghiệp tổ quốc, đưa Việt Nam sánh ngang tầm với các cường quốc khắp năm châu.

.

Văn mẫu lớp 10: Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão Dàn ý & 15 bài phân tích Tỏ lòng

[rule_3_plain]

Phân tích Tỏ lòng giúp chúng ta cảm thu được hình tượng, khí thế hiên ngang, hùng dũng của con người và quân đội thời Trần. Đồng thời, qua đó cũng giúp người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn, tư cách của thi sĩ Phạm Ngũ Lão.(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Phân tích bài thơ Tỏ lòng gồm dàn ý kèm theo 15 bài văn phân tích siêu hay, ấn tượng nhất được Thư Viện Hỏi Đáp tuyển chọn từ bài làm của các bạn đạt điểm cao nhất. Qua 15 mẫu phân tích bài Tỏ lòng giúp các bạn có thêm nhiều gợi ý tham khảo, trau dồi tri thức, biết cách phân tích các bước đi và hướng khắc phục vấn đề nêu ra trong đề bài. Từ đó nhanh chóng viết thành một bài văn hoàn chỉnh, hay. Ngoài ra các bạn lớp 10 xem thêm phân tích Cảnh ngày hè, dàn ý phân tích Tỏ lòng.Phân tích bài thơ Tỏ lòng siêu hayDàn ý phân tích bài thơ Tỏ lòngPhân tích Tỏ lòng – Mẫu 1Phân tích Tỏ lòng – Mẫu 2Phân tích Tỏ lòng – Mẫu 3Phân tích Tỏ lòng – Mẫu 4Phân tích Tỏ lòng – Mẫu 5Phân tích Tỏ lòng – Mẫu 6Phân tích bài thơ Tỏ lòng – Mẫu 7Phân tích bài thơ Tỏ lòng – Mẫu 8Phân tích Tỏ lòng ngắn nhất – Mẫu 9Phân tích bài thơ Tỏ lòng – Mẫu 10Phân tích bài Tỏ lòng – Mẫu 11Phân tích bài Tỏ lòng – Mẫu 12Phân tích bài Tỏ lòng – Mẫu 13Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão – Mẫu 14Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão – Mẫu 15(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Dàn ý phân tích bài thơ Tỏ lòngI. Mở bài:- Giới thiệu về tác giả Phạm Ngũ Lão: Phạm Ngũ Lão là người văn võ song toàn, ông có nhiều sáng tác nói về chí làm trai và lòng yêu nước, song hiện chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán là Tỏ lòng (Thuật hoài) và Viếng Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương (Văn Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương)- Giới thiệu nói chung nội dung và nghệ thuật bài thơ Tỏ lòng: Tỏ lòng là bài thơ Đường luật ngắn gọn, súc tích, khắc họa vẻ đẹp của con người có sức mạnh, hợp lí tưởng, tư cách cao cả cùng khí thế hào hùng của thời đại.II. Thân bài:1. Hình tượng con người và sức mạnh quân đội nhà Trầna. Hình tượng con người thời Trần- Hành động: hoành sóc – cầm ngang ngọn giáo → Tư thế kiêu hùng, uy nghiêm, hiên ngang sẵn sàng đấu tranh bảo vệ Tổ quốc- Không gian kì vĩ: giang sơn – non sông → Không gian rộng lớn, mênh mông, nó ko thuần tuý là sông, là núi nhưng là giang sơn, tổ quốc, Tổ quốc- Thời gian kì vĩ: kháp kỉ thu – đã mấy thu → Thời gian dài đằng đẵng, ko biết đã bao nhiêu mùa thu, bao nhiêu năm đi qua, trình bày quá trình đấu tranh dai sức, trong khoảng thời gian dài.⇒ Như vậy:+ Hình ảnh người tráng sĩ cho thấy một tư thế hiên ngang, mạnh mẽ, hào hùng, sẵn sàng lập nên những chiến công vẻ vang(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})+ Hình ảnh, tầm vó những người tráng sĩ đấy sánh với núi sông, tổ quốc, với tầm vóc hùng vĩ của vũ trụ.+ Người tráng sĩ đấy ra đi bảo vệ Tổ quốc ròng rã mấy năm trời nhưng chưa từng một phút chốc nào cảm thấy mỏi mệt nhưng trái lại vẫn bừng bừng khí thế hiên ngang, quật cường, hùng dũngb. Hình tượng quân đội thời Trần- “Tam quân” (ba quân): tiền quân, trung quân, hậu quân – quân đội của cả tổ quốc, cả dân tộc cùng nhau đứng lên để chiến đấu- Sức mạnh của quân đội nhà Trần:Hình ảnh quân đội nhà Trần được so sánh với “tì hổ” (hổ báo) qua đó trình bày sức mạnh kiêu hùng, hùng dũng của đội quân“Khí thôn ngưu”: khí thế hào hùng, mạnh mẽ lấn lướt cả trời cao, cả ko gian vũ trụ rộng lớn, rộng lớn → Với các hình ảnh so sánh, phóng đại lạ mắt, sự liên kết giữa hiện thực và lãng mạn, giữa hình ảnh khách quan với cảm nhận chủ quan đã cho thấy sức mạnh và tầm vóc của quân đội nhà Trần⇒ Như vậy, hai câu thơ đầu đã cho thấy hình ảnh người tráng sĩ kiêu hùng, uy phong cùng tầm vóc mạnh mẽ và sức mạnh của quân đội nhà Trần. Nghệ thuật so sánh phong đại cùng giọng điệu hào hùng mang lại hiệu quả cao.2. Nỗi lòng muốn bộc bạch của tác giả- Giọng điệu: trầm lắng, suy tư, qua đó bộc lộ tâm trạng băn khoăn, trăn trở- Nợ công danh: Theo quan niệm nhà Nho, đây là món nợ lớn nhưng một trang nam nhi lúc sinh ra đã phải mang trong mình. Nó gồm 2 phương diện: Lập công (để lại chiến công, sự nghiệp), lập danh (để lại danh thơm cho hậu thế). Kẻ làm trai phải làm xong hai nhiệm vụ này mới được coi là hoàn trả món nợ.(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})- Theo quan niệm của Phạm Ngũ Lão, làm trai nhưng chưa trả được nợ công danh “thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”:Thẹn: cảm thấy xấu hổ, thua kém với người khácChuyện Vũ Hầu: tác giả sử dụng tích về Khổng Minh – tấm gương về ý thức tận tình tận lực báo đáp chủ tướng. Hết lòng trả món nợ công danh tới hơi thở cuối cùng, để lại sự nghiệp vẻ vang và tiếng thơm cho hậu thế → Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão hết sức cao cả của một tư cách lớn. Thể hiện khát khao, hoài bão hướng về phía trước để thực hiện lí tưởng, nó đánh thức ý chí làm trai, chí hướng lập công cho các trang nam tử⇒ Với âm hưởng trầm lắng, suy tư và việc sử dụng điển cố điển tích, hai câu thơ cuối đã trình bày tâm tư và khát vọng lập công của Phạm Ngũ Lão cùng ý kiến về chí làm trai rất tiến bộ của ôngIII. Kết bài- Khái quát lại trị giá nội dung và nghệ thuật- Bài học đối với thế hệ thanh niên ngày nay: Sống phải có ước mơ, hoài bão, biết vượt qua khó khăn, thử thách để biến ước mơ thành hiện thực, có ý thức trách nhiệm với tư nhân và tập thể.Phân tích Tỏ lòng – Mẫu 1Trong dòng chảy của văn học trung đại Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước là một nội dung lớn, bao trùm và xuyên suốt văn học thời kỳ này với nhiều tác giả, tác phẩm nổi tiếng và bài thơ “Thuật hoài” (Tỏ lòng) của tác giả Phạm Ngũ Lão là một trong số những tác phẩm tiêu biểu. Ra đời sau thắng lợi Mông – Nguyên của quân đội nhà Trần, bài thơ đã trình bày vẻ đẹp của hào khí Đông A, sức mạnh của con người và quân đội thời Trần.Đọc bài thơ, người đọc có thể nhận thấy hai câu thơ mở đầu bài thơ đã khắc họa một cách rõ nét, chân thực hình tượng của con người và quân đội thời trần. Trước hết đó chính là hình tượng con người thời Trần được khắc họa qua câu thơ trước hết:Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu(Múa ngang ngọn giáo trải mấy thu)Câu thơ đã vẽ lên hình ảnh con người tay cầm ngang ngọn giáo nhưng bảo vệ, trấn thủ quê hương, tổ quốc. “Cầm ngang ngọn giáo” là một hành động rất mạnh mẽ, nó gợi lên tư thế hiên ngang, kiêu hùng, sẵn sàng đấu tranh của người chiến sĩ. Thêm vào đó, tác giả còn đặt hình ảnh người tráng sĩ trong ko gian “giang sơn” rộng lớn của núi rừng, của Tổ quốc và thời kì đấu tranh dài đằng đẵng, suốt từ năm này qua năm khác – “kháp kỉ thu” đã thêm một lần nữa tô đậm thêm tư thế tư thế hiên ngang, quật cường của người tráng sĩ trong công cuộc đấu tranh bảo vệ quê hương, tổ quốc.(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Thêm vào đó, hình tượng quân đội nhà Trần tràn đầy sức mạnh và khí thế cũng được tác giả Phạm Ngũ Lão tái tạo thật sống động, rõ nét.Tam quân tì hổ khí thôn ngưu(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)“Tam quân” chính là ba quân trong được quân đội nhà Trần xây dựng, đó là tiền quân, trung quân và hậu quân. Thêm vào đó, câu thơ với việc sử dụng hàng loạt các hình ảnh so sánh và lối nói phóng đại lúc so sánh quân đội nhà Trần với “tì hổ” – sức mạnh của loài hổ báo, nó có thể át đi cả sao Ngưu trên trời đã cho thấy khí thế hùng dũng, hào hùng của quân đội nhà Trần. Đó cũng chính là sức mạnh, là khí thế của hào khí Đông A được cả dân tộc tự hào.Như vậy, hai câu thơ mở đầu bài thơ, với hình ảnh so sánh, phóng đại và giọng điệu hào hùng đã khắc họa một cách rõ nét tư thế hiên ngang, quật cường của các tráng sĩ thời Trần cùng sức mạnh, tầm vóc mạnh mẽ của quân đội nhà Trần.Nếu hai câu thơ mở đầu bài thơ đã trình bày hình tượng con người và quân đội thời Trần thì trong hai câu thơ còn lại tác giả đã tập trung làm bật nổi nỗi lòng của chính mình.Nam nhi vị liễu công danh tráiTu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu(Công danh nam tử còn vương nợLuống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.)Theo quan niệm của Nho giáo, công danh chính là lập công, ghi danh sử sách để tiếng thơm còn vương lại tới muôn thuở sau, đây cũng chính là một món nợ lớn đối với mỗi trang nam nhi. “Công danh” dường như đã trở thành lí tưởng đối với nam nhi dưới thời đại phong kiến. Là một người văn võ song toàn, từng ghi được nhiều chiến công, nhưng với ông, mình vẫn còn mắc nợ – món nợ “công danh”. Hai chữ “vương nợ” trong bản dịch thơ như khắc sâu thêm nỗi niềm da diết trong lòng tác giả, ông vẫn luôn tự ý thức một cách thâm thúy về trách nhiệm của mình với quê hương, với tổ quốc.Không ngừng lại ở đó, hai câu thơ còn cho chúng ta thấy được vẻ đẹp tư cách, tâm hồn của Phạm Ngũ Lão. Vẻ đẹp đấy được trình bày qua nỗi “thẹn” của ông với Vũ Hầu. Như chúng ta đã biết, Vũ Hầu tức là Gia Cát Lượng, một nhân vật lịch sử lỗi lạc và là một con người tài năng, một bề tôi trung thành, đã từng nhiều lần giúp sức Lưu Bị khôi phục nhà Hán. Nhắc tới tích chuyện về Vũ Hầu, Phạm Ngũ Lão cảm thấy “thẹn”, thấy xấu hổ, thua kém. Nỗi “thẹn” đấy của Phạm Ngũ Lão xét tới cùng là biểu thị của một tư cách cao đẹp, nó đánh thức chí làm trai đàn cuồn cuộn trong ông và đồng thời cũng trình bày lí tưởng, hoài bão của tác giả.Như vậy, hai câu thơ khép lại bài thơ với âm hưởng trầm lắng, đã cho người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn, tư cách cao cả của Phạm Ngũ Lão cùng ý kiến tiến bộ về chí làm trai của ông.(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Tóm lại, bài thơ “Thuật hoài’ với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt súc tích, tiếng nói cô đọng đã trình bày được hình tượng, khí thế hiên ngang, hùng dũng của con người và quân đội thời Trần. Đồng thời, qua đó cũng giúp người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn, tư cách của thi sĩ Phạm Ngũ Lão.Phân tích Tỏ lòng – Mẫu 2Thời đại nhà Trần là thời kỳ vàng son của Hào khí đông A, hào khí đấy đã trở thành một sức mạnh ý thức to lớn của quân và dân ta trong một thời đại đầy hào hùng máu lửa. Hào khí đông A đã trình bày được ý thức kết đoàn, ý chí quyết tâm chống giặc của dân tộc. Từ âm vang của thời đại, của hào khí Đông A sóng dậy, Phạm Ngũ Lão đã sáng tác nên bài thơ Tỏ lòng đầy rực rỡ và ý nghĩa:”Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thuTam quân tì hổ khí thôn Ngưu”Dịch thơ:“Múa giáo non sông trải mấy thuBa quân khí mạnh nuốt trôi trâu”Giặc Nguyên tràn vào xâm lược, chúng gian ác về nhân tính, hung bạo về nhân hình bởi lực lượng vững mạnh và sức càn quét đáng sợ. Ứng phó với quân thù man rợ và nguy hiểm đấy cần có một khả năng gan góc phi thường. Ở đây, Phạm Ngũ Lão đã trình bày được tầm vóc của mình và sức mạnh to lớn của quân đội nhà Trần. ” hoành sóc giang sơn”, giữa giang sơn rộng lớn, người tráng sĩ cầm ngọn giáo giặc trong thế hiên ngang để trấn thủ Tổ quốc mình, ngọn giáo ngang tàng đo chiều dài, chiều rộng tổ quốc, kẻ quân tử nắm ngọn giáo đứng sừng sững, làm chủ trước dân tộc, trước thời cuộc. Lúc này đây, người quân tử đứng giữa sơn hà của vũ trụ nhưng ko hề nhỏ nhỏ, trái lại đầy vững chãi, lớn lao, ngọn giáo và người quân tử đang thực hiện sứ mệnh nhưng dân tộc uỷ thác trong tư thế sẵn sàng đấu tranh. “Trcửa ải mấy thu” tức là thời kì làm nhiệm vụ đấy đã lâu rồi và tới nay vẫn thế năm này qua năm khác vẫn ko đổi dời ý chí, tháng năm ko đo được ý chí người quân tử, lòng vẫn tâm huyết với công cuộc giữ nước của mình.Câu thơ thứ hai mang cả ý chí quyết đấu của toàn dân tộc. Sự đồng lòng của “tam quân” tạo nên một sức mạnh được ví như hổ báo, chúa sơn lâm của núi rừng, khí thế ngùn ngụt chất cao hơn núi “nuốt trôi trâu”. Nếu ở câu thơ thứ nhất là khả năng của một người quân tử, trách nhiệm của một tư nhân với tổ quốc thì sang câu thơ thứ hai đó là khả năng của một tập thể, của trăm vạn người quân tử, trách nhiệm của muôn người với dân tộc. Qua đó, ta thấy được một hào khí của thời đại, của những con người chung chí nguyện chống giặc, dẹp tan quân thù, đem lại hoà bình cho xã tắc, sơn hà.”Quốc gia còn nhiều những thử thách, khó khăn, vật cản trên tuyến đường đấu tranh còn nhiều gian lao, dù đã quyết chí, dù đã vững lòng nhưng tác giả vẫn còn điều gì đó chưa ưng ý lúc nghĩ về bản thân. Do đó nhưng những câu thơ được bộc bạch đầy tâm trạng, chứa chan nỗi lòng của người quân tử:”Nam nhi vị liễu công danh tráiTu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”Dịch thơ:“Công danh nam tử còn vương nợLuống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”Công danh sự nghiệp luôn là khát khao của con người trong bất kỳ thời đại nào. Phạm Ngũ Lão cũng ko nằm ngoài nỗi ưu tư về công danh của mình, dù ông đã là một kẻ tài cao, đức trọng, lập báo chiến công chỗ tổ quốc. Kẻ “nam tử” lúc này đây vẫn thấy mình còn một mối nợ với tổ quốc, đó là tấm lòng của một bậc đại tài đầy khiêm tốn và trách nhiệm.” Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”Tác giả mượn điển cố xưa về Vũ Hầu- một kẻ bề tôi trung thành, vị quân sư tài giỏi hàng đầu trong lịch sử Trung Hoa. Đó là lòng cảm thấy hổ thẹn, ko thể ưng ý về bản thân lúc nhắc tới bậc vĩ nhân xưa. Với tác giả, ko thể nào chấp nhận một cuộc sống ko công danh, một sự tồn tại nằm ngoài trách nhiệm với dân tộc, với tổ quốc.(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Bài thơ được viết nên bởi cả tấm lòng của người quân tử. Chỉ với 4 câu thơ thôi nhưng ý tứ thật thâm thúy, chí nguyện giúp đời cứu nước thật lớn lao. Bài thơ đã thôi thúc trong lòng em ý thức sống trách nhiệm với bản thân, gia đình và tổ quốc mình, sẽ sống hết mình, hiến dâng thật nhiều cho sự tăng trưởng của Tổ quốc hôm nay và tương lai.Phân tích Tỏ lòng – Mẫu 3Phạm Ngũ Lão là một người tài giỏi, có lòng yêu nước nồng nàn, khả năng phi thường. Ông ko chỉ biết tới là một danh tướng thời Trần nhưng còn là một thi sĩ với nhiều bài thơ về chí trai, lòng yêu nước. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là bài thơ Tỏ lòng. Văn bản trình bày những tâm tư, nỗi niềm của vị tướng tài, đồng thời tái tạo chân thực hào khí Đông A sục sôi, hào hùng của thời đại.Bằng lối viết trực tiếp, mở đầu hai câu thơ tác giả đã dựng những nét vẽ trước hết về chân dung người tráng sĩ Đông A: Hoàng sóc giang sơn kháp kỉ thuTam quân tì hổ khí thôn ngưu (Múa giáo non sông trải mấy thuBa quân khí mạnh nuốt trôi trâu)Hình ảnh của con người thân Trần hiện lên với vẻ đẹp hiên ngang, khí chất được mô tả qua hai chữ trước hết “hoành sóc” với tư thế đầy oai hùng, kiên cường như khắc họa đậm nét những con người quả cảm lẫm liệt với ngọn giáo trong tay đi khắp giang sơn để bảo vệ quê hương, tổ quốc. Nó sừng sững như một bức tượng đài đầy hiên ngang giữa ko gian rộng lớn của “ giang sơn” và dòng thời kì trôi chảy “ kháp kỉ thu”, người đấy mang vẻ đẹp của những đấng người hùng từng trải, đã được tôi rèn mỗi ngày. Vận mệnh và sự bình yên của tổ quốc đang được đặt trên đầu ngọn giáo kia, đó là trọng trách lớn lao đặt lên vai người tráng sĩ, nhưng cũng chính ngọn giáo đấy là điểm tựa vững vàng che chắn cho cả dân tộc tồn tại. Câu thơ ko có chủ ngữ mang ngụ ý của tác giả: đó ko chỉ là một hình ảnh duy nhất của một con người duy nhất, nhưng là đại diện của biết bao con người thời đại, là ko khí sục sôi của đất trời Đông A.Chưa từng có một thời đại nào trong lịch sử, hình ảnh con người trở thành hùng vĩ tới vậy, một khí thế hùng tráng, lúc nào cũng hừng hực: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”. Với cách nói ẩn dụ ước lệ liên kết với phép phóng đại đã tạo cho người đọc một ấn tượng mạnh mẽ về khí thế hùng dũng, kiên cường. Khí thế hiên ngang của quân đội ta xông pha ra trận phi thường tới mức có thể “nuốt trôi trâu”. Ẩn sau cách nói thổi phồng hóa, người đọc cảm thu được lòng tự trọng, niềm tự hào dân tộc của thi sĩ lúc đưa tầm vóc của quân dân nhà Trần sánh ngang với vũ trụ rộng lớn. Đó còn là tình yêu tổ quốc, dân tộc với khát vọng vươn lên để giữ gìn, bảo vệ độc lập, chủ quyền của dân tộc. Vẻ đẹp người tráng sĩ hiên ngang, hùng sảng là kết tinh của vẻ đẹp dân tộc, đây ko chỉ là của một vị người hùng cụ thể nào nhưng là vẻ đẹp muôn thuở của cả một dân tộc người hùng.Hai câu cuối, thi sĩ bộc lộ, trình bày quan niệm về chí làm trai của mình trong thời buổi lúc bấy giờ “Nam nhi vị liễu công danh tráiTu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu” (Công danh nam tử còn vương nợLuống thẹn tai nghe thuyết vũ hầu)Với người quân tử trong xã hội phong kiến, đã sống trên đời phải được ghi công với núi sông, chí làm trai phải là phẩm chất ko thể thiếu. Đó là tuyên ngôn chung, xu thế chung, quan niệm chung của tất cả các bậc nam nhi có chí thời bấy giờ kể cả Nguyễn Công Trứ hay Phạm Ngũ Lão. và với Phạm Ngũ Lão, công danh vẫn là một thứ nhưng ông còn vương nợ vì thế nhưng lúc nghe chuyện Vũ Hầu ông cảm thấy hổ thẹn với lòng.Tuy có những cái thẹn khiến người ta trở thành nhỏ nhỏ, có những cái thẹn khiến người ta khinh thường nhưng cũng có nhwungx cái thẹn cho người ta thấy được tầm vóc cao lớn với ý chí quyết tâm mạnh mẽ và cái thẹn của danh tướng thời Trần là cái thẹn đó. Ông so sánh mình với Vũ Hầu để biết bản thân cần phải học hỏi, cần phải nỗ lực hơn, đó là một ý thức cầu tiến của thi sĩ đối với người tài giỏi. Tuy xuất thân từ một người nông dân những tác giả trình bày được sức mạnh ý chí và trí tuệ của mình làm cho người khác ko thể nhìn vào hoàn cảnh xuất thân nhưng chê trách ông điều gì.Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, chỉ với một số lượng ngôn từ ít ỏi, song lại đạt được tới sự súc tích cao độ lúc đã dựng lên được những bức chân dung con người và hào khí Đông A với vẻ đẹp hào sảng, khí thế, hùng dũng.Bài thơ tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão xứng đáng là khúc tráng ca hào hùng ngợi ca vẻ đẹp con người và thời đại, bài ca sẽ sống mãi theo năm tháng và luôn in hằn trong tâm trí độc giả.(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Phân tích Tỏ lòng – Mẫu 4Phạm Ngũ Lão là một trong những danh tướng nước ta thời nhà Trần. Ông ko viết thơ nhiều nhưng tác phẩm của ông đều để lại những dấu ấn riêng. Bài thơ “Thuật hoài” hay còn gọi là “tỏ lòng” là một tác phẩm nổi tiếng của Phạm Ngũ Lão trình bày tình yêu nước nồng nàn cùng niệm tự hào và khát vọng hiến dâng lúc tổ quốc bị xâm lược. “Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thuTam quân tì hổ khí thôn ngưuNam nhi vị liễu công danh tráiTu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”Bài thơ tỏ lòng được sáng tác bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đường luật, tuy ngắn gọn với bốn câu thơ nhưng lại mang nhiều hàm ý thâm thúy. Mở đầu bài thơ, Phạm Ngũ Lão đã tái tạo hình ảnh quân đội nhà Trần mạnh mẽ, uy phong thời đấy trên tuyến đường đánh đuổi giặc ngoại xâm: “Hoàng sóc giang sơn kháp kỉ thuTam quân tì hổ khí thôn ngưu” (Múa giáo non sông trải mấy thu Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu) Hình ảnh người tráng sĩ thời Trần hiện lên trong câu thơ thật uy phong, lẫm liệt qua hình ảnh cây “giáo”. Tư thế của người tráng sĩ hiên ngang đấy được đặt trong ko gian rộng lớn của “giang sơn” và thời kì dài “kháp kỉ thu”. Câu thơ trình bày sức khỏe mạnh khoắn, tư thế hiên ngang sẵn sàng đấu tranh của người tráng sĩ xưa. Người tráng sĩ đấy đứng giữa non sông tổ quốc hùng vĩ, luôn vững vàng bảo vệ tổ quốc đã mấy thu rồi. Hình ảnh con người hiện lên thật xinh xắn, uy phong như vẽ lên một bức tượng đài vô tận về tráng sĩ oai hùng thời Trần.Không chỉ hình ảnh một tráng sĩ hiện lên oai hùng, nhưng cả “tam quân” thời Trần được khắc họa thật mạnh mẽ phi thường. Hình ảnh ẩn dụ, phóng đại “hổ khí thôn ngưu” là một hình ảnh đẹp, mang tầm vóc lớn. “Hổ khí thôn ngưu” mang ý nghĩa như hổ báo “nuốt trôi trâu” có ý nghĩa lớn trong việc tái tạo khí thế hào hùng của đội quân nhà Trần. Hiện lên trong tâm trí người đọc là ba đội quân hùng hậu, đông đảo với sức mạnh to lớn đang ra quân ào ào và khát vọng đấu tranh hết mình cho giang sơn tổ quốc.Khí thế hào hùng này là khí thế của một thời hào khí Đông A , gợi cho ta nhớ tới những câu oai hùng trong bài Hịch tướng sĩ thời Trần “Ta thường tới bữa quên ăn , nửa đêm vỗ gối , ruột đau như cắt , nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng”.Với hào khí của một thời đấu tranh oai hùng, bảo vệ từng mảnh đất cho giang sơn tổ quốc, Phạm Ngũ Lão tiếp tục nói lên những suy nghĩ của bản thân về trí làm trai thời đấy: “Nam nhi vị liễu công danh tráiTu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu” (Công danh nam tử còn vương nợLuống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu)Phạm Ngũ Lão đã nhắc tới món nợ công danh “công danh trái”. Đối với những người nam nhi sống trong thời đại xưa, tuyến đường công danh vô cùng quan trọng. “Nợ công danh” ở đây ko phải là công danh tầm thường, ích kỷ cho riêng bản thân mình. Nhưng mà nó chính là món nợ lớn với tổ quốc, là ý trí và tài năng của một người nam tử hán nam nhi, đầu đội trời chân đạp đất, dám hi sinh vì nghĩa lớn, vì sự nghiệp chung của toàn dân tộc.Qua câu thơ, Phạm Ngũ Lão đã trình bày nỗi lòng, khát khao của bản thân muốn hiến dâng nhiều hơn nữa cho giang sơn, tổ quốc để trả món nợ công danh của trí làm trai. Nhà thơ Nguyễn Công Trứ cũng từng có nhiều vần thơ hay lúc nói về “phận sự làm trai”: “Vũ trụ chức vụ nộiĐấng trượng phu một túi kinh luân.Thượng vị đức, hạ vị dân,Sắp hai chữ “quân, thân” nhưng gánh vác”Phạm Ngũ Lão đã là một danh tướng, có công lớn với tổ quốc với thời nhà Trần. Vậy nhưng ông vẫn luôn cảm thấy hổ thẹn lúc nghe “thuyết Vũ Hầu”. Ông đã khôn khéo lúc nhắc tới một người ngoài trí đa mưu là Gia Cát Lượng trong thời Tam Quốc để trình bày nỗi thẹn của mình.Ông thẹn bởi chưa đủ tài cao, mưu trí như Gia Cát Lượng. Nhưng cái “thẹn” đấy lại càng làm toát lên tư cách cao đẹp trong con người Phạm Ngũ Lão. Câu thơ trình bày một khát khao cháy bỏng của bị tướng có tài, muốn hiến dâng hết mình trong sự nghiệp chung của tổ quốc. Đó là trí khí người hùng của một vị tướng vừa có tâm, vừa có tầm đáng kính trọng.Chỉ với bốn câu thơ ngắn gọn, lời thơ sắt đá, hào hùng, hình ảnh thơ lạ mắt, nhịp thơ lúc nhanh mạnh dứt khoát, lúc lại chậm rãi như những dòng suy tư. Bài thơ đã gợi lên một thời hào hùng của cả dân tộc thời đại nhà Trần cùng ý chí sục sôi đấu tranh của người tráng sĩ và mong muốn hiến dâng hết mình cho tổ quốc của danh tướng Phạm Ngũ Lão.Bài thơ cùng thời đại này có cách xa chúng ta hàng bao nhiêu thế kỷ nhưng vẫn để lại những âm vang lớn trong trái tim triệu triệu người đọc.Phân tích Tỏ lòng – Mẫu 5Phạm Ngũ Lão (1255-1320), quê ở làng Phù Ủng, huyện Đường Hào nay là huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Là người có đóng góp to lớn trong cả hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông xâm lược, là phụ tá đắc lực dưới trướng của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, được Trần Quốc Tuấn yêu quý và gả con gái nuôi cho. Tuy là người theo nghiệp nhà binh thế nhưng Phạm Ngũ Lão cũng lại là người rất mê thơ văn, ca từ thơ phú, có nhiều am tường thâm thúy về lĩnh vực này, chính vì thế ông thường được người đời ca tụng là vị tướng văn võ toàn tài. Phạm Ngũ Lão có nhiều tác phẩm hay, tuy nhiên do sự chuyển đổi của lịch sử nhưng bị thất lạc gần hết, nay chỉ còn lại Tỏ lòng (Thuật Hoài) và Viếng Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại Vương. Trong đó Tỏ lòng là bài thơ khá nổi tiếng, nằm trong quy phạm chung nhất “Văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí”, trình bày được khí phách nam nhi trong đất trời, đặc thù là trước viễn cảnh tổ quốc lâm nguy, để lại bài học thâm thúy cho các thế hệ muôn thuở sau.Tỏ lòng được viết vào khoảng năm 1284, ngay trước lúc cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên lần thứ hai diễn ra, trong bối cảnh Phạm Ngũ Lão và một số vị tướng tài khác được triều đình cử đi canh phòng biên giới phía Bắc, ngừa sự tấn công bất thần của quân địch.(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Bài thơ chỉ vỏn vẹn 4 câu thơ 7 chữ, trong đó ở hai câu thơ trước hết tác giả đã tái tạo lại một cách ngắn gọn và đầy đủ hình ảnh và hào khí của con người cũng như quân đội thời Trần với những thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ rực rỡ. “Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thuTam quân tì hổ khí thôn ngưu”Dịch nghĩa: “Cầm ngang ngọn giáo giữ gìn non sông đã mấy thuBa quân như hổ báo, khí thế kiêu hùng nuốt trôi trâu”Thứ nhất nói về hình ảnh con người thời Trần, tác giả đã gợi mở ra một bối cảnh ko gian và thời kì rộng lớn, đồng thời dưới triều Trần, một triều đại có nhiều biến động, liên tục phải đương đầu những đội quân hùng mạnh nhất toàn cầu thời bấy giờ, càng làm cho vẻ đẹp của con người thêm rực rỡ và rõ nét hơn cả. Phạm Ngũ Lão lấy hai chữ “giang sơn” để mở ra ko gian địa lý của tổ quốc, đây là một từ ghép rất hay, “giang” tức chỉ sông cũng tượng trưng cho đất, “sơn” tức chỉ núi cũng tượng trưng cho trời, tương tự ghép lại có tức là núi sông. Có thể nói rằng hai từ này hoàn toàn bao quát được viễn cảnh tổ quốc ta, một tổ quốc nhiều sông, cũng lắm núi non, tạo nên một quang cảnh rộng lớn, rộng lớn và tươi đẹp bởi sự dung hòa giữa hai yếu tố trời đất. Kế bên yếu tố ko gian, thì yếu tố thời kì cũng được tác giả vạch ra thông qua ba từ “kháp kỷ thu”, tức là đã mấy thu, trình bày một quãng thời kì dài, rộng, ẩn dụ về bề dày lịch sử của dân tộc, của tổ quốc. Trên cái nền ko gian và thời kì rộng lớn, dài rộng như thế hình tượng con người Đại Việt đã hiện lên một cách nổi trội và hiên ngang với khí thế mạnh mẽ trong hai từ “hoành sóc”, “hoành” trong vẫy vùng còn sóc tức là ngọn giáo dài, vốn là loại vũ khí kinh điển trong các trận đánh của quân đội. Tổng ý cả câu thì Phạm Ngũ Lão muốn gợi ra hình ảnh người dân Đại Việt đã cầm ngang ngọn giáo canh phòng non sông trải qua mấy mùa thu, đã trở thành truyền thống, là hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng cho vẻ đẹp của con người thời Trần. Hình tượng con người cầm ngang ngọn giáo, cho ta thấy được những phẩm chất quý giá, sự kiên cường, dai sức, quả cảm trong đấu tranh. Tầm vóc của nhân dân cũng trở thành lớn lao, sánh ngang với trời đất, trong khí thế mạnh mẽ, sẵn sàng vẫy vùng ngang dọc, diệt quân thù bằng ngọn giáo cầm chắc trong tay.Đặc trưng trong bối cảnh tổ quốc đứng trước sự xâm phạm của giặc thù, Phạm Ngũ Lão lại được điều đi nhận mệnh trấn thủ biên thuỳ, thì hình tượng người người hùng cầm ngang ngọn giáo canh phòng cho tổ quốc lại càng trở thành oai hùng và hợp với mạch xúc cảm trong thơ. Trong bản dịch của Bùi Văn Nguyên câu “Múa giáo non sông trải mấy thu”, đọc rất thuận mồm, thế nhưng đáng tiếc từ “múa giáo” lại chỉ mang lại cái “mỹ” nhưng ko hoàn toàn lột tả được tính kiêu hùng trong hai từ “hoành sóc”, thành thử làm cho câu thơ mất đi cái ấn tượng về tầm vóc kỳ vĩ, bao trọn cả non sông của con người.Sánh với hình tượng con người, thì hình tượng quân đội thời Trần cũng hiện lên với những hình ảnh ẩn dụ, so sánh đẹp và đầy hào khí trong câu thừa đề. Phạm Ngũ Lão dùng từ “Tam quân” tức là chỉ ba đạo quân chính thống trong tổ chức quân sự của ta, bao gồm tiền quân, trung quân và hậu quân, hoặc nếu chia theo 3 cánh quân thì có tả quân, trung quân và hữu quân. Hình ảnh tập trung này nhằm mục tiêu gợi ra sự kết đoàn một lòng của quân đội ta trong đấu tranh, đồng thời cũng chỉ sự hùng mạnh, khí thế đấu tranh sôi nổi và sự sẵn sàng sẵn sàng cho công cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc ta. Cả câu “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu” nhằm nhấn mạnh, sự uy vũ, hùng mạnh của quân đội thời Trần, trong đó ta có thể diễn giải theo hai ý. Một là ba quân có sức mạnh tựa như hổ, báo mạnh mẽ nuốt trôi con trâu lớn, hai là sức mạnh của quân đội thời Trần mang tầm vóc kỳ vĩ lấn lướt cả ngôi sao Ngưu trên trời cao – Ngôi sao sáng nhất trong chòm sao Thiên Ưng. Với cách hiểu thứ hai, ta có thể nhận thấy một niềm cảm hứng lãng mạn hiếm thấy trong thi ca trung đại tới từ một võ tướng, ko chỉ mang lại sự uyển chuyển trong thi ca, nhưng còn góp phần nâng đỡ vẻ đẹp hào khí của quân đội nhà Trần với cái tên gọi kinh điển “hào khí Đông A”.Sau hai câu đề dùng nói về hào khí và vẻ đẹp chung của cả dân tộc thì tới hai câu chuyển và hợp tác giả chuyển sang bộc bạch nỗi lòng, tâm tư ước vọng của mình, đồng thời đây cũng chính là nội dung nhưng tác giả muốn mở ra trong bài, tập trung khai thác về chí nam nhi, về món nợ núi sông nhưng bản thân đang còn mang nặng, trình bày những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn của Phạm Ngũ Lão. “Nam nhi vị liễu công danh tráiTu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”Dịch nghĩa: Thân nam nhi nhưng chưa trả xong nợ công danhThì luống thẹn thùng lúc nghe người đời kể chuyện Vũ hầu”Như vậy với hai câu thơ này ta có thể nhận rõ ý kiến “nhập thế tích cực” của Phạm Ngũ Lão, rằng phận nam nhi sinh ra đã mang trên mình món nợ công danh, và phải luôn nỗ lực nỗ lực hết sức dùng tài trí của mình để đóng góp, xây dựng tổ quốc, trả cho kỳ được món nợ công danh. Trong đó một trong những biểu thị rõ nhất của quan niệm này đó là việc ứng thí khoa cử của hàng vạn sĩ tử mỗi năm, trong đó tiêu biểu chúng ta vẫn thường nghe nhắc tới Trần Tế Xương với 8 lần theo đuổi khoa cử, thất bại nhưng ko hề nản lòng. Phạm Ngũ Lão chính là một trong số những người chịu tác động thâm thúy của quan niệm nhập thế tích cực, mặc dù ông ko ra kinh ứng thí, thế nhưng ông đã chọn một cách trả nợ công danh khác đó là theo đuổi tuyến đường tòng quân, góp sức đánh đuổi giặc ngoại xâm, làm nên công trạng cho xứng với thân nam nhi. Có thể nói rằng ý kiến “nợ công danh” đã mang lại cho con người dưới các triều đại phong kiến trong lịch sử một mục tiêu sống, lý tưởng sống cao đẹp và đáng quý, tạo nên trong con người tư thái và khả năng biết phấn đấu làm nên công danh sự nghiệp và quan trọng nhất là góp phần xây dựng, tăng trưởng tổ quốc ngày một vững mạnh trở thành rường cột của quốc gia.Thế nhưng vẻ đẹp tâm hồn của Phạm Ngũ Lão ko chỉ ngừng lại ở chí làm trai hay món nợ công danh thông thường, nhưng nó còn được tăng trưởng lên một tầm cao mới thông qua nỗi thẹn của ông lúc nghe chuyện Vũ hầu. Phạm Ngũ Lão, nếu xét thấy thì cũng là người có công danh đề huề, coi như đã trả được món nợ công danh, thế nhưng lúc đứng trước chuyện của Vũ hầu – Gia Cát Lượng, thì lại lấy làm xấu hổ bởi bản thân mình ko thể đạt tới trình độ như tiền nhân, người đã một giúp Lưu Bị tranh đoạt giang sơn trong bối cảnh tam quốc. Tác giả tự thấy rằng chút công danh cỏn con của mình cũng không thể sánh vào đâu so với cổ nhân, tự lấy thế làm thẹn, đồng thời cũng tự dặn lòng phải phấn đấu nhiều hơn nữa để trả cho đủ món nợ của nam nhi. Từ đó có thể thấy vẻ đẹp tâm hồn của Phạm Ngũ Lão hiện lên với hai nét chính đấy là ý chí, nỗ lực, mong muốn được đóng góp công sức xây dựng giang sơn, lập công danh sự nghiệp hiển hách và lý tưởng, khát khao trở thành một nhân vật lịch sự lỗi lạc tựa Gia Cát, lưu danh sử sách muôn thuở.Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão là một bài thơ tuy ngắn gọn nhưng lại mang nhiều ý nghĩa thâm thúy, trước hết là ca tụng vẻ đẹp của con người và quân đội thời Trần, sau đó là khai mở ra bài học về món nợ công danh cho nam nhi khắp người đời, đồng thời cũng trình bày khát khao, lý tưởng và tư cách cao đẹp của một nhà nho, nhà quân sự trên bước đường công danh, sao cho xứng với Tổ quốc dân tộc.Phân tích Tỏ lòng – Mẫu 6(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Phạm Ngũ Lão được biết tới là võ tướng có nhiều công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Không những thế ông còn rất ham đọc sách, làm thơ và được xem là người văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông hiện chỉ còn hai bài thơ là “Tỏ lòng” (Thuật hoài) và “Viếng thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương”. Đặc trưng, “Tỏ lòng” đã trình bày vẻ đẹp của hình tượng người người hùng hiên ngang với lí tưởng và tư cách lớn lao, đồng thời phản ánh hào khí của thời đại Đông A với sức mạnh và khí thế hào hùng.Bài thơ “Tỏ lòng” (Thuật hoài) được làm bằng chữ Hán, sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Hai câu thơ đầu của bài thơ đã ca tụng vẻ đẹp hào hùng của con người, quân đội thời Trần qua việc khắc họa hình tượng người người hùng hiên ngang lẫm liệt: Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thuTam quân tì hổ khí thôn ngưu (Múa giáo non sông trải mấy thuBa quân khí mạnh nuốt trôi trâu)Với giọng điệu khỏe khoắn, bức phác họa người tráng sĩ hiện lên với tư thế hiên ngang, kiên cường trong bối cảnh ko gian rộng lớn rộng lớn. Đó là tư thế “hoành sóc” – cầm ngang ngọn giáo để trấn thủ biên thuỳ, sẵn sàng đấu tranh bảo vệ lãnh thổ. Người tráng sĩ đấy được đặt trong bối cảnh “giang sơn” rộng lớn, thời kì “kháp kỉ thu” muôn thuở. Không gian rộng lớn mang tầm vũ trụ đấy cùng thời kì trải dài như bất tử hóa, thiêng liêng hóa từ thế hào hùng lẫm liệt của người người hùng. Bản dịch thơ dù đã tạo âm hưởng uyển chuyển song chữ “múa giáo” ko khắc họa đầy đủ tư thế vững chãi, hiên ngang của tướng sĩ. Câu thơ trước hết đã tái tạo vẻ đẹp người tráng sĩ trong tư thế sẵn sàng, uy phong trong ko gian rộng lớn, sẵn sàng lập nên những chiến công oanh liệt cho Tổ quốc. Không chỉ ngừng lại ở vẻ đẹp của người chủ tướng, hình ảnh quân đội nhà Trần cũng được diễn tả khôn khéo trong câu thơ thứ hai – “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”.Ba quân được ví như “tì hổ” (hổ báo) và “khí thôn Ngưu” (khí thế át cả sao Ngưu). Bản dịch thơ dịch “khí thôn ngưu” là “nuốt trôi trâu” ko hề sai, ca tụng sức mạnh vô địch, khỏe khoắn của ba quân, tuy nhiên cách dịch “ba quân khí thế hào hùng át cả sao Ngưu trên trời” lại phóng đại, làm tăng hào khí của quân đội nhà Trần, giọng thơ như thế cất lên vừa hào sảng nhưng cũng rất giàu yếu tố thẩm mỹ. Câu thơ có sự liên kết giữa những hình ảnh khách quan và những cảm nhận chủ quan của Phạm Ngũ Lão, góp phần mô tả vẻ đẹp và hào khí hùng dũng của quân đội nhà Trần. Liên kết cả hai câu thơ đầu, người đọc cảm thu được vẻ đẹp kiêu hùng của người tráng sĩ cũng tầm vóc mạnh mẽ của quân đội thời đại Đông A, qua đó gián tiếp thấy được niềm tự hào của tác giả.Là một thành viên ưu tú của quân đội hào hùng đấy, Phạm Ngũ Lão ý thức rất rõ về trách nhiệm của bản thân, bởi vậy ông đã bộc bạch nỗi lòng mình: “Nam nhi vị liễu công danh tráiTu thính nhân gian thuyết Vũ hầu (Công danh nam tử còn vương nợLuống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu).Xưa nay viết về chí làm trai, người đọc đã bắt gặp những vần thơ rất đỗi thân thuộc của Nguyễn Công Trứ: Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông. Cũng đồng điệu tâm hồn với bao kẻ sĩ đương thời, Phạm Ngũ Lão vô cùng đề cao lí tưởng trung quân, ái quốc. Bởi vậy, ông cho rằng đã là nam nhi thì phải trả nợ công danh, nhưng nợ công danh ở đây chính là làm điều có công với tổ quốc: “Nam nhi vị liễu công danh trái”. Lí tưởng công danh đấy trình bày cái nhìn tiến bộ và tư cách cao đẹp của một vị tướng hết lòng muốn giúp nước, giúp đời. Nghĩ thấy bản thân chưa trả trọn nợ công danh, tác giả trằn trọc, băn khoăn: “Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”. Vũ Hầu chính là Khổng Minh Gia Cát Lượng, một người tài đức vẹn toàn đời Hán, có công lớn giúp Lưu Bị khôi phục vương triều.Ông cảm thấy “thẹn” lúc đối sánh mình với ông cha, tự thấy bản thân chưa thể sánh được với họ. Khát vọng mong muốn lập nhiều công danh hơn nữa được diễn tả hết sức khiêm nhượng lúc đặt bản thân mình kế bên mưu thần Gia Cát Lượng. Âm hưởng câu thơ trầm lắng trình bày khát vọng lập công và chí làm trai hết sức tiến bộ của Phạm Ngũ Lão.Với hệ thống ngôn từ súc tích, cô đọng cùng những hình ảnh giàu sức biểu cảm, “Tỏ lòng” đã khắc họa vẻ đẹp của con người thời nhà Trần có sức mạnh, lí tưởng, tư cách cao cả, đồng thời phản ánh khí thế hào hùng của thời đại. Âm hưởng mạnh mẽ đấy để lại dư ba trong lòng người đọc, nhắc nhở thế hệ trẻ chúng ta sống ko bao giờ quên đề ra lí tưởng sống cao cả để sống đẹp, sống có ích hơn.Phân tích bài thơ Tỏ lòng – Mẫu 7Đất nước của chúng ta trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử với các trận đánh tranh chống xâm lược và bảo vệ tổ quốc ko ít những vị tướng, ông vua đã dùng văn học để nói lên những tâm tư tình cảm của mình trước thời cuộc. Tiêu biểu trong số đấy phải kể tới thi sĩ vị tướng Phạm Ngũ Lão với bài thơ thuật hoài, có thể nói bài thơ ko chỉ làm xúc cảm nỗi lòng của thi sĩ với hào khí Đông A nhưng còn nổi trội lên cảm hứng yêu nước người hùng quật cường.Trước tiên ta nên tìm hiểu về hào khí Đông A là gì?. Hào khí Đông A là Hào khí Đông A là hào khí đời Trần (chữ Đông và chữ A trong tiếng Hán ghép lại thành chữ Trần). Cụm thuật ngữ này từ lâu đã được dùng để chỉ cái ko khí oai hùng, hào sảng của thời Trần (thời kì nhưng chúng ta có những chiến công lừng lẫy lúc cả ba lần đều đánh tan sự xâm lược của giặc Nguyên- Mông). Hào khí Đông A là chỉ cái khí thế hừng hực của thú vui thắng lợi, chỉ cái khát khao mang tính thời đại nhưng ở đó người nào người nào cũng muốn góp sức dựng xây hay dang tay bảo vệ cho sự vững chắc mãi mãi của non sông tổ quốc mình.Hào khí Đông A từ xã hội đi vào thơ văn trở thành sự kết tinh cho những biểu thị cao đẹp của lòng yêu nước. Có ko ít tác phẩm nổi tiếng mang hơi thở của Hào khí Đông A : Tụng giá hoàn kinh sư (Phò giá về kinh) của Trần Quang; hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn thì thuật hoài của Phạm Ngũ Lão cũng trình bày rất rõ hào khí này. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt chỉ có bốn câu thơ thôi nhưng nói lên được cả một chí lớn yêu nước người hùng quật cường.Câu thơ mở đầu trình bày rõ một tư thế hiên ngang dũng mạnh và ko sợ bất kỳ một khó khăn nào: “Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”(Múa giáo non sông trải mấy thu)Câu thơ như gợi tả hết cái hào khí Đông A của thời bấy giờ, hình ảnh cầm ngang ngọn giáo trình bày rõ vẻ đẹp hiên ngang của con người thân Trần. Nếu như so sánh thì ta thấy hai chữ “ Múa giáo” như trong bản dịch ko lột tả hết những vẻ của hai chữ “ hành sóc”. Múa giáo trình bày mờ nhạt và có phần yếu ớt hơn so với hành sóc. Nghĩa thật sự của hai chữ hành sóc đó là cầm ngang ngọn giáo trên tay. Ngọn giáo đấy ko chỉ là vũ khí đấu tranh của những người người hùng như Phạm Ngũ Lão nhưng nó còn là thứ để họ trình bày tài năng, khả năng cũng như ý chí hiên ngang quật cường của bản thân mình. Với ngọn giáo đấy và tư thế đấy họ đã mang tới những chiến công lừng lẫy trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ giang sơn của ông cha. Thêm nữa là cụm từ “ kháp kỉ thu” gợi tả một thời kì của lịch sử. có thể nói tầm vóc của chiếc giáo kia được đo bằng ko gian rộng lớn của giang sơn và thời kì của chiều dài lịch sử. Nó giống như một chiếc gậy chấn quốc của những tướng quân tài tình vậy. đặc thù là những người có ý chí quật cường hiên ngang trước những sóng gió và ko thôi yêu nước như Phạm Ngũ Lão.Nếu như câu thơ thứ nhất lột tả được vẻ đẹp của những vị tướng quân thời Trần thì sang câu thứ hai tác giả tiếp tục mô tả sức mạnh cũng như vẻ đẹp của quân đội: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)Đội quân đấy mang sức mạnh về cả sức quân cũng như ý thức, sức mạnh đấy có thể nuốt trôi tất cả những gì cản bước tiến của họ. Chính thắng lợi quân Nguyên Mông đã chứng minh cho sức mạnh đấy , một quân đội đông đảo như chúng nhưng cũng bị bại trước khí thế oai hùng hiên ngang của ta. Đội quân Sát Thát ra đi với khí thế như hổ báo át đi, mờ đi cả sao Ngưu trên trời. cuộc hành trình cứu nước gian nan khó khăn và đầy những nguy hiểm nhưng ko thể nào làm vơi đi sức mạnh ý chí trong lòng quân ta được. câu thơ là phép so sánh lạ mắt của Phạm Ngũ Lão, qua đó hào khí Đông A được trình bày một cách rõ ràng nhất. đồng thời qua đó trình bày được chủ nghĩa yêu nước người hùng.Tiếp tới câu thơ thứ ba tác giả trình bày tâm tư tình cảm của mình qua Nam nhi vị liễu công danh trái“Công danh nam tử còn vương nợ”Tác giả nêu lên trách nhiệm nghĩa vụ của một bậc nam nhi sống ở trên đời. Nếu như Nguyễn Công Trứ trình bày chí làm trai của mình qua những câu thơ: “Chí làm trai nam bắc đông tâyCho thỏa sức vẫy vùng trong bốn bể”Thì Phạm Ngũ Lão lại trình bày quan niệm cũng như chí làm trai – một bậc trượng phu thật sự thì phải có công danh trong người đời. nếu như ko có công danh thì ko đáng là một vị người hùng, một đấng nam nhi sống ở trên đời. Nguyễn Công Trứ làm trai vẫy vùng trong bốn bể khắp giang sơn đâu cũng đặt chân tới và ko có sóng gió nào có thể cản được bước chân của ông thì Phạm Ngũ Lão có chí làm trai là phải có công danh với tổ quốc. Đã sinh ra trên đời thì phải có công với tổ quốc của mình. Điều đó phải chăng chính là chủ nghĩa người hùng yêu nước trong thi sĩ?Tới câu thơ cuối cùng tác giả trình bày sự khiêm tốn của mình, cho rằng những việc mình làm cho tổ quốc chưa có gì cả nên luống thẹn : “ Luống thẹn tai nghe thuyết Vũ Hầu”(Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu)Phạm Ngũ Lão “thẹn” chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu Gia Cát Lượng đời Hán để trừ giặc, cứu nước. Thẹn bởi vì so với ông cha mình chưa có gì đáng nói. Gia Cát Lượng là quân sư của Lưu Bị, mưu trí tuyệt vời, song điểm làm cho Gia Cát Lượng nổi tiếng rằng lòng tuyệt đối trung thành với chủ. Vì thế “luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu” thực chất là một lời thề suốt đời tận tụy với chủ tướng Trần Hưng Đạo, “thẹn” còn được hiểu là cách nói trình bày khát vọng, hoài bão muốn sánh với Vũ hầu. Xưa nay, những người có tư cách vẫn thường mang trong mình nỗi thẹn. có thể thấy trong thi sĩ có một tư tưởng người hùng yêu nước lớn nhưng lại còn có cả sự trung quân nữa. Bấy nhiêu điều nhưng ông làm được lúc đi đánh giặc, ông đều cho là chưa làm được gì với núi sông của mình.(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Bài thơ chỉ có bốn câu thơ thôi nhưng đã lột tả hết được những tâm tư tình cảm của thi sĩ Phạm Ngũ Lão hay cũng chính là nổi trội lên chủ nghĩa người hùng yêu nước của ông nói riêng của quân dân nhà Trần nói chung. Tác giả quan niệm thật đúng với thời cuộc lúc bấy giờ là đã làm trai sống ở trên đời thì phải có công danh với tổ quốc của mình. Bài thơ như một lời tuyên ngôn khẳng định ý chí quyết tâm của thi sĩ với vận mệnh của tổ quốc. Qua đây ta càng thêm yêu quý hơn những người hùng như Phạm Ngũ Lão, một người có ý chí sắt đá trung kiên quật cường và nghĩ cho tổ quốc trước hết.Phân tích bài thơ Tỏ lòng – Mẫu 8Đã từng một thời, văn học Việt Nam được biết tới như những con thuyền chở đầy ý chí và khát vọng cao đẹp của người đương thời, đó là những áng thi ca trung đại đầy hào sảng, hùng tráng. Bởi vậy chăng nhưng cứ mỗi lần từng tiếng thơ “ Thuật hoài” ( Tỏ lòng – Phạm Ngũ Lão) vang lên, hiện lên trước mắt ta luôn là hình ảnh người tráng sĩ thời đại Lý – Trần với hùng tâm tráng chí sôi nổi, như những bức tượng đài đẹp nhất đại diện cho cả một thời đại đầy rực rỡ của phong kiến Việt Nam: thời đại Đông A.Là một vị tướng tài giỏi từng gắn bó thâm thúy với triều đại nhà Trần, Phạm Ngũ Lão hiểu rõ hơn người nào hết tấm lòng thiết tha với non sông và khát khao giữ vững độc lập chủ quyền nước nhà của tướng quân và nhân dân. Trong hoàn cảnh cả dân tộc đang dồn sức thực hiện kháng chiến chống Mông – Nguyên lần hai, cần có một liều thuốc ý thức tiếp thêm sức mạnh để quân dân từng ngày nỗ lực hơn nữa trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc; “ Thuật hoài ” ra đời cũng vì lẽ đó. Đặt trong một hoàn cảnh đặc thù, được viết dưới ngòi bút của con người có tầm vóc lớn lao, bài thơ dù chỉ là một trong hai tác phẩm của Phạm Ngũ Lão còn lưu lại, song cũng đủ để ghi danh tác giả cho tới tận muôn thuở.Hai câu thơ đầu là những nét phác họa trước hết về chân dung người tráng sĩ Đông A: Hoàng sóc giang sơn kháp kỉ thuTam quân tì hổ khí thôn ngưu (Múa giáo non sông trải mấy thuBa quân khí mạnh nuốt trôi trâu)Bằng lối vào đề trực tiếp, trong câu thơ trước hết, tác giả đã dựng lên hình ảnh người tráng sĩ thời Trần mang vẻ đẹp của con người thời đại: cầm ngang ngọn giáo trấn thủ non sông. Chỉ qua một hành động “hoành sóc”, người tráng sĩ hiện lên với tư thế đầy oai hùng và kiên cường, thẳng thắn, vững vàng. Sừng sững như một bức tượng đài đầy hiên ngang giữa ko gian rộng lớn của “giang sơn” và dòng thời kì dài trôi chảy “kháp kỉ thu”, người đấy mang vẻ đẹp của những đấng người hùng từng trải, với kinh nghiệm già dặn đã được tôi rèn mỗi ngày. Vận mệnh và sự bình yên của tổ quốc đang được đặt trên đầu ngọn giáo kia, đó là trọng trách lớn lao đặt lên vai người tráng sĩ, nhưng cũng chính ngọn giáo đấy là điểm tựa vững vàng che chắn cho cả dân tộc tồn tại. Câu thơ tỉnh lược chủ ngữ ngắn gọn mang ngụ ý của tác giả: đó ko chỉ là một hình ảnh duy nhất của một con người duy nhất, nhưng là tầm vóc hào sảng của biết bao con người thời đại, là ko khí sục sôi của đất trời Đông A.Chưa một thời đại nào trong lịch sử dân tộc, tầm vóc của con người lại trở thành lớn lao tới vậy, với khí thế hùng tráng: “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”. Cách nói ẩn dụ ước lệ thân thuộc trong thi pháp thơ ca trung đại với phép phóng đại “tam quân tì hổ” cho người đọc ấn tượng mạnh mẽ về đội quân “sát thát” của nhà Trần, với khí thế hùng dũng, kiên cường. Cụm từ “khí thôn ngưu” có thể hiểu là khí thế của đội quân ra trận với sức mạnh phi thường tới mức có thể “nuốt trôi trâu”, cũng có thể hiểu khí thế đấy sục sôi tới độ át cả sao ngưu, sao mai. Trong cách nói thổi phồng, ta thấy được tình cảm tự hào của thi sĩ lúc đã nâng tầm vóc của quân dân nhà Trần có thể sánh ngang với tự nhiên, vũ trụ rộng lớn. Đó là niềm tự hào của một con người được sinh ra trong một tổ quốc, một thời đại hùng mạnh, đầy phấn khởi, tự tin, luôn khát khao vươn lên, giữ vững chủ quyền cho nước nhà. Từ hình ảnh người tráng sĩ hiên ngang tới tầm vóc lớn lao của ba quân thời đại, rõ ràng, vẻ đẹp người tráng sĩ đấy là kết tinh của vẻ đẹp dân tộc, và vẻ đẹp dân tộc càng tôn vinh thêm vẻ đẹp hùng sảng của những tráng sĩ thời Trần. Hai câu thơ trước hết vang lên, Phạm Ngũ Lão ko chỉ cho ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một vị người hùng thời đại, nhưng là vẻ đẹp muôn thuở của một dân tộc người hùng.Từ tư thế hiên ngang hùng dũng, thi sĩ giúp người đọc đi sâu hơn để khám phá tâm thế vững vàng với hùng tâm tráng chí bên trong những tráng sĩ: Nam nhi vị liễu công danh tráiTu thính nhân gian thuyết Vũ HầuVới người quân tử trong xã hội phong kiến đương thời, chí làm trai là phẩm chất ko thể thiếu. Ta từng nhớ đã đọc những câu thơ nhắc tới món nợ công danh của các đấng nam nhi: Chí làm trai dặm nghìn da ngựaGieo Thái Sơn nhẹ tựa lông hồng(Đoàn Thị Điểm)Hay: Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo (Nguyễn Công Trứ)Đối với những người tráng sĩ “bình Nguyên” thuở đấy, trong hoàn cảnh tổ quốc đang bị lăm le xâm chiếm bởi giặc ngoại bảng, “nợ công danh” nhưng họ phải trả, đó là làm sao để bảo vệ trọn vẹn tổ quốc, để có thể đem lại yên ấm cho muôn dân. Nói khác đi, hùng tâm tráng chí trong lòng người tráng sĩ chính là niềm yêu nước thiết tha sâu nặng, là tiếng nói khát khao đánh giặc cứu lấy non sông. Điều đặc thù là trong từng câu chữ của “Tỏ lòng”, ý thức quật cường đấy ko được nêu lên một cách giáo điều, khô giòn, nhưng nó như được tỏa ra từ chính trái tim, thốt lên từ tâm can của một con người với khát vọng đang sôi cháy, rực lửa.Để rồi, nợ công danh chưa trả hết, và người đời lại “luống thẹn” lúc nghe chuyện Vũ Hầu xưa: “Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”. Câu thơ gợi lại một câu chuyện cổ về bậc anh tài Gia Cát Lượng từng giúp tạo nên thế chân vạc Tam Quốc, giúp Thục – Ngô chống Tào… Người tướng sĩ thấy hổ thẹn bởi công lao của mình vẫn chưa đáng bao nhiêu so với Tôn Tử, song đó lại là cái thẹn cao cả, là cái thẹn lớn lao, đáng trân trọng của một bậc nam nhi. Ngũ Lão từng là một trong những vị tướng tài giỏi nhất của nhà Trần, làm tới chức Điện súy thượng tướng quân, vậy còn điều gì khiến người còng hổ thẹn? Rằng, đó ko chỉ là nỗi thẹn, nhưng là niềm khát khao vươn tới những đỉnh cao, vươn tới những tầm vóc rộng lớn hơn nữa. Có những cái thẹn khiến người ta trở thành nhỏ nhỏ, có những cái thẹn làm cho người ta khinh, nhưng cũng có những cái thẹn cho người ta thấy được cả một tầm vóc lớn lao và ý chí mãnh liệt; cái thẹn của người tráng sĩ thời Trần là cái thẹn như thế. “Thuật hoài” lấy tiêu đề dựa theo một mô-típ thân thuộc trong văn học trung đại, kế bên “ Cảm hoài ” của Đặng Dung, hay “ Tự tình” của Hồ Xuân Hương,… những bài thơ bộc bạch nỗi lòng của người viết. Với “ Tỏ lòng ”, đây là lời tâm tình bộc bạch tâm tư, ý chí của Phạm Ngũ Lão, cũng là của những tráng sĩ thời Trần nhưng tâm can đều dành trọn cho dân tộc. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, chỉ với một số lượng ngôn từ ít ỏi, song lại đạt được tới sự súc tích cao độ lúc đã dựng lên được những bức chân dung con người và hào khí Đông A với vẻ đẹp hào sảng, khí thế, hùng dũng.Cùng với “ Hịch tướng sĩ ” – Trần Quốc Tuấn, “ Bạch Đằng giang phú ” – Trương Hán Siêu,… “Thuật hoài” mãi là khúc tráng ca hào hùng ngợi ca vẻ đẹp con người và thời đại, và sẽ tồn tại mãi cùng với dòng trôi chảy của thời kì…Phân tích Tỏ lòng ngắn nhất – Mẫu 9Phạm Ngũ Lão là một người tài giỏi, có lòng yêu nước nồng nàn, khả năng phi thường, ông là một tướng tài đồng thời cũng là người có tâm hồn văn học. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là bài thơ Tỏ lòng. Văn bản trình bày những tâm tư, nỗi niềm của vị tướng tài, đồng thời tái tạo chân thực hào khí Đông A sục sôi, hào hùng của thời đại. Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thuTam quân tì hổ khí thôn ngưuHai câu thơ đầu đã vẽ nên hình ảnh người tráng sĩ đời Trần với tư thế hiên ngang, hùng dũng “cầm ngang ngọn giáo”, cho thấy tư thế hiên ngang, chủ động khác với câu thơ dịch là “múa giáo” mang tính chất phô trương, trình diễn, ko trình bày được tư thế người hùng, hiên ngang của người tướng sĩ. Đồng thời ko gian nhân vật trữ tình đứng cũng vô cùng rộng lớn, rộng lớn: giang sơn. Tưởng rằng đứng trong ko gian đấy con người sẽ trở thành nhỏ nhỏ, chìm khuất trong ko gian vũ trụ rộng lớn, nhưng trái lại, con người hiện lên trong tư thế làm chủ, mang tầm vóc lớn lao ôm trọn cả non sông tổ quốc. Tư thế đấy còn cho thấy ý thức sẵn sàng đấu tranh, sẵn sàng xả thân để bảo vệ biên thuỳ, lãnh thổ trọn vẹn. Không chỉ vậy, thời kì được nhắc tới ở đây đã trải mấy thu, đó là khoảng thời kì dài, điều đấy còn khẳng định ý chí, quyết tâm dai sức của nhân vật trữ tình. Câu thơ thứ nhất vừa cho ta thấy tầm vóc hiên ngang, vừa cho thấy lòng yêu nước nồng nàn của nhân vật trữ tình.Câu thơ thứ hai tái tạo lại sức mạnh của quân đội nhà Trần. Tác giả sử dụng các hình ảnh “tam quân” “tì hổ” “khí thôn ngưu” để làm rõ vẻ đẹp sức mạnh đó. Tam quân để nói về quân đội nhà Trần bao gồm tiền quân, trung quân và hậu quân. Còn tì hổ để nói về sức mạnh to lớn như hổ báo của quân đội, giải pháp so sánh đã một lần nữa khẳng định sự dũng mạnh, nhanh nhẹn của quân đội nhà Trần. “Khí thôn ngưu” có thể hiểu theo hai cách, cách thứ nhất tức là khí thế nuốt trôi trâu, nhưng cũng có thể hiểu khí thế át sao Ngưu.Dù hiểu theo cách nào cũng đều thấy được khí thế, sức mạnh vô song của quân đội nhà Trần. Với hai câu thơ đầu, tác giả đã tái tạo sinh động, chân thực vẻ đẹp của con người thời đại nhà Trần với sức mạnh vô song. Qua đó ta còn cảm thu được hào khí oanh liệt của thời đại nhưng dân tộc bừng bừng khí thế, quyết tâm đánh giặc cứu nước.Phân tích bài thơ Tỏ lòng – Mẫu 10Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn võ toàn tài. Ông đã có công tạo điều kiện cho hưng đạo đại vương biết bao nhiêu trận thắng cùng những chiến công lừng lẫy bảo vệ tổ quốc bình yên độc lập, dẹp yên lũ cướp nước. Có thể nói ông giống như một cánh tay đắc lực cho Hưng Đạo Đại vương vậy. tuy nhiên chúng ta ko chỉ biết tới ông với tư cách là một vị danh tướng nhưng còn biết tới ông với tư cách là một thi sĩ. Nhắc tới ông là ta nhớ ngay tới bài thơ thuật hoài – một bài thơ trình bày rõ nỗi lòng của ông cũng như chủ nghĩa người hùng yêu nước, khí thế của quân dân nhà Trần.Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, một bài thơ chỉ có bốn câu thơ thì tác giả đã làm thế nào để trình bày hết ý kiến, tình yêu tổ quốc, trung quân được. thế nhưng Phạm Ngũ Lão đã rất tài năng lúc chỉ qua bốn câu thơ đấy nhưng truyền đạt tới mọi người những ý kiến tư tưởng của một con người của trời đất của vũ trụ, của một đấng nam nhi đầu đội trời chân đạp đất. đồng thời tác giả còn trình bày chủ nghĩa người hùng yêu nước của bản thân qua những quan niệm của đại đa số những danh tướng yêu nước trung thành hồi bấy giờ.Hai câu thơ đầu tác giả tập trung trình bày vẻ đẹp hiên ngang trong tranh đấu cũng như vẻ đẹp kết đoàn ý thức vượt mọi khó khăn gieo neo của những lính tráng nhà Trần: “Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thuTam quân tì hổ khí thôn ngưu”Hình ảnh con người thân Trần hiện lên hiên ngang với ngọn giáo trong tay họ có thể đi bất kỳ nơi nào có giặc, hành hiệp trượng nghĩa cứu giúp người nghèo kẻ yếu cũng như đánh đuổi quân xâm lược Mông Nguyên. Xét về vẻ đẹp hiên ngang đấy trong bản dịch chữ “hoành sóc” thành “múa giáo” ko lột tả hết được sự hiên ngang đấy. Múa giáo trình bày sự yếu ớt đồng nghĩa với việc ko lột tả được sự hùng mạnh quả cảm của quân đội, con người thân Trần. Hai chữ “hoành sóc” như khắc tạc lên những con người quả cảm lẫm liệt với ngọn giáo ngang trong tay đi khắp giang sơn để bảo vệ tổ quốc. tưởng chừng quân giặc cả toàn cầu phải xác nhận là mạnh kia chỉ là một ngọn gió nhẹ trước khí thế ngút nghìn của họ. Chúng mạnh về số lượng cũng như chất lượng, đầy đủ về vật chất nhưng chúng lại thiếu đi sự nhận định và ý chí vượt qua gieo neo nên chúng phải chuốc lấy thất bại vì đã nhận định thấp con người thân Trần. những con người đấy tuy có nhỏ nhỏ về mặt thể chất hay ko đông đảo như số lượng quân của nhà Mông nhưng ý chí của họ thì vượt qua hữu hạn về mặt thể chất và số lượng đấy. Và cứ thế với ngọn giáo ngang trong tay họ đã trải qua biết bao nhiêu mùa thu như thế để bảo vệ tổ quốc tổ quốc này. Họ góp phần tạo nên một tổ quốc tươi đẹp như xã hội ngày nay. Hình ảnh ngọn giáo trở thành thật đẹp lúc được hiện lên trong cái rộng lớn của ko gian và chiều dài của thời kì lịch sử. Hình ảnh đấy cũng như trình bày được vẻ đẹp của chính tác giả trong những trận chiến nảy lửa, căng go vẫn ngang ngọn giáo để bảo vệ tổ quốc. ko chỉ đẹp về mặt ngoại hình con người thân Trần còn hiện lên với vẻ đẹp của khí chất cao vút, mạnh mẽ lấn lướt hết cả sao Ngưu trên trời. Sức mạnh của quân đội Sát Thát giống như hổ như báo có thể nuốt trôi cả một con trâu mộng. Hay cũng chính là vẻ đẹp kết đoàn ba quân một lòng khơi dậy trong nhau một ý thức thép để có thể vượt qua những trắc trở hóc búa của trận đánh và đi tới một cái kết đẹp và có hậu cho trận đánh tranh chính nghĩa bảo vệ tổ quốc.(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Tiếp tới hai câu thơ cuối tác giả trình bày quan niệm về chí làm trai của mình trong thời buổi đấy: Nam nhi vị liễu công danh tráiTu thính nhân gian thuyết Vũ HầuĐã sống ở trên trời đất thì phải có công danh với núi sông, đó cũng là một tuyên ngôn khẳng định chí làm trai của Nguyễn Công Trứ, theo đó ta thấy quan niệm này ko chỉ của riêng Phạm Ngũ Lão nhưng còn có cả tất cả những bậc nam nhi có chí thời bấy giờ. Đó là xu thế chung, quan niệm chung của họ và cũng chính vì thế nhưng Phạm Ngũ Lão cũng ko nằm ngoài quan niệm đó. Tuy nhiên ở đây tác giả nhấn mạnh thêm quan niệm đấy và mở nó ra với ý nghĩa của tư nhân tác giả nhưng thôi. Dù là một vị tướng trung thành giống như cánh tay phải của Trần Hưng Đạo, trải qua biết bao nhiêu trận đánh vào sinh ra tử nhưng đối với ông đó vẫn chưa được liệt kê vào những công danh của tổ quốc. Đối với Phạm Ngũ Lão thì công danh vẫn là một thứ nhưng còn vương nợ với ông. Và chính vì vương nợ nên ông thấy hổ thẹn lúc nghe chuyện về Vũ Hầu. So sánh mình với Vũ Hầu để thấy những cái chưa được của mình, đây ko phải là sự ngộ nhận thân phận của mình giống như Vũ Hầu nhưng đó là cả một ý thức học hỏi của thi sĩ đối với người tài giỏi. Có một điểm chung là cả ông và Vũ Hầu đều giúp sức cho một người lớn hơn nhưng tác giả muốn nói ở đây là lúc Vũ Hầu giúp được cho vị tướng của mình thì Phạm Ngũ Lão lại khiêm tốn nhận mình chưa giúp được gì cho Hưng đạo đại vương nên thấy hổ thẹn lúc nghe chuyện Vũ Hầu. đồng thời qua đó ta thấy được sự trung thành và hiến dâng hết sức mình của tác giả với Hưng Đạo đại vương. Tuy xuất thân từ một người nông dân nhưng Phạm Ngũ Lão đã trình bày được sức mạnh ý chí và trí tuệ của mình làm cho người ta ko thể vịn vào hoàn cảnh xuất thân đấy để nhưng chê trách được ông.Phân tích bài Tỏ lòng – Mẫu 11Thuật hoài là một tác phẩm nổi tiếng của danh tướng đời Trần Phạm Ngũ Lão. Dù được xếp vào loại thơ trữ tình, nhưng từng câu từng chữ lại toát lên cái hào khí Đông A ngút trời của thời đại đó.Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một người văn võ song toàn, sống thời thời Trần, là vị danh tướng trăm trận trăm thắng. Ông được biết tới sau những chiến công hiển hách chống lại giặc xâm lược Mông – Nguyên.Phạm Ngũ Lão sáng tác ko nhiều, hiện nay tác phẩm còn lại của ông chỉ có hai bài thơ chữ Hán, trong đó có bài thơ thất ngôn tứ tuyệt “Thuật hoài” (dịch ra là Tỏ lòng).Thuật hoài được sáng tác trong một bối cảnh đặc thù, bối cảnh an nguy của nước nhà đang bị dọa nạt bởi quân Mông – Nguyên hung tàn, bối cảnh mọi từng lớp của dân tộc nhất trí đồng lòng chống lại ách xâm lược, giữ vững non sông gấm vóc ông cha để lại.Bài thơ được chia làm hai phần rất rõ ràng. Hai câu mở đầu trình bày hình tượng của quân đội và con người thời Trần, hai câu sau chính là lời bộc bạch nỗi lòng của tác giả.Mở đầu bài thơ, tác giả đã vẽ nên hình ảnh tráng lệ của con người và quân đội thời Trần, qua âm hưởng sảng khoái, hào hùng: Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thuTam quân tì hổ khí thôn ngưuQua hai câu thơ này, hình ảnh đấng nam nhi lẫm liệt uy phong đang xả thân vì nước như hiện lên rõ ràng trước mắt. Cũng từ đó, ta cảm thu được một hào khí Đông A ngút trời của một thời đại người hùng trong lịch sử.Trong đó, câu thơ “Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu” trình bày hình ảnh người lính cầm ngang ngọn giáo, luôn trong một tư thế hiên ngang, sẵn sàng tấn công, áp đạo quân thù xâm lược một cách hùng dũng để bảo vệ giang sơn rộng lớn suốt thời kì dài. Có thể nói, đây cũng chính là hình ảnh tượng trưng cho dân tộc Việt mạnh mẽ, quật cường, ko bao giờ chịu khuất phục, là ánh hào quang toả sáng ngời ngời của chủ nghĩa yêu nước, yêu chính nghĩa.Câu thơ thứ hai “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu” (dịch thơ: Ba quân hùng khí át sao Ngưu), dịch tức là khí thế của ba quân mạnh như hổ báo, át cả sao Ngưu trên trời, còn có cách dịch khác là “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”. Cho dù hiểu theo cách nào thì người đọc cũng đều cảm thu được sức mạnh vô cùng to lớn, ko đối thủ nào có thể địch nổi của quân dân ta.Chỉ với hai câu thơ, mười bốn chữ, nhưng Phạm Ngũ Lão đã vẽ nên một bức tranh tuyệt đẹp về người lính quả cảm, hùng dũng, oai hùng trong đạo quân đời Trần. Đồng thời nó cũng trình bày chí khí, khát vọng sục sôi của đấng nam nhi thời loạn. Phạm Ngũ Lão cũng như bao chí sĩ thời đó, đều nguyện hiến dâng thân mình cho lý tưởng ái quốc, trung quân, khát vọng công danh và trọng trách bảo vệ non sông, gấm vóc như hòa làm một.Do đó cho nên bậc nam nhi như ông mới cảm thấy hổ thẹn lúc chưa thể hoàn thành nghiệp công danh. Nỗi lòng đấy được tác giả trình bày qua hai câu thơ cuối: “Nam nhi vị liễu công danh tráiTu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”Hai câu thơ này có thể hiểu là nam tử chưa hoàn thành chuyện công danh, lúc nghe chuyện Vũ Hầu liền lấy làm hổ thẹn. Vũ Hầu ở đây chính là Khổng Minh, nhà quân sư lỗi lạc của Lưu Bị nói riêng và của thời Tam Quốc, cũng như toàn lịch sử nhân loại nói chung.Điều Phạm Ngũ Lão muốn bộc bạch chính là đấng nam nhi phải biết lấy gương sáng của người xưa nhưng so sánh, để phấn đấu cho xứng với tiền nhân. Niềm khát vọng công danh của tác giả, thực chất là khát vọng được hiến dâng tuổi xanh, công sức, tài năng cho Vua, cho giang sơn xã tắc, để có thể ngửng cao đầu sống giữa thời đại người hùng.Nếu như hai câu mở đầu bài thơ là âm hưởng hào sảng, chí khí ngút trời, thì hai câu sau, tác giả đã chuyển sang xúc cảm trữ tính, như lột tả nỗi lòng mình bằng giọng điệu trầm lặng, da diết, nhưng cũng ko kém phần mạnh mẽ, hùng hồn.Bài thơ chính là minh chứng rõ ràng nhất cho một võ tướng tài giỏi “bách chiến bách thắng” lại sở hữu một trái tim nhạy cảm của thi nhân. Thuật hoài chính là tác phẩm xuất sắc, trình bày nỗi lòng của tác giả, cũng là nỗi lòng chung của tuổi xanh hùng tráng và lột tả hào khí đời Trần.Phân tích bài Tỏ lòng – Mẫu 12Phạm Ngũ Lão là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ từng lớp bình dân song chí lớn tài cao nên ông nhanh chóng trở thành tùy tướng số một kế bên Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên xâm lược, Phạm Ngũ Lão cùng những tên tuổi lớn khác của triều đình đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần quan trọng tạo nên hào khí Đông A của thời đại đó.Ông sáng tác ko nhiều nhưng Thuật hoài là một bài thơ nổi tiếng, được lưu truyền rộng rãi vì nó bộc bạch khát vọng mãnh liệt của tuổi xanh trong xã hội phong kiến đương thời: làm trai phải trả cho xong món nợ công danh, có tức là phải thực hiện tới cùng lí tưởng trung quân, ái quốc. Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thuTam quân tì hổ khí thôn ngưuNam nhi vị liễu công danh tráiTu thính nhân gian thuyết Vũ hầu Dịch thơ tiếng Việt: Múa giáo non sông trải mấy thuBa quân khí mạnh nuốt trôi trâuCông danh nam tử còn vương nợLuống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh đặc thù không tiền khoáng hậu của lịch sử nước nhà. Triều đại nhà Trần (1226 – 14001) là một triều đại lừng lẫy với bao nhiêu chiến công vinh quang, mấy lần quét sạch quân xâm lược Mông – Nguyên hung tàn ra khỏi lãnh thổ, giữ vững sơn hà xã tắc, nêu cao truyền thống quật cường của dân tộc Việt.Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại đấy nên ông sớm thấm nhuần lòng yêu nước, ý thức tự hào, tự trọng dân tộc và nhất là lí tưởng sống của đạo Nho là trung quân, ái quốc. Ông ý thức rất rõ ràng về trách nhiệm công dân trước vận mệnh của tổ quốc: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.Bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) được làm bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật Đường, niêm luật chặt chẽ, ý tứ súc tích, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào hùng, sảng khoái. Hai câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp gân guốc, lẫm liệt, tràn đầy sức sống của những trang nam nhi – chiến binh quả cảm đang xả thân vì nước, qua đó trình bày hào khí Đông A ngút trời của quân đội nhà Trần thời đấy.Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu (Dịch nghĩa: cầm ngang ngọn giáo giữ gìn non sông đã mấy thu); dịch thơ: Múa giáo non sông trải mấy thu. So với nguyên văn chữ Hán thì câu thơ dịch chưa lột tả được hết chất uy phong, kiêu hùng trong tư thế của người lính đang đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Hoành sóc là cầm ngang ngọn giáo, luôn ở tư thế tấn công hùng dũng, áp đảo quân thù. Tư thế của những người chính nghĩa lồng lộng in hình trong ko gian rộng lớn là giang sơn tổ quốc trong suốt, một thời kì dài (giang sơn kháp kỉ thu). Có thể nói đây là hình tượng chủ đạo, tượng trưng cho dân tộc Việt quật cường, ko một quân thù nào khuất phục được. Từ hình tượng đấy, ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước ngời tỏa sáng.Câu thơ thứ hai: Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu. (Dịch nghĩa: khí thế của ba quân mạnh như hổ báo, át cả sao Ngưu trên trời). Dịch thơ: Ba quân hùng khí át sao Ngưu, đặc tả khí thế đấu tranh và thắng lợi ko gì ngăn cản nổi của quân dân ta. Tam quân tì hổ là một ẩn dụ so sánh nghệ thuật nêu bật sức mạnh vô địch của quân ta. Khí thôn Ngưu là cách nói thậm xưng để tạo nên một hình tượng thơ kì vĩ mang tầm vũ trụ.Hai câu tứ tuyệt chỉ mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời kì một bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm trong đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần.Là một thành viên của đạo quân người hùng đấy, Phạm Ngũ Lão từ một chiến binh dày dạn đã trở thành một danh tướng lúc tuổi còn rất trẻ. Trong con người ông luôn sục sôi khát vọng công danh của đấng nam nhi thời loạn. Mặt tích cực của khát vọng công danh đấy chính là ý muốn được đấu tranh, hiến dâng đời mình cho vua, cho nước. Như bao kẻ sĩ cùng thời, Phạm Ngũ Lão tôn thờ lí tưởng trung quân, ái quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông (Chí làm trai – Nguyễn Công Trứ). Do đó cho nên lúc chưa trả hết nợ công danh thì tự lấy làm hổ thẹn: “Nam nhi vị liễu công danh tráiTu thính nhân gian thuyết Vũ hầu (Công danh nam tử còn vương nợLuống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu).Vũ Hầu tức Khổng Minh, một quân sư tài giỏi của Lưu Bị thời Tam Quốc. Nhờ mưu trí cao, Khổng Minh đã lập được công lớn, nhiều phen làm cho đôi phương khốn đốn; vì thế ông rất được Lưu Bị tin yêu.Lấy gương sáng trong lịch sử cổ kim soi mình vào đó nhưng so sánh, phấn đấu vươn lên cho bằng người, đó là lòng tự ái, lòng tự trọng đáng quý nhu yếu ở một đấng nam nhi. Là một tùy tướng thân cận của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, Phạm Ngũ Lão luôn sát cánh kế bên chủ tướng, chấp nhận xông pha nơi làn tên mũi đạn, làm gương cho ba quân tướng sĩ, dồn hết tài năng, tâm huyết để tìm ra cách đánh thần kì nhất nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi lãnh thổ. Suy nghĩ của Phạm Ngũ Lão rất cụ thể và thiết thực; một ngày còn bóng quân thù là nợ công danh của tuổi xanh với giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Nhưng mà tương tự là phận sự với vua, với nước chưa tròn, khát vọng công danh chưa thỏa. Cách nghĩ, cách sống của Phạm Ngũ Lão rất tích cực, tiến bộ. ông muốn sống xứng đáng với thời đại người hùng.Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Xúc cảm hào sảng thuở đầu dần chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình cho nền âm hưởng trở thành trầm lặng, da diết.Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài giỏi nhưng lại có một trái tim nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bộc bạch được hùng tâm tráng trí và hoài bão lớn lao của tuổi xanh đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục rất thâm thúy về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại Thuật hoài đã làm vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão.Phân tích bài Tỏ lòng – Mẫu 13Từ nghìn xưa, nhân dân ta đã có truyền thống yêu nước nồng nàn, luôn sẵn sàng đứng lên bảo vệ tổ quốc mỗi lúc tổ quốc cần. Lòng yêu nước được trình bày qua nhiều lĩnh vực nhưng có nhẽ nổi trội nhất vẫn là ở lĩnh vực văn học. Trong các bài thơ của ông, có một tác phẩm rất đặc thù “ Tỏ lòng ” đây chính là tác phẩm đã làm toát lên rất rõ về vẻ đẹp, khí thế của con người thân Trần. Phạm Ngũ Lão là danh tướng thời Trần, có công rất lớn trong công cuộc chống Nguyên – Mông. “ Tỏ lòng ” được ông sáng tác lúc trận đánh lần thứ hai Nguyên – Mông đang tới rất gần, nhằm khơi dậy sức mạnh toàn dân. Lúc đó, tác giả cùng một số vị tướng khác được cử lên biên cửa ải Bắc trấn thủ nước.Nói tới hào khí Đông A là nói tới hào khí đời Trần. Thời này là một mốc son chói lọi trong lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, quân và dân thời Trần đã kiên cường quả cảm lập nên 3 kì tích: 3 lần đại thắng quân Nguyên – Mông, để có được thắng lợi đó, quân dân thời Trần đã phải vượt qua bao nhiêu khó khăn, gieo neo, căm thù giặc sục sôi cùng lòng quyết tâm thắng lợi. Hào khí dân tộc trình bày ở sự hòa quyện giữa hình ảnh người người hùng với hình ảnh “Ba quân” đã tạo nên một bức tranh tượng đài nghệ thuật sừng sững đang xuất hiện. “Hoành sóc giang sơn khắp kỉ thuTam quân tỳ hổ khí thôn ngưu“Câu thơ đầu khắc họa một hình ảnh người người hùng đang trong tư thế hiên ngang, vững chãi, “Hoành sóc” là việc cầm ngang ngọn giáo, với sứ mệnh trấn thủ giang sơn, giữ yên lãnh thổ ròng rã đã mấy năm rồi nhưng ko biết mỏi mệt. Con người đó được đặt trong một ko gian kì vĩ: núi sông, tổ quốc khiến con người trở thành lớn lao sánh ngang với tầm vóc vũ trụ. Hình ảnh còn mang ý nghĩa biểu tượng cho ý thức xông pha sẵn sàng đấu tranh, một tư thế hiên ngang làm chủ chiến trường. Tiếc thay, lúc ta dịch chuyển thành “múa giáo” thì phần nào đã làm hai chữ “hoành sóc” giảm đi tính biểu tượng và tư thế uy phong lẫm liệt của hình tượng lớn lao này. Ngày xưa, quân lính chia làm ba tiểu đội: tiền quân, trung quân và hậu quân. Tuy nhiên, lúc nói tới “ba quân” thì sức mạnh của cả quân đội nhà Trần, sức mạnh của toàn dân tộc đang sục sôi biết bao. Câu thơ thứ hai sử dụng thủ pháp so sánh để làm toát lên khí thế, “Tam quân tỳ hổ” chính là ví sức mạnh của tam quân giống như hổ như báo, nó vững mạnh và oai hùng. Nhờ đó, tác giả đã bộc bạch niềm tự hào về sự trưởng thành, và vững mạnh của bậc quân đội. Không chỉ thế, câu thơ còn sử dụng thủ pháp phóng đại “Khí thôn ngưu” – khí thế quân đội mạnh mẽ lấn lướt cả Sao Ngưu hay là khí thế hào hùng nuốt trôi trâu. Như vậy, hai câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp người người hùng hòa trong vẻ đẹp của thời đại hào hùng tạo nên những con người người hùng. Câu thơ gây ấn tượng mạnh bởi sự liên kết giữa hình ảnh khách quan với cảm nhận chủ quan giữa hiện thực và lãng mạn. Qua đó, tác giả bộc lộ niềm tự hào về sức mạnh của nhà Trần nói riêng cũng như là của toàn dân tộc nói chung. “Nam nhi vị liễu công danh tráiTu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu“Qua hai câu thơ trên, lí tưởng của người người hùng đang được trình bày rõ qua hai cặp từ “nam nhi và công danh”. Nhắc tới chí là nhắc tới chí làm trai, lập công là để lại công danh, sự nghiệp để lại tăm tiếng cho muôn thuở, công danh được coi là món nợ phải trả của kẻ làm trai. Một danh tướng có nỗi trằn trọc, canh cánh trong lòng là chưa trả xong nợ công danh mặc dù con người đấy đã lập lên bao nhiêu chiến công rồi. Đó chính là khát vọng, lí tưởng lớn lao muốn được phò vua giúp nước, trong ko khí sục sôi của thời đại bấy giờ, chí làm trai có tác dụng cỗ vũ cho con người sẵn sàng đấu tranh giành lại hòa bình cho tổ quốc.Ở câu cuối của bài thơ, nói lên cái tâm của người người hùng, điều đáng quý kế bên Trí là còn có cái tâm. “Thẹn với Vũ Hầu” – Vũ Hầu chính là Gia Cát Lượng, một tài năng, một tư cách, một người có tâm, tác giả thẹn vì chưa có tài mưu lược như Gia Cát Lượng chăng? Mặc dù tác giả là người lập nhiều công cho tổ quốc nhưng vẫn thấy thẹn. Qua nỗi thẹn đấy, người đọc nhìn thấy thái độ khiêm nhượng, một ý nguyện cháy bỏng được giết thịt giặc, lập công đóng góp cho sự nghiệp chung.Qua bài thơ, hiện lên hình ảnh của đấng nam nhi thời đại Bình Nguyên, với khát vọng có thể phá được cường địch để báo đáp hoàng ân, để non sông được vững vàng. Vẻ đẹp của người người hùng lồng trong vẻ đẹp của thời đại làm nên hào khí của thời đại nhà Trần, hào khí Đông A. Bài thơ cũng là nỗi lòng riêng của Phạm Ngũ Lão về khát vọng lí tưởng, về tư cách của con người phải được giữ gìn.Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão – Mẫu 14Phạm Ngũ Lão (1255-1320), là một vị tướng tài dưới triều Trần, từng đóng góp rất nhiều công lao trong cả hai cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên xâm lược. Khi còn tại thế ông đã từng giữ tới chức Điện súy, phong tước quan nội hầu, đương thời ông chỉ xếp sau cha vợ mình là Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn – vị tướng lớn lao nhất lịch sử phong kiến nước ta về tăm tiếng. Tuy là con nhà võ, hàng năm quen chuyện binh đao thế nhưng Phạm Ngũ Lão cũng lại là người rất thích thú thơ ca và được người đời khen tặng là văn võ toàn tài.(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Ông từng sáng tác rất nhiều bài thơ hay, thế nhưng theo dòng lịch sử đa số bị thất lạc, tới nay chỉ còn lại hai bài Tỏ lòng và Viếng thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương. Về thi ca, trong văn học trung đại luôn nằm trong một quy phạm chung, làm thơ thì phải bao hàm chữ “chí”, trong “Văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí”. Nghĩa rằng thơ văn thì phải truyền tải một nội dung giáo dục nào đó to lớn, và Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão là một trong số những bài thơ tiêu biểu nhất trình bày cái tính quy phạm đặc trưng này của nền văn học trung đại – lời là lời giáo huấn về chí nam nhi đầy hào khí của thời Trần.Cho tới tận ngày hôm nay vẫn chưa có một cứ liệu xác thực nào về hoàn cảnh ra đời của Tỏ lòng (Thuật hoài), nhưng theo một số suy đoán thì bài thơ được sáng tác vào năm 1284, trước lúc diễn ra diễn ra cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên lần thứ hai. Lúc này Phạm Ngũ Lão được cử đi trấn thủ biên giới cùng một số tướng soái khác để sẵn sàng cho chiến sự. Ở hai câu thơ đầu Phạm Ngũ Lão đã tái tạo một cách xúc tích và ấn tượng về vẻ đẹp của con người và quân đội thời Trần. “Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu,Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.”Để khắc họa hình ảnh con người thời Trần, tác giả đã khôn khéo dựng lên một bối cảnh ko gian và thời kì rất đặc thù, là một cái phông nền lạ mắt để từ đó làm nổi trội lên vẻ đẹp của những con người sống dưới triều Trần, một triều đại nhiều bão táp mưa sa nhất lịch sử phong kiến. Về bối cảnh ko gian, Phạm Ngũ Lão chọn hai chữ “giang sơn” vốn là từ ghép hợp nghĩa, ở đây tức là chỉ núi sông, từ đó mở ra trước mắt người đọc một ko gian vô cùng rộng lớn, rộng lớn và khoáng đạt, đó là ko gian của cả một quốc gia, dân tộc.Kế bên ko gian, thì bối cảnh thời kì được gợi mở bằng ba từ “kháp kỷ thu”, ý chỉ đã qua hết mấy thu rồi, trước cái cách đo đếm thời kì đấy đã gợi cho người đọc về một khoảng thời kì lâu dài, có bề dày lịch sử vững bền. Trên cái nền ko gian, thời kì dài rộng đấy lại nổi trội lên hình ảnh con người trong tư thế “hoành sóc”, cầm ngang ngọn giáo để trấn thủ non sông đã qua mấy thu.Tầm vóc của con người nổi trội thông qua hình ảnh ngọn giáo dường như được đo bằng cả chiều rộng của giang sơn, chiều dài của thời kì, vô cùng hiên ngang và hùng tráng. Mang vẻ kỳ vĩ, lớn lao, sánh ngang với tầm vóc vũ trụ, đặc thù tư thế cầm ngang ngọn giáo gợi ra cho người đọc về phẩm chất kiên cường, dai sức, quả cảm luôn trong tư thế sẵn sàng đấu tranh, trong nhiệm vụ trấn thủ non sông, bảo vệ tổ quốc như những vị thần.Điều này gợi nhắc ta về câu chuyện lịch sử, quân Mông – Nguyên mượn cớ mượn đường nước ta để sang đánh Chiêm Thành, nhưng thực tiễn thủ đoạn của chúng là hòng thôn tính Đại Việt. Trước sự nghi ngờ, quân đội nhà Trần quyết lật đổ thủ đoạn của giặc, trong sự sẵn sàng bao gồm việc cử Phạm Ngũ Lão và một số tướng soái tài giỏi ra trấn thủ tại biên giới để ngừa giặc tấn công bất thần.Trước hoàn cảnh đấy, có nhẽ ứng với hình ảnh vị tướng cầm ngang ngọn giáo, kiêu hùng canh phòng từng tấc đất của Tổ quốc là hoàn toàn hợp lý và xuất phát từ những sự kiện có thật để tạo nên cảm hứng đầy hào khí hiên ngang, mạnh mẽ trong Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão. Tản mạn một tí về câu thơ dịch “Múa giáo non sông trải mấy thu” của Bùi Văn Nguyên, thì có nhẽ rằng ý thơ chưa thực sự đạt, bởi với hai từ “múa giáo” thực tiễn chỉ cốt thiên về cái “mỹ”, đẹp và có chất thơ, nhưng lại thiếu đi cái chí “hùng” nhưng tác giả muốn biểu đạt.Còn trong bản gốc hai từ “hoành sóc” mới thực sự diễn tả đúng cái khí thế hùng tráng, hiên ngang của một vị tướng, thậm chí là biểu đạt vẻ kiên cường, hào khí cho cả một thế hệ những con người dưới thời Trần, trước hai cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên xâm lược.Đó là hình ảnh con người thời Trần, ở câu thừa đề, tác giả đã sử dụng từ “tam quân” tức là ba quân, là đặc trưng của các tổ chức quân đội thời xưa, của các nước phương Đông bao gồm tiền quân, trung quân và hậu quân. Nhưng mà ẩn chứa sau đó là tác giả muốn nói về sức mạnh về cái sự đồng lòng của toàn quân, toàn dân tộc trong công cuộc kháng chiến. Đặc trưng để diễn tả được sức mạnh và hào khí của quân đội trong thời đại này tác giả đã sử dụng phép so sánh “Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu”.Phép so sánh này đã gợi ra cho người đọc hai cách hiểu chính, thứ nhất có thể diễn giải đơn giản theo ý trên mặt chữ rằng ba quân mạnh như hổ, như báo có thể nuốt trôi cả một con trâu lớn. Một cách hiểu thứ hai có phần văn hoa và suy diễn nhiều hơn đấy là sức mạnh của ba quân như hổ báo, thậm chí át cả sao Ngưu đang ngự trên trời. Cách hiểu thứ hai vừa mang trị giá hiện thực vừa mang một tí cảm hứng lãng mạn hiếm có trong thi ca trung đại, gợi tạo cảm hứng sử thi người hùng ca mạnh mẽ. Tổng kết lại sức mạnh của quân đội thời Trần được tóm gọn bằng cụm từ “hào khí Đông A”, gọi là Đông A bởi vốn hai chữ này là hai bộ thủ trong chữ Hán ghép lại thành chữ Trần.Sau hai câu khai đề và thừa đề diễn tả hào khí chung của dân tộc, thì tới hai câu chuyển và câu hợp là để giảng giải và làm rõ ý của câu đề và của cả bài thơ. Chuyển là chuyển từ khách thể sang chủ thể là tác giả, để bộc bạch nỗi lòng, tâm tư, ước vọng của bản thân về chí làm trai, về món nợ công danh phải trả cho tổ quốc. Đồng thời câu hợp để kết lại, trình bày sáng rõ vẻ đẹp tâm hồn và tư cách lớn lao của Phạm Ngũ Lão. “Nam nhi vị liễu công danh trái” ý chỉ lý tưởng, chí lớn lập công danh, trình bày qua quan niệm, nhận thức của tác giả về món nợ công danh của kẻ làm trai.Ở đây món nợ công danh xuất phát từ quan niệm “nhập thế tích cực” của Nho giáo, khác với quan niệm “xuất thế” của Phật giáo, chủ trương lánh đời, ở ẩn, quên đi chuyện thế sự, nhiễu nhương, để tâm hồn thanh tịnh,…. Thì đối với Nho giáo, con người đặc thù là người nam nhi phải mạnh mẽ đứng giữa cuộc đời sóng gió, dùng hết tài trí sức lực của mình để hiến dâng cho đời, giúp dân giúp nước.Trong đó việc ứng thí khoa cử, tham gia vào chốn quan trường chính là một trong những biểu thị rõ rõ nét và phổ quát nhất của quan niệm “nhập thế tích cực”, và Phạm Ngũ Lão chính là một trong số những con người chịu tác động thâm thúy bởi quan niệm này. Quan niệm đấy đã tạo dựng nên mục tiêu sống, lý tưởng sống chung của các đấng nam nhi dưới thời đại này là phải lập được công danh, có sự nghiệp, tiếng thơm lưu truyền tới muôn thuở. Trở thành một trong những điều tối cần của chí làm trai, nhưng trong văn học Việt Nam đã từng có rất nhiều thi sĩ nói đến tới ví như Nguyễn Công Trứ với “Chí làm trai nam bắc đông tây/Cho thỏa sức vẫy vùng trong bốn bể”.Đặt trong hoàn cảnh tổ quốc đương thời, quân xâm lược đang ngấp nghé lãnh thổ, thì cũng là lúc để cho những kẻ làm trai có dịp trả món nợ công danh, ra sức giúp nước, giúp tư thục chí lớn. Người nam nhi phải từ bỏ những lối sống tầm thường, ích kỷ, vui vầy vợ con, ruộng vườn để xông pha trận mạc sẵn sàng hy sinh cho sự nghiệp cứu nước, cứu dân. Có thể nói rằng món nợ công danh trong trong nhận thức của Phạm Ngũ Lão vừa mang tư tưởng tích cực của thời đại vừa mang ý thức dân tộc thâm thúy. Chính vì thế nó luôn canh cánh, trằn trọc trong cõi lòng của tác giả.Kế bên chí lớn làm trai cùng với quan niệm món nợ công danh trước thời cuộc, thì câu thơ cuối chính là câu thơ tỏ rõ vẻ đẹp tâm hồn và tư cách cao thượng của Phạm Ngũ Lão. Nhân cách cao của tác giả trình bày qua nỗi thẹn của ông lúc nghe chuyện Vũ Hầu. Vũ Hầu ở đây chính là chỉ Gia Cát Lượng, một vị quân sư lỗi lạc, một nhân vật lịch sử lớn lao, là người cộng sự trung thành, đóng góp những công lao to lớn trong công cuộc mở rộng lãnh thổ của Lưu Bị – vua nước Thục trong bối cảnh tam quốc phân tranh cực gay gắt làm thành thế chân kiềng.Đứng trước con người mang tầm vóc tương tự Phạm Ngũ Lão mặc dầu đã lập được rất nhiều công danh nhưng vẫn cảm thấy bản thân mình quá nhỏ nhỏ, tựa như hạt cát giữa sa mạc mênh mông, đồng nghĩa với việc ông ý thức được rằng món nợ công danh đã trả chẳng thấm tháp vào đâu, nhưng vẫn còn phải nỗ lực trả nhiều hơn nữa thì mới xứng với phận nam nhi, xứng với Tổ quốc.Từ những biểu thị trên ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Phạm Ngũ Lão trước hết là ở ý chí nỗ lực muốn theo gương người xưa lập công danh cho xứng tầm, thứ hai đấy là lý tưởng, chí lớn mong muốn lập được công danh sánh ngang với nhân vật lịch sử lỗi lạc. Có thể nói rằng nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão là nỗi thẹn của một nhà nho có tư cách lớn, cũng là nỗi thẹn của một người dân yêu nước trong khi cái họa xâm lược vẫn đang treo lửng lơ trước mắt.Thuật hoài đã khắc họa vẻ đẹp của người người hùng vệ quốc hiên ngang, đồng thời cũng cho thấy sự lẫm liệt, lý tưởng và tư cách lớn lao của con người thời Trần, từ đó nói chung hóa, ca tụng hào khí của những con người đương thời – vẻ đẹp của hào khí Đông A. Về nghệ thuật, bài thơ có tính súc tích, cô đọng “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”, đồng thời bài thơ còn mang tính sử thi với những hình tượng thơ kì vĩ lớn lao đã nâng tầm vóc người người hùng sánh ngang với tầm vóc của vũ trụ rộng lớn.Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão – Mẫu 15Việt Nam, tổ quốc tuy nhỏ nhỏ đầy những gian lao vất vả nhưng rất đỗi người hùng đã trải qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước với những mốc son chói lọi trong lịch sử. Một trong những mốc son đấy chính là ba cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên xâm lược của vua tôi nhà Trần.Nhà Trần đã ghi vào pho sử vàng Đại Việt những chiến công Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử. Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được ghi lại trong những áng văn học kiệt xuất như: “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu, v.v… Đặc trưng và nổi trội hơn hết cả là tác phẩm “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão. Bài thơ là một khúc tráng ca hào hùng và mang nặng nỗi niềm của tác giả.Phạm Ngũ Lão sinh ra trong thời kì tao loạn với cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên của tổ quốc. Tên tuổi của ông gắn liền với câu chuyện về một chàng trai nghèo mãi nghĩ kế giúp vua đánh giặc tới nỗi bị giáo đâm vào đùi. Kế bên một nhà quân sự tài giỏi, ông còn là một thi sĩ lớn lao với hai tác phẩm “Thuật hoài” và “Viếng Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương” còn vang vọng mãi với non sông.“Thuật hoài” là bản tuyên ngôn về lý tưởng của kẻ làm trai là đấu tranh để bảo vệ non sông tổ quốc đồng thời trình bày khí thế, sức mạnh và khát vọng thắng lợi của một thời đại người hùng. Bài thơ tiêu biểu cho quy luật văn học nghệ thuật “Quý hồ tinh, bất quý hồ đa”Mở đầu bài thơ là hình ảnh tráng lệ với âm hưởng hào hùng: “Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu” Bước vào thời đại chiến tranh đấy, cái thời nhưng ngọn lửa như thiêu cháy cả tâm hồn quyết tâm diệt tan quân thù xâm lược lãnh thổ, khẳng định lại một lần nữa: “Nam quốc sơn hà Nam Đế cư”! Và lúc đó, xuất hiện tư thế hiên ngang của người người hùng đất Việt “hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”. Câu thơ trước hết đã vẽ nên hình tượng uy phong lẫm liệt của người tráng sĩ với tư thế cầm ngang ngọn giáo sẵn sàng đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Tư thế đấy mang đậm tính tự hào rằng mình là người con đất Việt và sẵn sàng hi sinh để bảo vệ lãnh thổ Việt, bảo vệ nhân dân Việt, bảo vệ non sông gấm vóc nghìn thu này. Hình ảnh lớn lao của người chiến sĩ đã sánh với tầm vóc rộng lớn hùng vĩ của đất trời, lấn lướt cả khí thế của quân giặc. Đó còn biểu tượng cho lối sống cao đẹp hiến dâng hết sức để bảo vệ tổ quốc một cách kiên trì, nhẫn nại. Dù bao nhiêu năm đi chăng nữa thì lí tưởng bảo vệ, khôi phục non sông vẫn mãi trường tồn.Nếu câu thơ đầu trình bày vẻ đẹp của con người với tầm vóc, tư thế, hành động lớn lao, kỳ vĩ mang tầm vóc vũ trụ thì câu thơ thứ hai tô đậm hình ảnh “ba quân” tượng trưng cho sức mạnh của quân đội nhà Trần và sức mạnh dân tộc Đại Việt lúc bấy giờ. “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo quyết đánh tan mọi quân thù xâm lược. Khí thế của đội quân đấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, quân thù nào có thể ngăn cản nổi. “Khí thôn ngưu” tức là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời xuất phát từ câu “khí thôn Ngưu đẩu” hay đó chính là khí thể hùng mạnh có thể nuốt trôi trâu của tam quân thời Trần. Biện pháp nghệ thuật thổi phồng hoá thông minh nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, có tính sử thi. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất lạ mắt, ko chỉ có sức biểu thị thâm thúy sức mạnh vô địch của đội quân “Sát Thát” bất khả chiến bại nhưng nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc: Thuyền bè muôn đội,Tinh kì phất phới.Hùng hổ sáu quân,Giáo gươm sáng chói. … (Phú sông Bạch Đằng – Trương Hán Siêu)Nếu tư thế của tráng sĩ với hình ảnh cây trường giáo như đo bằng chiều ngang của non sông thì tư thế của ba quân vững mạnh đo bằng chiều dọc gợi ko gian mở ra theo chiều rộng của núi sông và mở theo chiều cao tới tận sao Ngưu thăm thẳm. Con người kì vĩ như át cả ko gian rộng lớn, kì vĩ. Hình ảnh tráng sĩ lồng vào trong hình ảnh dân tộc thật đẹp có tính chất sử thi, hoành tráng. Đó chính là sức mạnh, âm vang của thời đại, vẻ đẹp của người trai thời Trần, là thành phầm của “hào khí Đông A”. Nói cách khác, đó là hình ảnh con người vũ trụ, mang tầm vóc lớn lao. Con người đấy vì người nào nhưng xông pha, quyết đấu? Tất cả xuất phát từ trách nhiệm, ý thức dân tộc và nền thái hoà. Vì thế con người vũ trụ gắn với con người trách nhiệm, con người ý thức, nghĩa vụ, con người hành động, đó chính là những biểu thị của con người tập thể, con người xả thân vì tổ quốc.Nếu ở hai câu đầu giọng điệu sôi nổi hùng tráng thì tới đây âm hưởng thơ bỗng dưng như một nốt trầm lắng lại với lời bộc bạch, tâm tình, bộc bạch nỗi lòng của thi sĩ: “Nam nhi vị liễu công danh tráiTu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”Thời xưa, Nho giáo đã nêu lên triết lí kẻ làm trai từ lúc sinh ra đã gánh nợ công danh. Người đàn ông phải hướng tới “tu thân, tề gia, trị quốc, bình người đời” lấy đó là lí tưởng, là cái đích phải hướng tới. Nói như Nguyễn Công Trứ thì: “Đã mang tiếng ở trong trời đấtPhcửa ải có danh gì với núi sông”.Thời Trần, cái chí làm trai đấy là “Phá cường địch, báo hoàng ân” của vị người hùng trẻ tuổi Trần Quốc Toản, là câu nói quyết đoán của Thái sư Trần Thủ Độ: “Đầu thần còn chưa rơi xuống xin hoàng thượng đừng lo” hay đó là vị Quốc Công tiết chế với “Hịch tướng sĩ” mang đậm hào khí người hùng: “…dẫu cho thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng cam lòng”. Đấy chính là khát vọng được gánh vác vận mệnh tổ quốc, dân tộc, lập chiến công hiển hách, là lý tưởng lập công danh sự nghiệp của nam nhi thời tao loạn. “Công danh” nhưng Phạm Ngũ Lão nói tới trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược, bằng ý thức quả cảm và chiến công. Đó ko phải là thứ “công danh” tầm thường, đậm màu sắc người hùng tư nhân. Nợ công danh như một gánh nặng nhưng kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm.Đặt trong thời đại của Phạm Ngũ Lão, chí làm trai này đã động viên con người từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỉ, sẵn sàng đấu tranh hi sinh vì sự nghiệp lớn lao “cùng trời đất muôn thuở bất hủ”. Phạm Ngũ Lão cũng từ cái chí, cái nợ nam nhi, nam tử đó nhưng cùng dân tộc đấu tranh chống xâm lược dai sức, ròng rã bao năm. Đặc trưng ở đây cũng từ cái chí, cái nợ đó nhưng phát sinh trong tâm trạng một nỗi thẹn. Phạm Ngũ Lão “thẹn” chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu Gia Cát Lượng đời Hán để trừ giặc, cứu nước. Thẹn bởi vì so với ông cha mình chưa có gì đáng nói. Gia Cát Lượng là quân sư của Lưu Bị, mưu trí tuyệt vời, song điểm làm cho Gia Cát Lượng nổi tiếng rằng lòng tuyệt đối trung thành với chủ. Vì thế “luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu” thực chất là một lời thề suốt đời tận tụy với chủ tướng Trần Hưng Đạo. Xưa nay, những người có tư cách vẫn thường mang trong mình nỗi thẹn. Nguyễn Khuyến trong bài thơ “Thu vịnh” từng bộc bạch nỗi thẹn lúc nghĩ tới Đào Tiềm – một danh sĩ cao khiết đời Tấn. Với Phạm Ngũ Lão, tuy là một nhà thao lược kiệt xuất, có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên lần hai, ba nhưng ông vẫn tự thấy hổ thẹn. Ông thẹn vì chưa khôi phục được giang sơn, vì thấp kém chưa được như Vũ hầu, chưa báo được Hoàng ân. Nỗi thẹn đấy ko làm cho con người trở thành nhỏ nhỏ nhưng trái lại tăng lên phẩm giá con người. Đó là cái thẹn của một con người có lý tưởng, hoài bão vừa lớn lao, vừa khiêm nhượng. Nỗi thẹn của một con người luôn dành trọn cái tâm cho tổ quốc, cho tập thể. Ẩn sau cái thẹn cao cả, khiêm tốn và đấy là cả một nỗi niềm khát khao được hiến dâng hơn nữa cho Tổ quốc, cho dân tộc. Ông nguyện học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng đấu tranh “Khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bê được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn vững bền: “Non sông nghìn thuở vững âu vàng”. Thuật hoài là một bài thơ Đường luật ngắn gọn nhưng súc tích với thủ pháp gợi, thiên về ấn tượng, nói chung liên kết với văn pháp hoành tráng mang âm hưởng sử thi đã khắc họa vẻ đẹp của người người hùng hiên ngang, kiêu hùng với sức mạnh lý tưởng lớn lao cao cả, tâm hồn sáng ngời nhận cách cùng khí thế hào hùng, quyết đấu quyết thắng của “hào khí Đông A” – hào khí thời Trần. Ngày nay, việc “cứu nước phò nguy” đâu phải là ko cần thiết nữa vì vậy, mỗi thanh niên chúng ta cần học tập thật tốt, rèn luyện tư cách đạo đức, xác định cho mình lí tưởng sống đúng mực và quan trọng hơn là phải biết ước mơ và hành động vì sự nghiệp tổ quốc, đưa Việt Nam sánh ngang tầm với các cường quốc khắp năm châu.

[rule_2_plain]

#Văn #mẫu #lớp #Phân #tích #bài #thơ #Tỏ #lòng #của #Phạm #Ngũ #Lão #Dàn #bài #phân #tích #Tỏ #lòng

  • Tổng hợp: Thư Viện Hỏi Đáp
  • Nguồn: https://download.vn/phan-tich-bai-tho-to-long-41405