Quá trình hình thành và phát triển của luật dân sự

Quá trình phát triển của pháp luật dân sự Việt Nam có thể được chia thành ba giai đoạn, gồm: giai đoạn của luật cổ; giai đoạn của luật cận đại; giai đoạn của luật hiện đại.

Thứ nhất, giai đoạn của luật cổ

Khái niệm pháp luật dân sự, được xây dựng trong luật cận đại và luật hiện đại Việt Nam, không tồn tại trong luật cổ. Các quy tắc viết có tác dụng điều chỉnh các quan hệ giữa cá nhân và cá nhân trong xã hội cổ thường nằm lẫn lộn trong các chương về hình sự, hành chính liên quan đến hôn nhân, gia đình và ruộng đất.

Pháp luật trước thời Lê chỉ còn có thể được hình dung thông qua sách sử, các tài liệu chuyên môn về luật đều đã thất lạc hoặc bị tiêu hủy. Một số dữ kiện trong sách sử cho phép suy đoán về sự tồn tại của các quy tắc xử sự chung chi phối các quan hệ gia đình, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng. Mọi suy đoán đều không chắc chắn.

Dưới thời Lê, pháp luật dân sự được xây dựng và hoàn thiện với sự quan tâm đặc biệt. Bộ Quốc triều hình luật đã dành hẳn hai chương - Hộ hôn và Điền sản - để nói không chỉ về hôn nhân, gia đình và ruộng đất, mà còn cả về chế độ tài sản của vợ, chồng, thừa kế, tặng cho và di chúc, hương hỏa, nghĩa vụ, hợp đồng,... không kể các quy định có liên quan đến quan hệ pháp luật dân sự nằm rải rác ở các chương khác hoặc trong các văn bản luật riêng lẻ mà không được đưa vào Bộ luật. Nói chung, mặc dù chịu ảnh hưởng của văn hóa pháp lý Trung Quốc, người làm luật thời Lê vẫn nhận ra những đặc điểm riêng của đời sống dân sự Việt Nam và đã xây dựng được nhiều quy tắc pháp lý thể hiện tính độc đáo của pháp luật dân sự Việt Nam, nhất là những quy tắc liên quan đến hôn nhân, chế độ tài sản của vợ, chồng và thừa kế.

Đến thời Nguyễn, luật viết lại trở về với thân phận chư hầu của Trung Quốc. Nói riêng về luật dân sự, Bộ luật Gia Long hầu như chỉ lấy lại câu chữ của các quy định liên quan trong Bộ luật nhà Thanh. Thực ra, người làm luật nhà Thanh, cũng như người làm luật thời trước đó ở Trung Quốc, không có ý niệm gì về luật dân sự: đối với luật, ngoài các quan hệ trong nội bộ gia đình, con người chỉ có các quan hệ với quyền lực công cộng. Sao chép luật nhà Thanh, Bộ luật Gia Long giải quyết các vấn đề dân sự như là một phần của những vấn đề lớn hơn về gia đình, hành chính và hình sự. Trong thời gian áp dụng Bộ luật Gia Long, người làm luật thời Nguyễn có bổ sung một số quy định về dân sự trong các lĩnh vực thừa kế, nghĩa vụ và hợp đồng, hôn nhân và gia đình; nhưng đó chỉ là những bổ sung rất vụn vặt, không ảnh hưởng đến những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật này.

Thứ hai, giai đoạn của luật cận đại

Luật dân sự Việt Nam xây dựng theo kiểu Pháp. Cùng với việc xây dựng và củng cố chế độ thực dân ở Việt Nam, người Pháp đã nỗ lực La tinh hóa hệ thống pháp luật Việt Nam. Nói riêng trong lĩnh vực dân sự, luật Việt Nam thời kỳ thuộc địa được xây dựng theo khuôn mẫu luật của Pháp, có cải biên cho phù hợp với bối cảnh kinh tế và xã hội của Việt Nam thời kỳ đó. Về luật viết, có một số văn bản đáng chú ý: dân luật giản yếu [1883] áp dụng tại Nam kỳ; Sắc lệnh ngày 21/7/1925 về chế độ điền thổ cũng áp dụng tại Nam Kỳ; BLDS Bắc [1931]; BLDS Trung [1936, 1938, 1939]; Sắc lệnh ngày 21/2/1921 về thương mại, áp dụng tại Bắc và Nam Kỳ; Bộ thương luật Trung [1942];... Theo kiểu Pháp, luật viết thường chỉ ghi nhận những quy phạm mang tính nguyên tắc và được bổ khuyết bằng các giải pháp được xây dựng trong học thuyết pháp lý và án lệ. Bên cạnh đó, tục lệ đóng vai trò của một nguồn quan trọng của luật, nhất là tại Nam Kỳ, nơi mà cho đến khi chấm dứt chế độ thuộc địa vẫn chưa có một BLDS hoàn chỉnh [dân luật giản yếu năm 1883 chỉ đề cập đến các vấn đề về nhân thân, tương ứng với quyền 1 BLDS Pháp, không đả động gì đến các quan hệ tài sản].

Thứ ba, giai đoạn của luật hiện đại

Người làm luật xã hội chủ nghĩa luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho việc xây dựng pháp luật dân sự. Tuy nhiên, do phải tập trung thì giờ và công sức, trí tuệ cho chiến tranh cũng như cho việc giải quyết các hậu quả của chiến tranh, người làm luật chỉ có thể đầu tư đúng mức cho luật học dân sự khoảng mươi năm trở lại đây.

Từ 1945 đến những năm 1980

Trong những năm đầu kể từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, người làm luật chấp nhận duy trì hiệu lực của hệ thống luật cũ trừ các quy định “trái với nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa” [Sắc lệnh số 47 ngày 10/10/1945, Điều 12]. Với chủ trương đó, gần như toàn bộ hệ thống pháp luật dân sự [lúc đó gọi là luật hộ] được xây dựng trong thời kỳ thuộc địa vẫn giữ nguyên giá trị.

Đến năm 1950, trước yêu cầu cấp bách của việc xoá bỏ các tàn tích của chế độ phong kiến trong lĩnh vực dân sự, người làm luật, trong hoàn cảnh rất khắc nghiệt của cuộc kháng chiến chống Pháp, đã nỗ lực vượt qua mọi khó khăn để bắt tay vào việc xây dựng hệ thống pháp luật dân sự xã hội chủ nghĩa. Một trong những thành tựu đáng chú ý nhất của thời kỳ này là việc ban hành Sắc lệnh số 97 ngày 22/5/1950 sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật. Sắc lệnh ghi nhận một số nguyên tắc lớn liên quan đến nhân thân và tài sản: quyền nhận cha, mẹ, quyền tự do kết hôn, quyền bình đẳng của người phụ nữ so với nam giới, nguyên tắc bảo vệ kẻ yếu trong quan hệ hợp đồng, quyền thừa kế,...

Pháp luật cũ không còn được dùng làm căn cứ cho việc xét xử của các toà án kể từ năm 1957 theo Chỉ thị số 772/TATC ngày 10/7/1957 của Toà án nhân dân tối cao. Tuy nhiên, do chiến tranh và những khó khăn của thời kỳ đầu sau chiến tranh, giao lưu dân sự không phát triển; bởi vậy, từ đó cho đến những năm đầu thập niên 80, hầu như không có văn bản nào chứa đựng có hệ thống các quy định về dân sự được ban hành. Riêng toà án nhân dân tối cao, trong điều kiện quá thiếu công cụ để xử lý các tranh chấp liên quan đến việc thanh toán di sản [một loại giao dịch mà gần như bất kỳ người nào cũng có lúc phải xác lập], đã đúc kết các kinh nghiệm

từ thực tiễn xét xử và tham khảo các giải pháp trong luật so sánh, để xây dựng một văn bản mang tính quy phạm về thừa kế áp dụng tạm [chủ yếu trong các toà án] trong lúc chờ đợi có luật viết.

Từ những năm 1980 đến nay

Với chính sách kinh tế thị trường, bắt đầu từ năm 1987, việc tích lũy của cải trong khu vựctư nhân được khuyến khích và, như là một hệ quả tất yếu, lưu thông dân sự phát triển nhanh.

Nhằm kịp thời điều chỉnh các quan hệ tài sản càng lúc càng trở nên rất phong phú và đa dạng trong dân cư, Nhà nước đã xây dựng trong thời gian ngắn hàng loạt quy phạm pháp luật dân sự, được ghi nhận trong nhiều văn bản lập pháp và lập quy: Luật hôn nhân và gia đình năm 1986; Luật đất đai năm 1987; Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987; Luật quốc tịch năm 1988; các Nghị định số 27, 28, 29 ngày 9/3/1998 và số 170 ngày 14/11/1988 về kinh tế ngoài quốc doanh; các Nghị định số 85 ngày 13/5/1988, số 200 và 201 ngày28/12/1988 về sở hữu công nghiệp; Pháp lệnh về chuyển giao công nghệ năm 1988; Pháp lệnh sở hữu công nghiệp năm 1989; Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989; Pháp lệnh thừa kế năm 1990; Pháp lệnh nhà ở và Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991; Luật đất đai năm 1993; Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả năm 1994;..

Những kinh nghiệm từ việc áp dụng các văn bản nói trên đã được đúc kết; những nghiên cứu mang tính học thuật về di sản pháp luật dân sự Việt Nam, về tục lệ truyền thống, về luật so sánh,... cũng được thực hiện một cách nghiêm túc và khẩn trương, song song với việc áp dụng các văn bản này. Toàn bộ kết quả của những việc đó, cùng với các dự báo về khả năng phát triển của các quan hệ dân sự trong xã hội Việt Nam, đã đặt cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện dự án BLDS Việt Nam, được Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/6/1996. Có thể nói rằng BLDS 1995 là thành tựu lớn nhất của năm mươi năm xây dựng hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam hiện đại.

Sau mười năm áp dụng BLDS 1995; đến ngày 14 tháng 6 năm 2005 Quốc hội đã thông qua BLDS 2005 [có hiệu lực từ ngày 01/01/06] trên cơ sở kế thừa những nguyên tắc và nội dung cơ bản của BLDS 1995. Tuy còn nhiều bất cập nhưng BLDS 2005 đã thể hiện rõ hơn nguyên tắc tôn trọng sự tự thoả thuận và tự chịu trách nhiệm giữa các chủ thể trong quan hệ dân sự, giảm bớt sự can thiệp hành chính của Nhà nước vào các quan hệ dân sự.Quốc hội đã thông qua và ban hành BLDS 2015 thay thế BLDS 2005. Bộ luật dân sự mới với xu hướng thay thế những quy định không còn phù hợp với thực tế, mang đến một hệ thống pháp luật mới ổn định hơn, áp dụng dễ dàng hơn, bền vững hơn.

Thạc sỹ Phạm Ngọc Minh - Khoa Luật Trường Đại học Hòa Bình, tổng hợp

Liên kết đào tạo và hợp tác việc làm giữa Trường Đại học Hòa Bình và Công ty Luật TNHH Everest là hoạt động cần thiết để giải quyết thực trạng chênh lệch giữa nhu cầu của doanh nghiệp và sự đáp ứng của nhà trường. Hướng đến mục tiêu đào tạo 100% sinh viên có việc làm sau khi trường, Trường Đại học Hòa Bình triển khai liên kết chặt chẽ với Công ty Luật TNHH Everest trong công tác đào tạo sinh viên và tạo điều kiện việc làm cho sinh viên mới ra trường. Để được tư vấn pháp luật, Quý khách vui lòng gọi tới tổng đài tư vấn 19006198.

Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ.

Luật Dân sự Việt NamNhà nước Việt NamQuốc hội Việt Nam

Quốc huy

Mã số91/2015/QH13Ban hànhQuốc hội Việt Nam khóa XIIIHiệu lực1 tháng 1 năm 2017Toàn văn phiên bản hiện hànhChính phủBộ Luật Dân sựWikisoureBộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2015Quá trình lập pháp
  • Thông qua năm 1995
  • Sửa đổi năm 2005
  • Sửa đổi năm 2015
Phiên bản hết hiệu lực
  • Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1995
  • Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2005

Luật Dân sự Việt Nam là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ tài sản mang tính chất hàng hóa - tiền tệ và các quan hệ nhân thân trên cơ sở bình đẳng, độc lập của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ đó và có hiệu lực pháp lý trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.

Lịch sử

Trong giai đoạn nhà nước phong kiến, luật dân sự Việt Nam không được tách ra thành một bộ luật riêng mà được tìm thấy trong các điều khoản của các bộ luật phong kiến như Lê triều hình luật [Luật Hồng Đức], Nguyễn triều hình luật [Hoàng Việt luật lệ]. Đến khi người Pháp chiếm đóng Việt Nam thì các bộ luật dân sự được áp dụng riêng rẽ ở ba kỳ lần lượt xuất hiện. Ví dụ ở Nam Kỳ thì bộ luật dân sự Nam Kỳ giản yếu ra đời năm 1883, bộ dân luật Bắc Kỳ ra đời năm 1931 và tại Trung Kỳ là bộ dân luật Trung Kỳ [Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật] ra đời năm 1936.[1] Sau ngày 2 tháng 9 năm[1] 1945, do hoàn cảnh chiến tranh với người Pháp nên chính phủ của chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn áp dụng các bộ luật dân sự này. Ngày 22 tháng 5 năm 1950, chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 97/SL để "sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật" nhằm sửa đổi một số điều trong các bộ dân luật cũ này. Tại miền bắc Việt Nam, ngày 10 tháng 7 năm 1959 tòa án tối cao ra chỉ thị số 772/TATC để "đình chỉ việc áp dụng luật pháp cũ của phong kiến đế quốc".[2] Từ thời điểm đó trở đi, tại miền bắc Việt Nam thiếu hẳn bộ luật dân sự thực thụ. Một số mảng của luật dân sự được tách ra thành các bộ luật khác như Luật hôn nhân và gia đình hay các văn bản pháp quy dưới luật như thông tư, chỉ thị, nghị định, pháp lệnh. Tuy nhiên, nhiều lĩnh vực dân sự như thừa kế, quyền sở hữu trí tuệ v.v. không được điều chỉnh trực tiếp. Các quy định về nghĩa vụ dân sự được quy định chủ yếu là các vấn đề về nhà ở, vàng bạc, kim khí quý và đá quý v.v. và nói chung mang nặng tính chất hành chính. Có thể liệt kê một số văn bản pháp luật trong lĩnh vực dân sự như: Luật hôn nhân gia đình [1986], Luật Quốc tịch [1988], Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam [1988], Pháp lệnh về sở hữu công nghiệp [1989], Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế [1989], Pháp lệnh về thừa kế [1990][3], Pháp lệnh về Hợp đồng dân sự [1991][4], Pháp lệnh về nhà ở [1991][5] v.v. Tuy các pháp lệnh có nhiều nhưng đôi khi chồng chéo và mâu thuẫn với nhau nên đã gây ra nhiều khó khăn cho việc áp dụng pháp luật.

Năm 1995, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Bộ luật Dân sự [có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 1996].

Sau 10 năm thi hành, Bộ luật Dân sự đã có nhiều hạn chế, bất cập như: một số quy định không phù hợp với sự chuyển đổi nhanh của nền kinh tế thị trường, không rõ ràng hay không đầy đủ hoặc còn mang tính hành chính. Nhiều bộ luật mới ra đời có các nội dung liên quan đến Bộ luật Dân sự Việt Nam 1995 nhưng bộ luật này lại không điều chỉnh, sửa đổi dẫn đến mâu thuẫn giữa chúng cũng như chưa có sự tương thích với các Điều ước quốc tế và thông lệ quốc tế. Ngày 14 tháng 6 năm 2005, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Bộ luật Dân sự sửa đổi[6]. Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2006.

Ngày 24 tháng 11 năm 2015, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Bộ luật Dân sự sửa đổi lần 2[7]. Bộ Luật Dân sự Việt Nam 2015 có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2017.

Xem thêm

  • Luật Tố tụng Dân sự Việt Nam
  • Luật Hình sự Việt Nam
  • Luật Lao động Việt Nam
  • Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam
  • Luật Kinh tế Việt Nam

Liên kết ngoài

  • Tra cứu cơ sở dữ liệu pháp luật Việt Nam
  • Bộ luật Dân sự Việt Nam 1995 Lưu trữ 2006-11-05 tại Wayback Machine
  • Luật giao thông đường bộ Việt Nam
  • Bộ luật Dân sự Việt Nam 2015

Tham khảo

  1. ^ a b “Bộ Tư pháp tiếp tục phiên làm việc xây dựng Bộ luật Dân sự”. 4 tháng 8 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2014.
  2. ^ Lê Tiến Dũng. “Án lệ trong pháp luật Việt Nam”. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2014.
  3. ^ Pháp lệnh thừa kế năm 1990
  4. ^ Pháp lệnh về Hợp đồng dân sự năm 1991
  5. ^ Pháp lệnh về nhà ở năm 1991
  6. ^ “Bộ luật Dân sự 2005 số 33/2005/QH11”. thuvienphapluat.vn. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2022.
  7. ^ “Bộ luật dân sự 2015 số 91/2015/QH13”. thuvienphapluat.vn. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2022.

Bài viết liên quan đến Việt Nam này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.

  • x
  • t
  • s

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Luật_Dân_sự_Việt_Nam&oldid=68751294”

Video liên quan

Chủ Đề