Vì sao nguyễn du là đại thi hào

Nguyễn Du - Đại thi hào dân tộc

Nguyễn Du (1765 - 1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên. Ông sinh ra trong một gia đình đại quý tộc, có nhiều người ham thích viết sách, làm văn. Cha là Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm, quê ở xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh làm quan đến chức Tể tướng dưới triều Lê. Mẹ là bà Trần Thị Tần, quê ở Kinh Bắc, Bắc Ninh. Căn cứ vào xuất thân của bà Trần Thị Tần - con một gia đình bình thường ở vùng quan họ nổi tiếng, có truyền thống hát bội lại lấy lẽ một ông quan to trong triều, các nhà nghiên cứu rất có lý khi cho rằng mẹ Nguyễn Du là một cô gái đẹp và giỏi nghề ca xướng, thuộc nhiều ca dao, dân ca. Sống trong môi trường gia đình quan lại, có truyền thống văn học, tuổi thơ sống bên mẹ tạo đà cho năng khiếu văn học của Nguyễn Du có điều kiện nảy nở và phát triển rất sớm.

Nguyễn Du lúc nhỏ sống trong vàng son, nhung lụa của một cuộc sống quý tộc, giàu sang. Nhưng cuộc sống này kéo dài không bao lâu, những biến cố dữ dội của thời đại và của gia đình đã nhanh chóng đẩy nhà thơ ra giữa bão táp cuộc đời. Mười hai tuổi mồ côi cả cha lẫn mẹ, Nguyễn Du phải đến ở với người anh cả khác mẹ là Nguyễn Khản bấy giờ đang làm quan trong triều. Thời gian này, vì còn ít tuổi, Nguyễn Du vẫn tiếp tục đi học. Năm 1783, khi mười tám tuổi, ông đi thi hương và đậu tam trường, được tập ấm một chức quan của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên. Sau đó, Nguyễn Du lấy vợ là bà Đoàn Thị Huệ, người làng An Hải, huyện Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam (nay là tỉnh Thái Bình), con gái của tiến sĩ Đoàn Nguyễn Thục. Năm 1788, sau khi Tây Sơn kéo quân ra Bắc đánh tan hai mươi vạn quân Thanh, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, Nguyễn Du lánh về nhà anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn tại Thái Bình.

Mười năm sống ở Thái Bình là quãng đời "mười năm gió bụi", bao cảnh cơ hàn bần cực đã đến với Nguyễn Du. Khi bố vợ là Đoàn Nguyễn Thục mất, người con trai lớn mất, nhà thơ cùng người con trai thứ là Nguyễn Tứ về quê cũ ở xã Tiên Điền. Trong giai đoạn sống thiếu thốn, chật vật ở Thái Bình và Hà Tĩnh, Nguyễn Du có điều kiện gần gũi quần chúng, tiếp xúc quần chúng, hiểu được cuộc sống, lời ăn tiếng nói của quần chúng nhân dân, điều này đã góp phần không nhỏ làm nên những giá trị vượt thời gian trong kiệt tác Truyện Kiều sau này.

Khi Gia Long lên ngôi, Nguyễn Du ra làm quan cho nhà Nguyễn, trải qua nhiều chức quan trong triều, đến năm 1813, ông được thăng hàm Cần chánh điện học sĩ và được cử làm sứ đi Trung Quốc. Về nước, Nguyễn Du được thăng Hữu Tham tri Bộ Lễ. Khi vua Gia Long mất, Minh Mạng lên ngôi, ông được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong nhưng chưa kịp đi thì ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (6/9/1820), Nguyễn Du bị cảm bệnh và mất tại kinh thành Huế.

Di sản văn hóa Nguyễn Du để lại cho hậu thế gồm nhiều tác phẩm văn chương bất hủ, sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Sáng tác chữ Hán gồm "Thanh Hiên thi tập" với 78 bài chủ yếu viết trong những năm tháng trước khi ông ra làm quan nhà Nguyễn; "Nam trung tạp ngâm" gồm 40 bài thơ, viết trong giai đoạn Nguyễn Du làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía Nam Hà Tĩnh (từ 1805 - 1812); "Bắc hành tạp lục" với 131 bài thơ, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc. Sáng tác chữ Nôm gồm "Truyện Kiều", "Văn Chiêu hồn"... Trong số đó, Truyện Kiều được đánh giá là tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao, tinh hoa văn hóa dân tộc, kiệt tác văn học thế giới.

Truyện Kiều - tập đại thành của văn học trung đại Việt Nam

Truyện Kiều hay còn gọi "Đoạn trường tân thanh" là tác phẩm truyện thơ Nôm lục bát gồm 3.254 câu thơ kể về cuộc đời 15 năm lưu lạc, chìm nổi của Thúy Kiều. Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du đã dựa trên cốt truyện "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Nhìn chung, cốt truyện của "Kim Vân Kiều truyện" và Truyện Kiều khá giống nhau song trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã bỏ đi những chi tiết kể lể dài dòng, những đoạn miêu tả có tính chất tự nhiên chủ nghĩa, không có lợi đối với mỹ cảm của người đọc và không nhằm phục vụ chủ đề tác phẩm. Ông thêm vào rất nhiều đoạn tả cảnh, tả tình nhằm nêu rõ tính cách và tâm trạng của nhân vật. Sáng tạo của Nguyễn Du chính là ở chỗ nhà thơ đã cảm lại, nhận thức lại, sắp xếp lại tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân, gạn đục khơi trong, giữ lại những gì phù hợp với những điều trông thấy, những điều ông từng trải qua và thể hiện nó bằng ngòi bút tràn đầy cảm xúc của một nhà thơ chân chính.

Vì sao nguyễn du là đại thi hào

Vương Thúy Kiều - nhân vật trung tâm của tác phẩm là người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng vì gia biến phải bán mình chuộc cha, bị các thế lực phong kiến chà đạp, rơi vào cảnh "Thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần". Kể chuyện về một con người cụ thể, một hoàn cảnh cụ thể trong xã hội Trung Quốc đời nhà Minh song Truyện Kiều chính là bức tranh rộng lớn về cuộc sống thời đại Nguyễn Du, thời đại chế độ phong kiến đã đi vào giai đoạn khủng hoảng. Tác phẩm đã phơi bày bộ mặt xã hội phong kiến bất công, tàn bạo đồng thời phản ánh nỗi khổ đau, bất hạnh của con người đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội. Bên cạnh đó, thông qua việc điển hình hóa, cá thể hóa các nhân vật Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải, nhà thơ thể hiện khát vọng công lý, quyền tự do cá nhân của con người, ước mơ về tình yêu tự do, trong sáng, thủy chung giữa một xã hội bất công, tù túng đồng thời lên tiếng nói ngợi ca vẻ đẹp con người. Đó là vẻ đẹp của lòng hiếu thảo, trái tim nhân hậu, đức tính vị tha, thủy chung, chí khí anh hùng...

Về giá trị nghệ thuật, trong các vấn đề tranh luận về Truyện Kiều xưa nay, dường như một vấn đề duy nhất không có ý kiến trái ngược, đó là những thành tựu về ngôn ngữ văn học của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Hầu như tất cả các nhà nghiên cứu, bình luận Truyện Kiều đều khẳng định: Nguyễn Du là bậc thầy của ngôn ngữ dân tộc! Cũng giống như tất cả các tác phẩm văn học đương thời, ngôn ngữ trong Truyện Kiều gồm có hai thành phần thuần Việt và Hán Việt trong đó bộ phận từ thuần Việt chiếm phần đa và thường xuất phát từ hai nguồn: văn học dân gian (ca dao, tục ngữ, thành ngữ) và lời ăn tiếng nói của quần chúng nhân dân. Công đóng góp của Nguyễn Du về phương diện ngôn ngữ có ý nghĩa hết sức to lớn. Thông qua ngôn ngữ trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã khẳng định một cách đầy thuyết phục sự phong phú và khả năng diễn đạt to lớn của ngôn ngữ dân tộc. Đánh giá về ngôn ngữ Truyện Kiều trong lời đầu sách Từ điển Truyện Kiều (1974), Giáo sư Đào Duy Anh viết: "Trong lịch sử ngôn ngữ và lịch sử văn học Việt Nam, nếu Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học dân tộc thì Nguyễn Du với Truyện Kiều là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học hiện đại của nước ta...".

Bên cạnh đó, trong Truyện Kiều, thể thơ lục bát dân tộc đã đạt tới đỉnh cao rực rỡ của nghệ thuật thi ca. Nghệ thuật tự sự cũng đã có bước phát triển vượt bậc, từ nghệ thuật dẫn chuyện đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, khắc họa tính cách và miêu tả tâm lý nhân vật.

Với giá trị nhân văn mang tầm thời đại, những đóng góp to lớn về phương diện nghệ thuật - nhất là cách sử dụng ngôn ngữ, hàng trăm năm nay, Truyện Kiều xứng đáng là kiệt tác văn học dân tộc, mang sức sống lâu bền trong lòng độc giả, được lưu truyền rộng rãi và là cảm hứng sáng tác cho rất nhiều những tác phẩm thi ca, nhạc họa sau này. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã vượt qua rào cản ngôn ngữ để đến với bạn đọc nhiều nước trên thế giới, ghi dấu ấn văn học Việt Nam trên thi đàn quốc tế, góp phần đưa văn học Việt Nam trở thành một phần của tinh hoa văn hóa nhân loại.

Vì sao nguyễn du là đại thi hào

Nhà thơ Ánh Tuyết, Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Thái Bình, Trưởng Văn phòng đại diện Hội Kiều học Việt Nam tại Thái Bình

Hội Kiều học Việt Nam tại Thái Bình ra đời năm 2013 nhằm tuyên truyền, giữ gìn và phát huy di sản văn hóa Truyện Kiều, đồng thời nghiên cứu, sưu tầm những tư liệu, những ý kiến phê bình, phát hiện về Nguyễn Du và Truyện Kiều. Từ khi thành lập, Hội đã công bố hai cuốn sách "Thái Bình với Nguyễn Du và Truyện Kiều" tập 1 và tập 2, tập hợp nhiều bài nghiên cứu, nhiều sáng tác thể hiện tấm lòng của người Thái Bình với Nguyễn Du và Truyện Kiều. Hy vọng, đây sẽ là những tư liệu quý, góp phần vào quá trình nghiên cứu Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều.

Vì sao nguyễn du là đại thi hào

Nhà thơ Lại Tây Dương, thành phố Thái Bình

Nhờ Đại thi hào Nguyễn Du, ngôn ngữ dân tộc Việt Nam trở lên lấp lánh, có hồn và tạo ra được bản sắc riêng biệt. Truyện Kiều là một truyện thơ dài với hơn ba nghìn câu nhưng không câu nào "đuối". Cách nhà thơ sử dụng ngôn ngữ thực sự mang tính phát hiện, sáng tạo, tài tình. Đọc, ngẫm và nghiên cứu Truyện Kiều, tôi đã học được cách dùng từ, sử dụng biện pháp tu từ đạt hiệu quả cao, từ đó vận dụng trong các sáng tác của mình.

Vì sao nguyễn du là đại thi hào

Anh Vũ Văn Pho, cán bộ tư pháp phường Lê Hồng Phong, thành phố Thái Bình

Được học Truyện Kiều của Nguyễn Du trên ghế nhà trường, tôi thực sự tự hào vì đất nước mình có một kiệt tác văn học mang tầm thế giới. Đọc Truyện Kiều, nhìn về quá khứ, tôi thấy may mắn vì mình được sinh ra và lớn lên trong xã hội quyền dân chủ được đề cao, con người được tôn trọng, được tự do trong tình yêu lứa đôi.

Vũ Hường

Đề bài: Em hiểu gì về đại thi hào Nguyễn Du?

Vì sao nguyễn du là đại thi hào

  • Vì sao nguyễn du là đại thi hào

  • Vì sao nguyễn du là đại thi hào

  • Vì sao nguyễn du là đại thi hào

  • Vì sao nguyễn du là đại thi hào

Bạn đang xem: Em hiểu gì về đại thi hào Nguyễn Du?

Phần 1: Dàn ý em hiểu gì về đại thi hào Nguyễn Du?

Xem chi tiết Dàn ý em hiểu gì về đại thi hào Nguyễn Du? tại đây

Phần 2: Bài văn mẫu Em hiểu gì về đại thi hào Nguyễn Du?

Nguyễn Du, một nhà thơ, nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam được nhân dân ta kính trọng tôn xưng là “Đại thi hào dân tộc”. Có thể nói Nguyễn Du không chỉ là một nhân vật kiệt xuất của thơ ca nước nhà mà còn là danh nhân văn hóa thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Du để lại cho đời khối lượng tác phẩm tuy không đồ sộ nhưng mang giá trị đặc biệt, trở thành di sản văn học và văn hóa dân tộc.

Tiểu sử Nguyễn Du:

Nguyễn Du sinh năm 1766 mất năm 1820, tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, nguyên quán ở xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh – mảnh đất từ lâu đã được mệnh danh là vùng đất địa linh nhân kiệt. Nguyễn Du sinh ra trong một gia đình có truyền thống hiếu học, học vấn uyên bác lại là gia đình quý tộc đương thời rất có thế lực, cha ông là Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm làm quan Tể tướng dưới triều Lê, mẹ là Trần Thị Tần quê ở Bắc Ninh.

Cuộc đời và con người:

Thời thơ ấu được sống trong gia đình gia giáo lại giàu sang nhưng cuộc sống trong nhung lụa kéo dài chưa tròn mười năm. Năm 10 tuổi ông mất cha, 3 năm sau ông mất mẹ, cuộc đời của anh em Nguyễn Du nói chung và của Nguyễn Du nói riêng bắt đầu trải qua sóng gió và chìm nổi trong biến động thời đại. Năm 1783, Nguyễn Du tham gia thi Hương ở trường Sơn Nam và đậu Tam trường, lấy con gái của Đoàn Nguyên Thục làm vợ và giữ chức quan võ nhỏ. Năm 1786, quân Tây Sơn đánh ra Bắc Hà, Nguyễn Du chạy theo vua Lê Chiêu Thống nhưng không kịp nên trở về quê vợ ở huyện Quỳnh Côi – Thái Bình. Sau đó Nguyễn Du về Nghệ An, tại đây ông bị quân Tây Sơn bắt giữ, giam ba tháng, trải qua cuộc sống chật vật tại Hà Tĩnh mãi đến năm 1802 khi Nguyễn Ánh lên ngôi, ông được gọi ra làm quan dưới triều Nguyễn, nhận chức Tri huyện huyện Phù Dung (nay thuộc Khoái Châu – Hưng Yên). Kể từ năm đó, Nguyễn Du giữ nhiều chức quan như Đông Các điện học sĩ, Giám khảo trường thi Hải Dương, Cai bạ dinh Quảng Bình, Cần Chánh điện học sĩ, Chánh sứ đi Trung Quốc. Năm 1814, ông đi về được thăng chức Hữu tham Tri Bộ Lễ, đến năm 1820 khi vua Gia Long mất, ông tiếp tục đi sứ Trung Quốc nhưng chưa kịp lên đường đã đột ngột qua đời tại kinh đô Huế. Nguyễn Du được an táng tại Huế sau đó được cải táng đưa về quê nhà Hà Tĩnh. Nhà thơ trải qua những năm tháng sóng gió và lận đận của cuộc đời nên vô cùng thấm thía mọi nỗi đau của con người đặc biệt là kiếp người lao động bần hàn, thấp kém, chính điều đó đã tạo nên lòng nhân đạo lớn trong con người Nguyễn Du. Sống giữa giai đoạn lịch sử đầy biến động cũng ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của Nguyễn Du, tư tưởng ấy có phần phức tạp và khá mâu thuẫn, tuy nhiên dù ở thời nào trong ông vẫn luôn có những hoài bão, lý tưởng lớn.

Sự nghiệp thơ ca:

Nguyễn Du là người tài cao học rộng, sớm tiếp cận với nền văn học, thơ ca từ gia đình và dòng họ nên có thể nói Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác. Các sáng tác của Nguyễn Du được lưu hành ngay từ thời ông còn sống, giàu giá trị tư tưởng và nghệ thuật. Các sáng tác thơ ca của Nguyễn Du được chia thành hai mảng bao gồm thơ sáng tác bằng chữ Hán và thơ sáng tác bằng chữ Nôm. Thơ chữ Hán của ông gồm có 249 bài thơ được chia thành ba tập thơ lớn là: Thanh Hiên thi tập (78 bài viết trước khi làm quan triều Nguyễn), Nam Trung tạp ngâm (40 bài viết khi làm quan), Bắc hành tạp lục (131 bài viết trong những chuyến đi sứ). Thơ chữ Nôm của Nguyễn Du gồm có: Đoạn trường tân thanh (gồm 3254 câu thơ lục bát), Văn chiêu hồn (Văn tế thập loại chúng sinh – 184 câu song thất lục bát), Thác lời trai phường nón (48 câu lục bát), Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ (98 câu lối văn tế). Về mặt tư tưởng, các tác phẩm của Nguyễn Du đi theo khuynh hướng hiện thực, tức là ghi chép một cách chân thực và sinh động những diễn biến lịch sử, số phận con người trong xã hội đương thời. Bên cạnh đó là tư tưởng nhân đạo xuyên suốt, vừa có cảm thông sâu sắc, vừa ca ngợi trân trọng lại có sự phê phán, tố cáo. Về mặt nghệ thuật, những sáng tác của Nguyễn Du đóng góp quan trọng của sự phát triển văn học, văn hóa dân tộc. Thơ chữ Hán tài hoa lỗi lạc, thơ chữ Nôm đạt đến đỉnh cao rực rỡ.

Kết luận

Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Du đã trở thành di sản về tư tưởng và nghệ thuật của cả dân tộc Việt Nam. Ông là một nhà thơ lỗi lạc, kiệt xuất, hết mình và hết đời vì nghệ thuật. Trải qua thời gian, bức tượng đài của Đại thi hào dân tộc ngày càng ngời sáng.

Đăng bởi: THPT Sóc Trăng

Chuyên mục: Giáo Dục

Bản quyền bài viết thuộc trường THPT Sóc Trăng. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!

Nguồn chia sẻ: Trường THPT Thành Phố Sóc Trăng (thptsoctrang.edu.vn)