Bài thu hoạch về kinh tế thị trường định hướng XHCN

Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.

Bài thu hoạch về kinh tế thị trường định hướng XHCN

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. 1 Phần 1: Mở đầu Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế tất yếu khách quan của nền sản   xuất lưu thông hàng hóa đã phát triển. Kinh tế  thị  trường ra đời như  một  quá trình lịch sử  tự  nhiên. Trong bối cảnh thế  giới ngày nay, kinh tế  thị  trường đang trở thành mô hình kinh tế phát triển có hiệu quả và nhiều quốc   gia trong đó có Việt Nam đã và đang phát triển mô hình này. Định hướng xã hội chủ  nghĩa là yêu cầu được Đảng đặt ra ngay từ  khi xác định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần   (Đại hội VII) và nền kinh tế thị trường (Đại hội IX). Đến nay, những yếu   tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường là: có   sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản   Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công   bằng, văn minh”; kinh tế nhà nước giữ  vai trò chủ  đạo, doanh nghiệp nhà  nước giữ  vị  trí then chốt; kinh tế  nhà nước cùng với kinh tế  tập thể  ngày   càng trở  thành nền tảng của nền kinh tế. Việc hệ  thống từng bước phát  triển về nhận thức của Đảng đối với kinh tế thị trường định hướng xã hội   chủ nghĩa ở Việt Nam không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà nó còn mang   ý nghĩa thực tiễn sâu sắc giúp chúng ta hình thành một khung lý luận đầy   đủ và hệ thống về kinh tế thị trường, tạo động lực để  phát triển nhanh và  bền vững; đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh  công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền kinh tế  độc lập, tự  chủ  và   hội nhập quốc tế; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội [2, tr.3]. Chính vì  vậy, tôi  đã chọn đề  tài “Quá trình nhận thức của  Đảng về  kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phân tích thực trạng và nêu 
  2. 2 giải pháp bảo đảm tính định hướng xã hội chủ  nghĩa trong phát triển nền  kinh tế thị trường ở nước ta” làm bài thu hoạch hết môn. Phần 2: Nội dung 1. Khái niệm về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ  nghĩa Khái niệm kinh tế  thị  trường:  là trình độ  phát triển cao của kinh tế  hàng hóa, trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất   đều thông qua thị trường [7, tr.199]. Kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa là mô hình kinh tế  đặc thù trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, chưa có tiền  lệ trong nền kinh tế thế giới. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã  hội chủ nghĩa được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX   của Đảng (năm 2011). Đây là kết quả của quá trình 15 năm đổi mới tư duy   và thực tiễn ở nước ta, được đúc kết lại trên cơ sở đánh giá và rút ra các bài  học lớn qua các kỳ Đại hội Đảng trước. Theo tinh thần đó, Đại hội IX xác   định: “phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ  chế  thị  trường, có sự  quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ  nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ  nghĩa” [7,  tr.214]. 2. Quá trình nhận thức của Đảng về  kinh tế  thị  trường định  hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Đại hội VI của Đảng (1986) mở ra thời kỳ đổi mới đất nước, đã phê  phán sâu sắc các quan điểm chủ trương giáo điều, chủ quan, nóng vội, duy  ý chí, không tôn trọng quy luật khách quan trong đường lối phát triển kinh  
  3. 3 tế đất nước nhiều năm trước. Đại hội đề ra đường lối đổi mới để đưa đất  nước ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế  ­xã hội. Tuy nhiên,  ở  thời điểm  này, quan điểm của Đảng tập trung vào tháo gỡ những rào cản, những yếu  tố  trực tiếp cản trở, kìm hãm sản xuất để  giải phóng sức sản xuất; quan   điểm về phát triển nền kinh tế thị trường mới manh nha  ở những ý tưởng  ban đầu. Đại hội đề ra đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,   trên cơ sở “củng cố thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa” và “sử dụng mọi   khả  năng của các thành phần kinh tế  khác” [  3, tr.44,    ], khẳng định cơ  cấu  kinh tế  nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ  quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội. Đại hội đề ra chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xóa  bỏ cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế quản lý   kinh tế mới, “mở rộng giao lưu hàng hóa, xóa bỏ tình trạng ngăn sông, cấm  chợ, chia cắt thị trường theo địa giới hành chính”, “thi hành chính sách một   giá, đó là giá kinh doanh thương nghiệp” [3, tr.71,73]. Đại hội VII của Đảng (1991) đã hình thành quan điểm về phát triển   nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ  nghĩa.  Đại hội xác định “tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần  và đổi mới cơ  chế  quản lý kinh tế”  [ 3, tr.273    ] , khẳng định “phát huy thế  mạnh của các thành phần kinh tế, vừa cạnh tranh, vừa hợp tác, bổ sung cho   nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất”   [  3, tr.273 ] , “cơ chế vận hành  nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là  cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước” [3, tr.274].  Đại hội VIII của Đảng (1996) khẳng định “sản xuất hàng hóa không  đối lập với chủ  nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh   nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa 
  4. 4 xã   hội” [ 3,   tr.481 ] .   Đại   hội   chủ   trương   thực   hiện   “cổ   phần   hóa   doanh  nghiệp nhà nước để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh  nghiệp làm ăn có hiệu quả”, “phát triển kinh tế hợp tác với nhiều hình thức  đa dạng, từ  thấp đến cao…; phân phối theo kết quả  lao động và theo cổ  phần” [ 3, tr. 479 ] ; “Nhà nước quản lý thị trường bằng pháp luật, kế hoạch,  cơ chế, chính sách, các công cụ đòn bẩy kinh tế và bằng nguồn lực của khu   vực kinh tế nhà nước” [ 3, tr.482 ] .  Đại hội IX của Đảng (2001) lần đầu tiên xác định “nền kinh tế hàng  hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ  chế  thị  trường có sự  quản lý của   nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế thị trường   định hướng xã hội chủ nghĩa” và “đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước  ta trong thời kỳ quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội”  [ 3, tr.637 ] . Đại hội xác định  “mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát   triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế  để  xây dựng cơ  sở  vật chất ­  kỹ  thuật của chủ  nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân” [3, tr.636] và  chủ  trương “sử  dụng cơ  chế  thị  trường, áp dụng các hình thức kinh tế  và   phương pháp quản lý của kinh tế  thị  trường để  kích thích sản xuất, giải  phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu  cực của cơ chế thị trường”  [ 3, tr.637 ] . Đại hội X của Đảng (2006) nêu rõ phát triển nền kinh tế  thị  trường  định hướng xã hội chủ  nghĩa là để  “thực hiện mục tiêu dân giàu, nước  mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”  [ 4, tr.77 ] . Đại hội lần đầu tiên  xác định “kinh tế  tư  nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động  lực của nền kinh tế”.
  5. 5 Đại hội XI của Đảng (2011) xác định hoàn thiện thể  chế kinh tế thị  trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong ba đột phá chiến lược để  phát triển đất nước. Đại hội chỉ  rõ nền kinh tế  thị  trường định hướng xã  hội chủ nghĩa “là một hình thức kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy  luật của kinh tế thị  trường, vừa dựa trên cơ  sở  và được dẫn dắt, chi phối  bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”  [ 5, tr.205 ]  . Đại hội  đã đưa vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ  quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) quan điểm “phát triển nền kinh  tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa” và xác định đây là một trong  tám phương hướng cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt  Nam. Đại hội XII của Đảng thể  hiện những nhận thức mới nhất, đầy đủ  nhất về  nền kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa. Đó “là nền  kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường,   đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ  nghĩa phù hợp với từng giai   đoạn phát triển của đất nước, là nền kinh tế  thị  trường hiện đại và hội  nhập quốc tế, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do  Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh,  dân chủ, công bằng, văn minh” [ 6, tr.102 ] ; “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ  đạo, kinh tế  tư  nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Thị  trường đóng vai trò chủ  yếu trong huy động và phân bổ  có hiệu quả  các   nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các  nguồn lực nhà nước được phân bổ  theo chiến lược, quy hoạch, kế  hoạch  phù hợp với cơ chế thị trường”  [ 6, tr.103 ] . 
  6. 6 3. Thực trạng xây dựng kinh tế  thị  trường định hướng xã hội  chủ nghĩa ở Việt Nam   Qua hơn 30 năm đổi mới, nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết Trung  ương 6 khoá X, Đảng ta luôn quan tâm tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý  luận, rút ra các bài học kinh nghiệm, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế  kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn   phát triển, góp phần quan trọng đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát  triển, trở  thanh quôc gia có thu nh ̀ ́ ập trung bình, giữ  vững định hướng xã  hội chủ nghĩa; bảo đảm an sinh xã hội, không ngừng nâng cao đời sống của   nhân dân, bảo vệ môi trường, củng cố quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu  quả đối ngoại, hội nhập quốc tế. Nhận thức về  nền kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa  ngày càng đầy đủ  hơn; kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa  ngày càng có nhiều đặc điểm của nền kinh tế  thị  trường hiện đại và hội  nhập. Hê thông phap luât, c ̣ ́ ́ ̣ ơ  chê, chinh sach ngay càng hoan thiên va phu ́ ́ ́ ̀ ̀ ̣ ̀ ̀  hợp hơn vơi luât phap quôc tê, đông th ́ ̣ ́ ́ ́ ̀ ơi đap  ̀ ́ ứng yêu câu th ̀ ực tiễn và thực   ̣ ́ ̣ ̣ ́ ́ ế độ sở hữu, các thành phần kinh tế, loại   hiên cam kêt hôi nhâp quôc tê. Ch hình doanh nghiệp phát triển đa dạng, tương đôi đây đu. Hiêu qua va s ́ ̀ ̉ ̣ ̉ ̀ ưć   ̣ ̉ ́ ược nâng lên. Việc đổi mới, sắp xếp, cơ  cấu  canh tranh cua nên kinh tê đ ̀ lại, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh; kinh tế tập  thể được quan tâm đôi m ̉ ơi; kinh t ́ ế tư nhân ngày càng được coi trọng; đôị   ngu doanh nhân không ng ̃ ưng l ̀ ơn manh; thu hút v ́ ̣ ốn đầu tư nước ngoài đaṭ   được kêt qua tich c ́ ̉ ́ ực. ­ Các yếu tố  thị  trường va cac loai thi tr ̀ ́ ̣ ̣ ương đ ̀ ược hình thành đồng  bộ  hơn, gắn kết với thị  trường khu vực và thế  giới. Môi trường đầu tư, 
  7. 7 kinh doanh được cải thiện va thông thoang h ̀ ́ ơn; quyên t ̀ ự do kinh doanh và  ̣ ̀ ̉ canh tranh binh đăng gi ưa cac doanh nghiêp thuôc cac thanh phân kinh tê ̃ ́ ̣ ̣ ́ ̀ ̀ ́  được bao đam h ̉ ̉ ơn. ­ Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa  ̣ dang vê hinh th ̀ ̀ ưc, t ́ ưng b ̀ ươc thich  ́ ́ ưng v ́ ơi nguyên tăc va chuân m ́ ́ ̀ ̉ ực cuả   ̣ ương toan câu. Ph thi tr ̀ ̀ ̀ ương thức lãnh đạo của Đảng, hoat đông cua Nhà ̣ ̣ ̉   nước từng bước được đổi mới phu h ̀ ợp hơn vơi yêu c ́ ầu phát triển nền   kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Tư tưởng, đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội   chủ  nghĩa đã từng bước được thể  chế  hoá thành pháp luật, cơ  chế, chính  sách. Trong 30 năm đổi mới, Quốc hội đã ba lần sửa đổi và ban hành Hiến  pháp, sửa đổi và ban hành trên 150 bộ  luật và luật;  Ủy ban Thường vụ  Quốc hội ban hành trên 70 pháp lệnh, tạo cơ sở pháp lý cho sự chuyển đổi  và vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng đã ban hành và lãnh đạo tổ chức thực hiện nhiều nghị quyết, chủ  trương về  kinh tế; kịp thời điều chỉnh những chủ  trương, giải pháp phù  hợp với sự thay đổi của tình hình, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại  nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh... Sự quản lý,   điều hành của Nhà nước đối với kinh tế  thị  trường sát thực và hiệu quả  hơn. Phát huy dân chủ, thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò làm chủ về kinh  tế của nhân dân. Thực lực của nền kinh tế tăng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; lạm   phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế được duy trì hợp lý và được đánh   giá là thuộc nhóm nước có mức tăng trưỏng khá cao trên thế giới. Tuy nhiên, kinh tế chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển  
  8. 8 sang phát triển theo chiều sâu; thiếu bền vững [1, tr.73].   Hệ  thống luật  pháp, cơ chế, chính sách chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, chất lượng chưa cao,  tiến độ ban hành còn chậm; việc tuyên truyền, phổ biến, thực thi pháp luật   còn nhiều hạn chế. Cơ  cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Quyền tự do kinh   doanh chưa được tôn trọng đầy đủ, môi trường kinh doanh chưa thật sự  bảo đảm cạnh tranh công bằng, lành mạnh giữa các doanh nghiệp thuộc   mọi thành phần kinh tế. Doanh nghiệp gia nhập, hoạt động và rút lui khỏi  thị  trường còn gặp nhiều vướng mắc. Giá cả  một số  hàng hóa, dịch vụ  thiết yếu chưa thật sự  tuân thủ  theo nguyên tắc và quy luật kinh tế  thị  trường. Quản trị  doanh nghiệp còn yếu kém, chưa theo kịp các tiêu chuẩn  quốc tế và chưa đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường. Doanh nghiệp nhà  nước, trong đó có nhiều tập đoàn kinh tế  và tổng công ty nhà nước, chưa   thể hiện được đầy đủ vai trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước;   hoạt động sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả thấp, để xảy ra lãng phí, thất   thoát. Kinh tế  tập thể  còn nhiều mặt yếu kém kéo dài. Doanh nghiệp tư  nhân phổ  biến là quy mô nhỏ. Doanh nghiệp có vốn đầu tư  nước ngoài  chưa đáp ứng mục tiêu, yêu cầu chuyển giao công nghệ, nhất là công nghệ  cao, công nghệ  nguồn, và trình độ  quản lý tiên tiến; phần đông vẫn hoạt   động trong các ngành sử  dụng nhiều lao động, khai thác tài nguyên; nhiều  doanh nghiệp chỉ hướng vào thị trường trong nước. Sử dụng vốn vay ODA,   đầu tư  công hiệu quả  chưa cao. Một số  yếu tố thị trường phát triển chưa   đồng bộ, quy mô, cơ  cấu và trình độ  các loại thị  trường còn hạn chế, bất  cập. Kinh tế  vĩ mô  ổn định chưa vững chắc,  tốc  độ  tăng trưởng kinh tế  suy giảm, chậm phục hồi; nợ xấu giảm dần nhưng còn cao, nợ  công tăng   nhanh; thị  trường tài chính, thị  trường bất động sản phát triển thiếu lành 
  9. 9 mạnh, tiềm  ẩn nhiều rủi ro. Sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp  đang phải đối mặt với nhiều khó khăn. Việc thực hiện các giải pháp đột  phá theo chủ  trương của Đại hội XI về  đổi mới mô hình tăng trưỏng, cơ  cấu lại nền kinh tế còn chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động   và sức cạnh tranh của nền kinh tế  thấp. Mức độ  tham gia vào mạng sản  xuất và chuỗi giá trị toàn cầu còn rất hạn chế. Thể chế kinh tế thị trường  định hướng xã hội chủ nghĩa, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng  chưa đồng bộ, chậm được hoàn thiện; tham nhũng, lãng phí còn nghiêm  trọng và diễn biến phức tạp; nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh t ế ngày càng  bộc lộ  rõ. Luật pháp, cơ  chế, chính sách phát triển kinh tế  còn không ít  những chồng chéo và mâu thuẫn; cơ  chế  phân phối còn nhiều bất hợp lý;  phân bổ các nguồn lực dàn trải, có biểu hiện bị chi phối bởi cơ chế “xin ­   cho”, “lợi ích nhóm”. Tổ  chức và hoạt động của bộ  máy nhà nước chậm được đổi mới.  Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế chưa đáp ứng yêu cầu phát  triển nền kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa, chưa phát huy  đầy đủ  những mặt tích cực  và hạn chế  tính tự  phát, tiêu cực, khuyết tật  của kinh tế  thị  trường; chưa tách biệt rõ chức năng chủ  sở  hữu với chức   năng quản lý của Nhà nước, chức năng quản lý nhà nước với chức năng  sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Hoạt động kiểm toán,  kiểm tra, giám sát còn trùng lặp, hiệu lực và hiệu quả chưa cao. Tính công  khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình còn thấp, chưa thiết lập được cơ  chế đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước theo  kết quả đầu ra.
  10. 10 4. Giải pháp đảm bảo tính định hướng xã hội chủ  nghĩa trong  phát triển nền kinh tế thị trường 4.1.   Thống   nhất   nhận   thức   về   nền   kinh   tế   thị   trường   định   hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta Đó là nền kinh tế  vận hành đầy đủ, đồng bộ  theo các quy luật của  kinh tế  thị  trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ  nghĩa phù  hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; là nền kinh tế  thị  trường  hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã  hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân  giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". 4.2. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành   phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; phát triển đồng bộ  các yếu   tố thị trường và các loại thị trường ­ Hoàn thiện thể chế về sở hữu, gồm: Thể chế hoá đầy đủ quyền sở  hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân đã được quy định trong Hiến  pháp năm 2013; hoàn thiện pháp luật về đất đai; hoàn thiện thể chế về sở  hữu   trí   tuệ,…nphát   triển   các   thành   phần   kinh   tế,   các   loại   hình   doanh  nghiệp… ­ Hoàn thiện thể  chế  phát triển đồng bộ  các yếu tố  thị  trường bao   gồm: cơ  chế  giá thị  trường, cải cách mạnh mẽ  chính sách tài chính, thực   hiện bình đẳng trong tiếp cận các yếu tố  đầu vào của các doanh nghiệp   thuộc mọi thành phần kinh tế.
  11. 11 4.3. Gắn  kết tăng trưởng kinh tế  với bảo  đảm phát triển bền   vững, tiến bộ  và công bằng xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ  môi   trường và ứng phó với biến đổi khí hậu ­ Tích cực triển khai chiến lược tăng trưởng xanh. Kết hợp chặt chẽ  phát triển kinh tế nhanh và bền vững với phát triển xã hội bền vững, thực   hiện tiến bộ, công bằng xã hội, tạo cơ hội cho mọi thành viên trong xã hội  tham gia bình đẳng và thụ  hưởng công bằng thành quả  từ  quá trình phát  triển. Tập trung nguồn lực thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về  giảm nghèo bền vững. ­ Hoàn thiện thể chế về kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc  phòng, an ninh. Có cơ  chế  huy động các nguồn lực xã hội tham gia phát  triển kinh tế  các vùng biên giới trên đất liền, trên biển và hải đảo; phát   triển các khu kinh tế ­ quốc phòng.  4.4. Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế ­ Triển khai và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư  Ban Chấp hành Trung  ương Đảng khoá XII về thực hiện có hiệu quả tiến  trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị ­ xã hội trong bối   cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. ­ Rà soát, điều chỉnh, bổ sung hệ thống pháp luật và các thiết chế, cơ  chế liên quan đáp ứng yêu cầu thực hiện các cam kết quốc tế. Xây dựng và   hoàn thiện cơ  chế  phối hợp điều hành giữa các bộ, ngành, địa phương   trong thực thi các cam kết hội nhập và tiếp cận thị trường.  4.5. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, vai trò xây dựng và   thực hiện thể chế kinh tế của Nhà nước; phát huy quyền làm chủ của  
  12. 12 nhân dân trong hoàn thiện thể  chế  kinh tế  thị  trường định hướng xã   hội chủ nghĩa Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng về kinh tế ­ xã  hội; nâng cao năng lực xây dựng và thực hiện thể chế của Nhà nước; phát  huy quyền làm chủ của nhân dân, sự  tham gia của Mặt trận Tổ quốc Việt   Nam và các tổ  chức chính trị  ­ xã hội, xã hội ­ nghề  nghiệp , mở  rộng thu  thập ý kiến đánh giá từ  doanh nghiệp và người dân đối với quá trình triển   khai thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của  Nhà nước. Phần 3: Kết luận Điểm đột phá trong nhận thức của Đảng ta là đã khẳng định kinh tế  thị  trường không phải là sản phẩm riêng có của chủ  nghĩa tư  bản, mà là  thành tựu chung của nhân  loại. Thực tiễn và kinh nghiệm lịch sử  đã cho  thấy, muốn giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, muốn đạt tới sự  phồn vinh về  kinh tế, tạo ra tiềm lực phát triển đất nước thì không một   quốc gia nào không phải đi qua con đường phát triển kinh tế  thị  trường.  Kinh tế  thị  trường tự  nó không thể  đi đến chủ  nghĩa xã hội, nhưng sự  nghiệp xây dựng chủ  nghĩa xã hội phải thông qua phát triển kinh tế  thị  trưòng. Kinh tế  thị  trường định hướng xã hội chủ  nghĩa tuân theo những  quy luật của kinh tế  thị  trường, đồng thời được định hướng, dẫn dắt, chi   phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội trong từng chặng  đường phát triển của thời kỳ quá độ. Thực chất việc giải quyết mối quan  
  13. 13 hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là nhận thức và  vận dụng các quy luật khách quan của kinh tế  thị  trường nhằm xây dựng  thể  chế  kinh tế  bảo đảm cho nền kinh tế  tăng trưởng, phát triển nhanh,  bền vững, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.


Page 2

YOMEDIA

Bài thu hoạch môn Kinh tế chính trị: Quá trình nhận thức của Đảng về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm phân tích thực trạng và nêu giải pháp bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.

21-09-2020 425 41

Download

Bài thu hoạch về kinh tế thị trường định hướng XHCN

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.