Phân tích mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn

Giảng dạy LLCT trong các trường đại học là công việc quan trọng như Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định. Bởi, sản phẩm đào tạo của các trường đại học ở nước ta không thể là những người mơ hồ mà phải là những cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, trung thành và bảo vệ đến cùng nền tảng lý luận, mục tiêu, đường lối chính trị và bản thân vai trò lãnh đạo của Đảng ta, Đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo nhân dân ta trong tiến trình cách mạng. Điều đó, việc giảng dạy LLCT cho sinh viên phải thường xuyên không chỉ có trang bị kiến thức mà cả tình cảm cách mạng để cho mỗi sinh viên, học viên tốt nghiệp ra trường có đủ niềm tin và năng lực tự nắm bắt lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, năng lực nắm bắt thực tiễn và năng lực sử dụng nghiệp vụ để tác nghiệp với chất lượng cao theo chuyên ngành đào tạo.

Để đạt được mục tiêu như xác định, đòi hỏi giảng viên phải hiểu rõ bản chất và biết vận dụng mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình giảng dạy và chỉ đạo, hướng dẫn sinh viên, học viên học tập, nghiên cứu.

1. Một số vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn

Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù trung tâm của triết học Mác - Lênin. Nó không chỉ bó hẹp trong phạm vi dùng để giải thích quá trình nhận thức mà còn có nhiều ý nghĩa về thế giới quan. Chúng ta cần nhận thức sâu sắc rằng, trong phạm vi mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn, với việc đưa ra phạm trù thực tiễn vào lý luận, C.Mác và Ph.Ăngghen đã thực hiện một bước chuyển cách mạng trong lý luận nói chung và trong lý luận nhận thức nói riêng.

Vậy, thực tiễn là gì?

Thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Như vậy, phạm trù thực tiễn có hai đặc trưng quan trọng nhất:

Một là, thực tiễn là hoạt động vật chất tác động lên đối tượng vật chất tạo ra giá trị vật chất.

Hai là, hoạt động trực tiếp làm biến đổi thế giới khách quan.

Thực tiễn bao gồm nhiều yếu tố và nhiều dạng hoạt động, ta có thể khái quát hoạt động thành ba dạng cơ bản: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.

Như vậy, thực tiễn không phải là bản thân thực tại khách quan, không phải là khách thể, cũng không phải là con người, chủ thể mà là sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể. Thông qua sự tác động qua lại đó, chủ thể giải quyết nhu cầu trước hết là tạo ra những vật phẩm không có sẵn trong tự nhiên để tồn tại và phát triển, đồng thời giải quyết nhu cầu khách thể, nhu cầu hình thành lý luận về khách thể. Vì vậy, giữa lý luận và thực tiễn có mối liên hệ biện chứng.

Cống hiến vĩ đại nhất của các nhà sáng lập triết học Mác - Lênin là lần đầu tiên trong lịch sử đã khám phá ra vai trò quyết định của thực tiễn xã hội đối với lý luận. Họ đã chứng minh rằng, thực tiễn của con người không chỉ là cơ sở quan trọng nhất và mục đích cuối cùng của toàn bộ nhận thức, mà là tiêu chuẩn quyết định của chân lý. Tuy nhiên, không nên hiểu luận điểm, thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan của chân lý theo kiểu, mỗi một lý thuyết khoa học cần phải được kiểm tra trực tiếp bằng thực tiễn. Dĩ nhiên có nhiều luận điểm lý thuyết đúng thực tiễn được luận chứng bằng con đường logic mà không trực tiếp dựa vào thực tiễn. Nhưng từ đó tuyệt nhiên không thể suy ra rằng, tiêu chuẩn thực tiễn cho nhận thức của con người là chân lý “vĩnh hằng”, không còn gì để bổ sung thêm và sau đó không cần đến sự kiểm tra mới và chính xác hóa nữa. Ngay cả những luận điểm mà trước đó đã được xác nhận hoàn toàn bởi thực tiễn, vẫn cần tiếp tục được chính xác hóa, cụ thể hóa hoặc bị phế bỏ phù hợp với những thành tựu mới nhất của thực tiễn xã hội và khoa học tiên tiến.

Tóm lại hoạt động thực tiễn là hoạt động đặc trưng và bản chất của con người, được thực hiện một cách tất yếu khách quan và được tiến hành trong các quan hệ xã hội, hoạt động mang tính năng động, sáng tạo là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội loài người. Đánh giá vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, V.I.Lênin đã khẳng định: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận nhận thức”(1). Về lý luận, lý luận nhận thức của triết học Mác - Lênin đã khẳng định: Sự phát triển của nhận thức tất yếu dẫn đến sự ra đời của lý luận.

Vậy, lý luận là gì? Xét về hình thức lý luận là giai đoạn cao của nhận thức; về bản chất của lý luận là hệ thống luận điểm nhất định gắn bó với nhau về mặt lôgic và phản ánh bản chất các quy luật hoạt động và phát triển của khách thể được nghiên cứu. Hay nói cách khác, lý luận là sự phát triển cao của nhận thức được hình thành trong mối quan hệ với thực tiễn. Lý luận có đặc trưng vừa như quá trình vừa như kết quả của hoạt động nhận thức. Lý luận phải hướng đến nắm bắt cái bên trong, bản chất, tất yếu những quan hệ toàn diện và mâu thuẫn của đối tượng, đồng thời phải trình bày, thể hiện được điều đã nắm được ấy dưới dạng quan điểm hay hệ thống quan điểm. Nói gọn lại, ta có thể định nghĩa: Lý luận là sự nhận thức bản chất, mối liên hệ bên trong tất yếu của đối tượng và diễn đạt bằng kết quả của nhận thức đó bằng hệ thống các khái niệm, phạm trù, phán đoán về quy luật nội tại của đối tượng.

Lý luận có những đặc điểm cơ bản sau:

Về nội dung: Lý luận phản ánh bản chất mối liên hệ tất yếu của đối tượng trong tính chỉnh thể, toàn vẹn của nó, hoặc từng mặt xác định của đối tượng.

Về hình thức: Lý luận diễn đạt nội dung bằng các khái niệm phán đoán.

Lý luận có tính trừu tượng, khái quát, tổng hợp rất cao, do đó nó có tính gián tiếp đối với đối tượng nhận thức đòi hỏi chủ thể không đơn thuần nắm bắt những tác động trực tiếp vào các giác quan mà phải hoạt động tự giác và tích cực, chủ động chiếm lĩnh đối tượng.

Hoạt động lý luận là một hệ thống có cấu trúc cơ bản gồm: chủ thể (người hoạt động lý luận), khách thể (đối tượng) của hoạt động lý luận, điều kiện của hoạt động lý luận và kết quả của hoạt động lý luận.

Theo tính chất có thể phân chia lý luận thành tiên tiến, cách mạng, bảo thủ, phản cách mạng, giáo điều, ngụy biện… Tuy nhiên, những loại hình lý luận này không hẳn do thực tiễn quy định mà phần nhiều do lập trường triết học của chủ thể quy định.

Như vậy, chúng ta tạm thời tách trong tư duy ra hai mặt (lý luận và thực tiễn) để nhận thức từng mặt một với những nội dung rất cơ bản của từng mặt đối lập đó trước khi xem xét mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn.

2. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn

Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn là luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nội dung thực chất của mối quan hệ đó là: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”(2). Vấn đề này, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh phải hiểu trên tinh thần biện chứng: Thực tiễn cần tới lý luận khoa học soi đường, dẫn dắt, định hướng để không rơi vào mù quáng, mò mẫm. Còn lý luận khoa học phải dựa trên cơ sở thực tiễn, nảy sinh từ thực tiễn, phản ánh thực tiễn và phải luôn liên hệ với thực tiễn. Lý luận khoa học phải được hình thành, bổ sung, phát triển bằng con đường tổng kết thực tiễn, nếu không lý luận đó chỉ là lý luận suông, giáo điều, xa rời cuộc sống. Chúng ta cần chú ý rằng: một lý luận khoa học có thể được nảy sinh từ những luận điểm khoa học đã có làm tiền đề. Nhưng xét đến cùng thì những lý luận đó cũng xuất phát từ thực tiễn. Vì vậy, ta có thể khẳng định rằng: mọi lý luận đều trực tiếp hoặc gián tiếp bắt nguồn từ thực tiễn.

Từ sự phân tích trên ta thấy, về bản chất nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đòi hỏi:

Thực tiễn và lý luận đều cần đến nhau, nương tựa vào nhau, bổ sung cho nhau

Không có thực tiễn thì sẽ không có lý luận chân chính; ngược lại không có lý luận khoa học thì thực tiễn sẽ mất phương hướng sớm muộn sẽ mắc bệnh kinh nghiệm hoặc bệnh giáo điều.

3. Quán triệt và vận dụng trên thực tế nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giảng dạy LLCT ở các trường đại học của nước ta

Đây là yêu cầu bức thiết của công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục nước ta. Hay nói một cách khác, nếu không biết quán triệt và vận dụng nguyên tắc này trong giảng dạy thì chất lượng và hiệu quả không đạt được yêu cầu.

Yêu cầu thứ nhất, đặt ra cho giảng viên cần nắm vững nội dung, chương trình môn học này, môn học bao gồm những nội dung sau: Những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính trị của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước. Đây là phần học có nội dung phong phú, đa dạng đòi hỏi sự cố gắng về nhiều mặt nhất là tư duy trừu tượng, khái quát cao của cả giảng viên và học viên, sinh viên.

Yêu cầu thứ hai, là đối với giảng viên, học viên sinh viên là cần phải coi trọng cả lý luận và thực tiễn. Lơ là, thiếu coi trọng một trong hai mặt này sớm muộn cũng sẽ sa vào bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Thực tế đã chỉ rõ: cơ sở đào tạo nào, lúc nào không nhận thức đầy đủ cả lý luận và thực tiễn thì nơi đó không biết vận dụng học đi đôi với hành, cơ sở đào tạo thiếu gắn kết các với cơ sở kinh tế - xã hội, không biết hoặc không vận dụng hiệu quả thành tựu khoa học - công nghệ vào cuộc sống và sản xuất kinh doanh. Tại sao lại như vậy, bởi vì thực tiễn và lý luận luôn nương tựa vào nhau, đều cần đến nhau, chúng vừa thống nhất vừa đối lập với nhau, chúng có sự tương thức, tương ứng với nhau, thực tiễn cần được soi tỏ bằng lý luận của nó, còn lý luận bao giờ cũng thuộc về thực tiễn nhất định. Không có thực tiễn được soi tỏ bằng lý luận bất kỳ cũng như không có lý luận về mọi thực tiễn. Sự tương thức của lý luận và thực tiễn còn ở chỗ, lý luận như một thành tố, kết quả tất yếu của thực tiễn. Mặt khác sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đó là sự thống nhất trong khác biệt đối lập (sự đối lập giữa cái phản ánh kết quả và cái được phản ánh, đối lập giữa cái bị quy định và cái quy định, sự lạc hậu của lý luận so với thực tiễn và ngược lại). Mặt khác cần phải tôn trọng cả lý luận và cả thực tiễn vì lý luận, thực tiễn có vị trí và vai trò khác nhau trong quá trình nhận thức: Thực tiễn là cơ sở mục đích của nhận thức, là tiêu chuẩn thước đo của các tri thức đã tiếp thu được. Còn lý luận khoa học dựa trên cơ sở thực tiễn, phản ánh thực tiễn, nó được hình thành, bổ sung, phát triển bằng con đường tổng kết thực tiễn. Với ý nghĩa đó không có lý luận khoa học thì thực tiễn sẽ mất phương hướng.

Yêu cầu thứ ba, cán bộ giảng dạy cần rèn luyện về phương pháp để biết cách tổng kết thực tiễn nhằm đạt được sự góp phần khắc phục bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều. Đất nước ta sau thống nhất, non sông thu về một mối, cũng là thời kỳ trải qua nhiều khó khăn thách thức. Từ thực tiễn đó, Đảng ta đã đưa cách mạng nước ta vượt qua cơ chế quan liêu bao cấp sang thời kỳ mới. Thời kỳ đổi mới toàn diện do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Lý luận đó đã soi đường cho đất nước ta, dân tộc ta tiến lên từng bước vững chắc, làm nên nhiều kỳ tích của quá trình xây dựng và phát triển trên tất cả các lĩnh vực.

Để giảng dạy LLCT cho sinh viên có hiệu quả, yêu cầu người dạy phải bám sát thực tiễn, có tâm, có tầm để phân tích thực tiễn. Quá trình phân tích thực tiễn giảng viên phải có thái độ khách quan, biết rút ra những vấn đề cần nhận thức với độ khái quát cao. Có như vậy, những kết luận rút ra từ thực tiễn mới có giá trị chỉ đạo thực tiễn, mặt khác phải chọn thực tiễn có tính điển hình, phổ biến. Do đó, người giảng viên phải biết chọn vấn đề đúng và trúng, có năng lực tư duy lý luận để phân tích khái quát, rút ra được những kết luận đúng có tầm khái quát cao như Đảng ta đã và đang xây dựng.

Yêu cầu thứ tư, đối với giảng viên giảng dạy LLCT ở các trường đại học là nắm vững thực chất chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ta. Đây là ba bộ phận gắn bó chặt chẽ với nhau tạo ra nền tảng lý luận của Đảng ta, là vấn đề không đơn giản bởi vì như chúng ta đều biết chủ nghĩa Mác hình thành từ những năm 40 của thế kỷ thứ XIX  đến nay đã có lịch sử trên một thế kỷ rưỡi. Thực tế cho thấy, một mặt, chúng ta đã nhận ra một số luận điểm trong các tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin không còn thích hợp với thời đại. Sinh thời, C.Mác đã từng nhắc nhở rằng học thuyết của ông không phải là giáo điều và C.Mác đã từng hy vọng rằng các thế hệ sau ông sẽ bổ sung, làm phong phú thêm nó. Điều quan trọng mang ý nghĩa khoa học là không nên hiện đại hóa C.Mác, không nên gắn cho C.Mác những điều không có ở C.Mác nhưng cũng không thể nhân danh học thuyết Mác để làm ngược C.Mác. Điều đó, V.I.Lênin cũng đã nhận xét: Chúng ta đừng xem chủ nghĩa Mác là xong xuôi, có sẵn mà phải thường xuyên bổ sung để từng bước hoàn thiện. Nhận thức được điều đó song chúng ta chưa phân tích một cách có hệ thống và sâu sắc những gì vẫn đúng và những gì cần bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, cần có sự đầu tư, sự chỉ đạo tập trung thích đáng cho việc nghiên cứu và vận dụng sáng tạo vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước ta.

Như vậy, vừa bám sát thực tiễn, nắm vững yêu cầu của thực tiễn, vừa phải đẩy mạnh nghiên cứu và vận dụng lý luận một cách sáng tạo, biết phân tích cụ thể một tình hình cụ thể nhằm đẩy mạnh phát triển đất nước.

Yêu cầu thứ năm, trên cơ sở đổi mới một cách căn bản nội dung đòi hỏi người giảng viên giảng dạy LLCT trong các trường chính trị cần đổi mới phương pháp giảng dạy bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng ta.

Mỗi một cán bộ giảng dạy LLCT và mỗi một sinh viên dù được đào tạo ở chuyên ngành nào cũng đều nắm vững điều khẳng định của Đảng ta trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”./.

 _________________________________

(1) V.I.Lênin (1980), Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M., T.18, tr.167.

(2) Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Nxb. CTQG, T.8, tr.496.