Phil Collins - Ca sĩ nhạc rock người Anh

TP - Huyền thoại nhạc rock người Anh Phil Collins vừa chính thức tuyên bố chia tay cô vợ Orianne người gốc Thụy Sỹ sau 7 năm chung sống. Hai người có 2 con trai.

Phil Collins và Orianne

Collins từng có 3 con riêng từ hai cuộc hôn nhân trước. Lý lẽ mà người đại diện của cặp vợ chồng nổi tiếng đưa ra là: “Hai người đều cảm thấy quá nhiều áp lực trong quan hệ vợ chồng”.

Ca sĩ 55 tuổi cựu thành viên ban nhạc Genesis từng đoạt giải Grammy gặp gỡ Orianne [mới ngoài 30] trong một chuyến lưu diễn năm 1994. Lúc đó ông đang bị dư luận “soi” khá kỹ sau cuộc chia tay với người vợ thứ hai là Jill.

Ly hôn với Orianne xong, Collins vẫn sinh sống tại Thụy Sỹ để được gần 2 con nhỏ. Năm 2000 Collins đoạt giải Oscar cho ca khúc hit “You’ll Be In My Heart” trong phim hoạt hình “Tarzan” .

Sinh năm 1972, do bố mẹ ly dị sớm nên Rob Thomas có tuổi thơ không êm ả. Năm 17 tuổi, Thomas bỏ học, lang thang tìm đường ca hát để đến năm 1996 anh thành lập và là thủ lĩnh ban nhạc rock Matchbox Twenty. Không phô trương, giữ phong cách rock của những năm 1970, Matchbox Twenty với giọng hát khỏe, tràn đầy sinh lực của Thomas cùng những ca khúc trần trụi và cả nỗi bức xúc về tình yêu do anh sáng tác nhanh chóng chinh phục thính giả. Đến nay, ngoài nhiều giải thưởng âm nhạc, Matchbox Twenty đã bán được hơn 25 triệu bản album trên toàn thế giới.

Với sự nghiệp hát solo, Thomas được cho là ca sĩ ít hấp dẫn nhất trong lịch sử nhạc rock. Bởi anh có một đời sống quá nghiêm túc, không có những scandal tình ái, rượu chè hay ma túy. Tuy nhiên, trong âm nhạc Thomas là ca sĩ đầy sức mạnh và với hit lớn nhất - Smooth, một bài hát Latin-rock nóng bỏng hợp tác với tay guitar danh tiếng Carlos Santana chứng tỏ anh có thể “xoay và đấm”. Với danh vọng, Thomas có khiếu hài hước về vị trí của mình trong “ngôi đền danh nhân”: Đĩa gần đây nhất của Matchbox Twenty mang tên Exile on Mainstream [tạm dịch: Trục xuất khỏi dòng nhạc chính thống] là tuyên bố đả phá mang tính đánh cược của anh trong thời kỳ âm nhạc hiện nay.

Cradlesong - album solo thứ hai của Thomas cho thấy anh là người xứng đáng kế thừa Phil Collins: một ca sĩ chuyên nghiệp tài năng với chất giọng tốt, không cần những thủ pháp nghệ thuật móc nối mang tính phô trương, màu mè. Cradlesong ít đa dạng, không nhiều thể loại như album đầu tay Something to be, khi mà Thomas pha trộn bản sắc của Matchbox Twenty với một chút Latin, một chút funk và một chút nhịp dance. Lần này, anh làm một album rock hiện đại đơn giản hơn, và “ném” vào đó một chút âm thanh đồng quê.

Tuy đơn giản, nhưng Cradlesong có nhiều kết cấu bất ngờ lôi cuốn đôi tai. Bài hát mở đầu album, Her Diamonds, đặt tiếng guitar và keyboard phía trước một dàn trống châu Phi và trống taiko của Nhật. Bài hát trùng với tên của album - Cradlesong là sự hòa trộn hương vị âm nhạc thế giới [đàn bouzouki của Hy Lạp, đàn oud của Ả Rập, guitar Bồ Đào Nha] vào một bản ballad mà một nửa là bài hát ru, một nửa là ca ngợi niềm vui hưởng thụ cuộc sống đạm bạc.

Trên hết, sự lôi cuốn chính của Cradlesong là giai điệu. Thomas luôn là người sáng tác lão luyện, nhưng với những hit lớn thời Matchbox Twenty như 3 A.M. và Bent, nét duyên dáng trong giai điệu của anh bị chôn vùi dưới sự ồn ào: anh là rocker kiểu truyền thống, gầm lên mỗi cụm từ như là đang cố xé nát dàn âm thanh nhà bạn. Giờ anh trưởng thành hơn và nhẹ nhàng hơn, ít rock hơn và nhiều pop hơn – nhưng không kém tinh thông ở những điệp khúc ngắn làm mê hoặc người nghe. Chẳng hạn, bài Mockingbird là lời giã biệt thôi thúc với một mối quan hệ thất bại. Hay Real World’09 khá hợp thời, gần như là theo dòng power-pop. Điều này chứng tỏ rằng nếu Thomas có gác micro thì anh vẫn có thể kiếm được công việc với mức lương hậu hĩnh như viết nhạc cho những cô ca sĩ pop đang lên hiện nay.

Nhìn tổng thể, Cradlesong chưa mang tính thống nhất cao. Bài Fire on the mountain, là ca khúc rock quá tráng lệ, hùng vĩ, với những hợp âm mang sức mạnh tàn phá, còn ca từ thì hơi “khủng”: “Làm sao bạn uống khi có máu trong nước?”.

Dù có thế nào, Thomas của năm 2009 vẫn là người bạn rất dễ chịu. Với Cradlesong, đó là sự hiện diện đáng được chào đón khi mà có người cho rằng anh đã hết “đát”. Với riêng mình, Thomas vẫn tỏ ra khiêm tốn. Anh hát trong bài Wonderful: “Chắc tôi đã qua thời huy hoàng…/Tôi được đề cao quá mức”. Anh chỉ đúng một nửa thôi. Qua thời huy hoàng - có lẽ. Nhưng, anh [và cả những người khác] đã đánh giá thấp tài năng của anh.

Another day in paradise Sáng tác: Phil Collins

Intro: [Em][D][Am]- [Em][D][Am] 1. [Em] She calls out to the [D] man on the [Am] street [Em] "Sir, can you [D] help me? [Em] It's cold and I've [D] nowhere to [Am] sleep [Em] Is there somewhere you can [D]… Ca sĩ thể hiện: Phil Collins Nhạc Quốc tế

Do you remember Sáng tác: Phil Collins

Intro: [F] [Am] [Bb] [C] - [F] [Am] [Bb] [C] Verse 1 [F] We never talked [Am] about it But I [Bb] hear the blame was [C] mine and I'd [F] call you up to say I'm [Am] sorry But… Ca sĩ thể hiện: Phil Collins Nhạc Quốc tế

One more night Sáng tác: Phil Collins

[A] one more [D] night [A][D][A] one more [D] night [A][D] [G] I've been [D] trying ooh so [Em] long to [D] let you know [G] Let you [D] know how I [G] feel And if I [D] stumble if… Ca sĩ thể hiện: Phil Collins Nhạc Quốc tế

Chủ Đề