Quyền học tập của công dân được quy định tại Điều Hiến pháp năm 1992

CHƯƠNG V

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN

Điều 49 Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam.

Điều 50

ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật.

Điều 51

Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân. Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và xã hội. Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định.

Điều 52

Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.

Điều 53

Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.

Điều 54

Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật.

Điều 55

Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động.

Điều 56

Nhà nước ban hành chính sách, chế độ bảo hộ lao động. Nhà nước quy định thời gian lao động, chế độ tiền lương, chế độ nghỉ ngơi và chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức Nhà nước và những người làm công ăn lương; khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với người lao động.

Điều 57

Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật.

Điều 58

Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 17 và Điều 18. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân.

Điều 59

Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân. Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí. Công dân có quyền học văn hoá và học nghề bằng nhiều hình thức. Học sinh có năng khiếu được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập để phát triển tài năng. Nhà nước có chính sách học phí, học bổng. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em tàn tật được học văn hoá và học nghề phù hợp.

Điều 60

Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hoá khác. Nhà nước bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp.

Điều 61

Công dân có quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khoẻ. Nhà nước quy định chế độ viện phí, chế độ miễn, giảm viện phí. Công dân có nghĩa vụ thực hiện các quy định về vệ sinh phòng bệnh và vệ sinh công cộng. Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và các chất ma tuý khác. Nhà nước quy định chế độ bắt buộc cai nghiện và chữa các bệnh xã hội nguy hiểm.

Điều 62

Công dân có quyền xây dựng nhà ở theo quy hoạch và pháp luật. Quyền lợi của người thuê nhà và người có nhà cho thuê được bảo hộ theo pháp luật.

Điều 63

Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Lao động nữ và nam việc làm như nhau thì tiền lương ngang nhau. Lao động nữ có quyền hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là viên chức Nhà nước và người làm công ăn lương có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo quy định của pháp luật. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội; chăm lo phát triển các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và các cơ sở phúc lợi xã hội khác để giảm nhẹ gánh nặng gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập, chữa bệnh, nghỉ ngơi và làm tròn bổn phận của người mẹ.

Điều 64

Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những công dân tốt. Con cháu có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ. Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con.

Điều 65

Trẻ em được gia đình, Nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục.

Điều 66

Thanh niên được gia đình, Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập, lao động và giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng về đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân và lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đi đầu trong công cuộc lao động sáng tạo và bảo vệ Tổ quốc.

Điều 67

Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Thương binh được tạo điều kiện phục hồi chức năng lao động, có việc làm phù hợp với sức khoẻ và có đời sống ổn định. Những người và gia đình có công với nước được khen thưởng, chăm sóc. Người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ.

Điều 68

Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật.

Điều 69

Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.

Điều 70

Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.


Điều 71

Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân.

Điều 72

Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh.

Điều 73

Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép. Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc khám xét chỗ ở, việc bóc mở, kiểm soát, thu giữ thư tín, điện tín của công dân phải do người có thẩm quyền tiến hành theo quy định của pháp luật. Điều 74 Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định. Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.

Điều 75

Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Nhà nước tạo điều kiện để người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước.

Điều 76

Công dân phải trung thành với Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất.

Điều 77

Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. Công dân phải làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân.

Điều 78

Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản của Nhà nước và lợi ích công cộng.

Điều 79

Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, giữ gìn bí mật quốc gia, chấp hành những quy tắc sinh hoạt công cộng.

Điều 80

Công dân có nghĩa vụ đóng thuế và lao động công ích theo quy định của pháp luật.

Điều 81

Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, được Nhà nước bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền lợi chính đáng theo pháp luật Việt Nam.

Điều 82

Người nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, dân chủ và hoà bình, hoặc vì sự nghiệp khoa học mà bị bức hại thì được Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xem xét việc cho cư trú.

QĐND - Hiến pháp là đạo luật gốc, cơ bản, là văn bản pháp lý cao nhất, quan trọng nhất và có thể coi là “mẹ” của các đạo luật khác, của hầu hết các nhà nước trên thế giới. Chính vì vậy, trong Hiến pháp, những quy định về quyền, nghĩa vụ của công dân, đặc biệt là quyền và nghĩa vụ học tập cần phải cụ thể và sát hơn với đời sống xã hội.

* Đầu tư mạnh vào công tác giáo dục, đào tạo: Hiện nay, nhu cầu về nguồn nhân lực cho công cuộc xây dựng và phát triển của đất nước đã và đang đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân những nhiệm vụ quan trọng trong việc đầu tư phát triển giáo dục-đào tạo. Để kịp thời điều chỉnh lĩnh vực này, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã tập trung sửa đổi, bổ sung Chương II - Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó tập trung chủ yếu vào quyền và nghĩa vụ học tập của công dân. Như chúng ta được biết, tại Điều 59, Hiến pháp năm 1992 quy định: “Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân. Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí. Công dân có quyền học văn hóa và học nghề bằng nhiều hình thức. Học sinh có năng khiếu được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập để phát triển tài năng. Nhà nước có chính sách học phí, học bổng. Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác được học văn hóa và học nghề phù hợp”. Quy định này đến nay có những điểm chưa thật phù hợp cần phải chỉnh sửa, bổ sung. Chính vì vậy, khi đọc bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm1992, tôi rất mừng vì những quy định về quyền và nghĩa vụ học tập của công dân đã thu gọn và cụ thể hơn. Cụ thể là: “Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập”. Quy định này vừa ngắn gọn, vừa bao hàm được đúng tính chất của đạo luật gốc. Tôi cho rằng, quy định này khi được thông qua sẽ mở đường cho sự đầu tư của các nguồn lực xã hội vào công tác giáo dục, đào tạo, đáp ứng nhu cầu học tập của công dân... Tuy nhiên, tôi vẫn thấy băn khoăn, nếu việc quy định học tập là nghĩa vụ của công dân, thì mọi công dân [nếu đủ năng lực hành vi] thì buộc phải học tập suốt đời, nếu không sẽ bị cưỡng chế bởi các chế tài pháp luật. Nếu không cụ thể hóa vấn đề này, thì dễ dẫn đến việc sẽ có rất nhiều công dân vi phạm Hiến pháp, pháp luật bởi không thực hiện nghĩa vụ công dân của mình.

Chính vì vậy, tôi kiến nghị, Ban soạn thảo và các cơ quan chức năng cần nghiên cứu, chỉnh sửa, bổ sung Điều 42 theo hướng quy định cụ thể hơn về quyền và nghĩa vụ học tập của công dân như: Cấp học bắt buộc đối với công dân. Nguồn ngân sách dành cho học tập, giáo dục. Chế tài trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập của công dân.

Trịnh Xuân Tiến

[Khu tập thể Hào Nam, TP Hà Nội]

* Nhà nước tạo mọi điều kiện cho việc học tập của công dân: Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, khi vừa giành được độc lập dân tộc, Đảng và Chính phủ đã tổ chức phong trào “Bình dân học vụ”, động viên, kêu gọi toàn dân chống ba thứ giặc, đó là giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Chỉ có học tập thì dân trí được mở mang, đất nước mới ngẩng cao đầu sánh vai cùng các cường quốc năm châu…

Tôi rất tán thành nội dung Điều 42 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã ghi: “Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập”. Điều đó khẳng định việc học tập là bổn phận và trách nhiệm của mỗi công dân Việt Nam. Ở đây cần hiểu là, mọi người dân đều được quyền đi học và có quyền được đi học. Vì thế, không phân biệt đẳng cấp, giai tầng xã hội, người khuyết tật… trong học tập dù ở bậc tiểu học hay ở các bậc học cao hơn.

Tuy nhiên, để cho mọi công dân thực sự được hưởng “quyền” học tập và thực hiện “nghĩa vụ” học tập, theo tôi nên bổ sung tiếp cụm từ "Nhà nước có trách nhiệm và tạo mọi điều kiện cho việc học tập của công dân" vào sau cụm từ “Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập” thì sẽ đầy đủ hơn. Như vậy, ở Điều 42 này nên viết là: “Công dân có quyền và nghĩa vụ học tập. Nhà nước có trách nhiệm và tạo mọi điều kiện cho việc học tập của công dân”. Bởi lẽ, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ, trong Chiến lược phát triển Kinh tế-Xã hội giai đoạn 2011-2020 vàhai báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội XI đều có nội dung “Xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời”. Viết như vậy mới gắn trách nhiệm của các cấp chính quyền và cơ quan chức năng của Nhà nước trong việc xây dựng, bảo đảm cơ sở vật chất, chất lượng giáo viên, phòng ngừa tiêu cực trong việc thi tuyển, chạy trường, chạy lớp trong các trường học, nhất là hệ thống trường công lập. Hơn nữa trong thực tế hiện nay, không thiếu những nhà trường e ngại việc nhận học sinh khuyết tật vào học.

Nguyễn Lê Bảo Châu

[Phường Gia Thụy, quận Long Biên, TPHà Nội]

*Trách nhiệm phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, đào tạo bồi dưỡng nhân tài: Trong Hiến pháp năm1992, chương III "Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ" có hai điều về giáo dục: Ðiều 35 và Ðiều 36. Ðiều 35. Nếu so sánh, Điều 66, những điều khoản đã mang tính cụ thể, thiết thực hơn. Ngoài ra, một điểm mới và mang tính hiện đại phù hợp với xu thế hiện nay tại Khoản 1, Ðiều 66 bổ sung ngoài việc đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc còn thêm “Hội nhập quốc tế” và tại Khoản 3, sửa nội dung phổ cập giáo dục: Không ghi cấp phổ cập. Tôi rất đồng tình với việc sửa đổi này.

Tuy nhiên, tôi xin nêu một số ý kiến để cùng thảo luận: Về Ðiều 66 trong dự thảo, cụ thể tại Khoản 1, Điều 66 quy định: “Phát triển giáo dục nhằm hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất, năng lực của công dân; nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài...”. Quy định như vậy là chưa thật chính xác. Tôi kiến nghị nên thay cụm từ: “…hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất, năng lực của công dân…” bằng cụm từ: “Phát triển giáo dục nhằm hình thành và bồi dưỡng nhân cách của công dân”. Vì tôi cho rằng, “phẩm chất và năng lực” là nhân cách của con người, nên chỉ cần ghi "bồi dưỡng nhân cách". Tiếp đó, bỏ chữ “bồi dưỡng” trong cụm từ “... bồi dưỡng nhân tài” bằng “phát triển nhân tài". Vì, theo tôi, việc phát triển nhân tài mới là quan trọng, có như vậy, những người tài mới phát huy hết được khả năng và sở trường của họ. Ngoài ra, trong một cụm từ, không nên để hai từ “bồi dưỡng” như trong điều khoản này như “bồi dưỡng nhân cách”, tiếp đó là “bồi dưỡng nhân tài”.

Còn tại Khoản 2, Điều 66 có ghi: “Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân, ưu tiên đầu tư và tạo điều kiện thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục...”. “Đầu tư khác cho giáo dục” là chưa cụ thể và chính xác. Vì giáo dục không nên mang tính thương mại hóa, đầu tư cho giáo dục chỉ có dạy và học. Và chưa mang tính cụ thể. Một số người còn không hiểu rõ vấn đề “tạo điều kiện thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục”... “Đầu tư khác” là đầu tư gì? Chính vì vậy, tôi xin đưa ra ý kiến là bỏ từ “khác”, chỉ ghi: “... tạo điều kiện thu hút các nguồn đầu tư cho giáo dục”. Rất mong Ban soạn thảo cùng các cơ quan chức năng nghiên cứu, chỉnh sửa cho phù hợp.

Đào Văn Vĩnh

[Huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa]

Video liên quan

Chủ Đề