Tại sao đường giới hạn khả năng sản xuất không bao giờ có hình cạnh cung hướng về gốc tọa độ

1 0 Nội dung Trong bài này, người học sẽ được tiếp cận các nội dung:  Các đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu của kinh tế học vi mô; các khái niệm về kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô; kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc.

 Đường giới hạn khả năng sản xuất để phân tích vấn đề nguồn lực khan hiếm và chi phí cơ hội.

 Ba vấn đề kinh tế cơ bản [Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai?] và phân biệt 3 hệ thống kinh tế khác nhau [kinh tế thị trường tự do, kinh tế chỉ huy và kinh tế hỗn hợp].

 Giải thích được các khái niệm, vấn đề cơ bản, đối tượng, nội dung, phạm vi và phương pháp nghiên cứu của kinh tế học nói chung và kinh tế vi mô nói riêng.

 Phân biệt được kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô, kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc; vận dụng đường giới hạn khả năng sản xuất để phân tích vấn đề nguồn lực khan hiếm và chi phí cơ hội.

 Vận dụng được ba vấn đề kinh tế cơ bản để phân tích các mô hình kinh tể, chỉ ra được các ưu và nhược điểm của từng mô hình kinh tế.

Thời lượng học 6 tiết  Đọc giáo trình trước lúc nghe giảng.  Sử dụng tốt các phương pháp và công cụ trong kinh tế học [bao gồm kiến thức đại số và hình học lớp 12] để phân tích và nghiên cứu bài học.

 Thực hành thường xuyên và liên tục các bài tập vận dụng để hiểu được lý thuyết và bài tập thực hành.

Thực tế cho thấy rằng hoạt động thường xuyên của con người là hoạt động kinh tế, nó bao gồm hoạt động kinh doanh hàng hóa hoặc dịch vụ, hoạt động mua bán tài sản tài chính, hoạt động tín dụng [đi vay, cho vay]… Các hoạt động kinh tế thường nhằm mục đích tạo ra sản phẩm hay dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu của con người nên chúng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Vì vậy, việc hình thành một môn khoa học nghiên cứu hoạt động kinh tế của con người là rất cần thiết. Điều này giải thích lý do ra đời của môn kinh tế học. Nghiên cứu kinh tế học giúp cho con người hiểu về cách thức vận hành của nền kinh tế nói chung và cách thức ứng xử của từng chủ thể tham gia vào nền kinh tế nói riêng. Kinh tế học quan tâm đến hành vi của toàn bộ nền kinh tế tổng thể và hành vi của các chủ thể riêng lẻ trong nền kinh tế, bao gồm các doanh nghiệp, hộ tiêu dùng, người lao động và Chính phủ. Ngoài ra, nghiên cứu kinh tế vi mô giúp chúng ta hiểu được cách thức các doanh nghiệp làm thế nào để tối đa hóa lợi nhuận? Các hộ tiêu dùng làm thế nào để tối đa hóa được lợi ích? Người lao động làm thế nào để tối đa hóa tiền công? Và Chính phủ làm thế nào để tối đa hóa được phúc lợi xã hội. Chúng ta sẽ có được những giải đáp cụ thể sau khi nghiên cứu xong môn học này.

Đối tượng và nội dung nghiên cứu kinh tế học vi mô

Kinh tế học thực sự ra đời từ năm 1776 đánh dấu mốc quan trọng là tác phẩm "Bàn về nguồn gốc của cải" của Adam Smith -nhà kinh tế học người Anh. Kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu cách thức mà cá nhân và xã hội lựa chọn việc sử dụng nguồn lực khan hiếm của mình như thế nào. Các nhà kinh tế học thống nhất vấn đề cốt lõi trong kinh tế học là vấn đề khan hiếm. Sở dĩ có thể nói như vậy là vì bất kỳ một chủ thể nào trong nền kinh tế, Chính phủ, doanh nghiệp, cá nhân hay nhìn chung toàn bộ nền kinh tế cũng phải đối mặt với sự khan hiếm. Cụ thể là:  Đối với cá nhân, khan hiếm thể hiện ở tiền bạc -mong muốn nhiều nhưng tiền [thu nhập] có giới hạn. Hay khan hiếm thời gian [1 ngày chỉ có 24 giờ] -muốn làm nhiều việc nhưng thời gian có hạn, và mỗi người đều phải dành thời gian để nghỉ ngơi, tái tạo lại sức lao động của mình.  Đối với doanh nghiệp, chúng ta có thể thấy sự khan hiếm về vốn -thiếu tiền để lao động giỏi, máy móc, trang thiết bị. Hay khan hiếm lao động đặc biệt là lao động có chất lượng cao.  Đối với một nền kinh tế dù là cường quốc hay các nước nghèo cũng phải đối mặt với khan hiếm. Ví dụ: Khan hiếm về tài nguyên thiên nhiên để sản xuất ra các hàng hóa phục vụ cho nhu cầu của tất cả người dân. Các nước vẫn phải nhập khẩu những nguyên vật liệu, hay phải nhập khẩu cả hàng tiêu dùng. Chúng ta có thể thấy ở các nước giàu ví dụ như Mỹ, bên cạnh những ngôi nhà chọc trời vẫn có những căn nhà được ví như "Ổ chuột" -Mỹ.

Khi đối diện với sự khan hiếm, các chủ thể trong nền kinh tế bắt buộc phải lựa chọn. Và kinh tế học ra đời rất kịp thời, giải thích được hành vi lựa chọn của các chủ thể trong nền kinh tế là như thế nào? Một khái niệm khác về kinh tế học: Kinh tế học là môn khoa học của sự lựa chọn trong điều kiện khan hiếm. Khái niệm này nêu ra mục đích của sự ra đời của kinh tế học là để giải quyết vấn đề khan hiếm.

Kinh tế học là môn khoa học xã hội nghiên cứu sự sản xuất, phân phối và tiêu dùng các loại hàng hóa và dịch vụ. Nghiên cứu kinh tế học nhằm mục đích giải thích cách thức các nền kinh tế vận động và các tác nhân kinh tế tương tác với nhau. Các nguyên tắc kinh tế được ứng dụng trong đời sống xã hội, trong thương mại, tài chính và hành chính công, thậm chí là trong ngành tội phạm học, giáo dục, xã hội học, luật học và nhiều ngành khoa học khác. Kinh tế học cũng như các môn khoa học khác, nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau. Kinh tế học được phân chia thành hai bộ phận chủ yếu là kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô. Kinh tế học vi mô là một bộ phận của kinh tế học chuyên nghiên cứu và phân tích các hành vi kinh tế của các tác nhân trong nền kinh tế: người tiêu dùng, các hãng sản xuất kinh doanh và Chính phủ. Kinh tế vĩ mô là một bộ phận của kinh tế học nghiên cứu các vấn đề kinh tế tổng hợp của một nền kinh tế như tăng trưởng, lạm phát, thất nghiệp, các chính sách kinh tế vĩ mô... Như vậy có thể thấy, kinh tế học vi mô chuyên nghiên cứu hành vi kinh tế của các cá nhân, những nhóm đơn lẻ cấu thành nên nền kinh tế. Kinh tế vĩ mô coi toàn bộ nền kinh tế như một tổng thể và nó nghiên cứu các vấn đề tổng hợp của một nền kinh tế. Nếu coi nền kinh tế như một bức tranh, kinh tế vĩ mô sẽ nghiên cứu tổng thể toàn bức tranh. Kinh tế vi mô nghiên cứu từng họa tiết, từng chi tiết cấu thành nên bức tranh đó. Mặc dù có sự khác biệt, nhưng kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chúng ta sẽ không thể hiểu được các hiện tượng kinh tế vĩ mô nếu không xem xét các quyết định kinh tế vi mô, vì những thay đổi trong toàn bộ nền kinh tế phát sinh từ các quyết định của hàng triệu cá nhân. Ví dụ, dòng người di dân ra thành thị làm việc sẽ dẫn tới sự thay đổi trong nền kinh tế, làm cho lao động nông nghiệp ở nông thôn giảm, thất nghiệp ở thành thị tăng. Hành vi kinh tế vi mô có tác động đến việc đưa ra chính sách vĩ mô. Cũng ví dụ trên là việc tăng đầu tư cho nông thôn, phát triển các khu công nghiệp ở nông thôn để hút lao động về khu vực này. Ngược lại, các chính sách vĩ mô tác động trở lại đến các hành vi của các chủ thể trong nền kinh tế. Chẳng hạn, một nhà kinh tế có thể nghiên cứu ảnh hưởng của chính sách tăng lãi suất đối với mức sản xuất và tiêu dùng một loại hàng hóa hay dịch vụ nào đó. Nhà kinh tế đó cần chú ý khi lãi suất tăng làm cho tiết kiệm tăng và có thể giảm chi tiêu. Đồng thời, lãi suất tăng làm cho chi phí vay vốn kinh doanh tăng, doanh nghiệp có thể không đủ vốn để sản xuất kinh doanh, có thể thu hẹp quy mô sản xuất...

Kinh tế học cũng có thể được phân chia thành kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc. Kinh tế học thực chứng mô tả, phân tích, giải thích các sự kiện, hiện tượng kinh tế một cách khách quan, khoa học. Để có thể nhận biết đâu là nghiên cứu kinh tế học thực chứng, chúng ta xem xét nghiên cứu đó có trả lời cho các câu hỏi sau hay không? Vấn đề đó là gì? Là như thế nào? Tại sao lại như vậy? Điều gì sẽ xảy ra nếu? Khi nghiên cứu kinh tế học thực chứng chúng ta xem xét những luận điểm dưới dạng: Nếu điều này thay đổi thì điều kia sẽ xảy ra. Chúng ta có thể thấy và dễ hình dung về bản chất của kinh tế học thực chứng theo quan điểm này giống như những môn khoa học tự nhiên như: toán, lý, hóa... Ví dụ: Lạm phát tăng cao làm cho đời sống của người dân khó khăn hơn. Kinh tế chuẩn tắc liên quan đến việc đánh giá chủ quan của các cá nhân, phán xét về mặt giá trị. Các nghiên cứu kinh tế học chuẩn tắc thường để trả lời cho câu hỏi: Nên làm gì? Nên làm như thế nào? Ví dụ: Chính phủ cần có chính sách giảm tỷ lệ lạm phát. Hay để giảm thiểu hậu quả của tai nạn giao thông, Chính phủ nên quy định các chủ phương tiện mô tô phải đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông. Mặc dù có sự khác biệt thể hiện ở mức độ đánh giá chân thực của nó, nhưng nhận định thực chứng và chuẩn tắc có mối quan hệ với nhau. Quan điểm thực chứng được hình thành dựa trên sự thống nhất mang tính phổ biến và khách quan, nó là cơ sở cho các quan điểm về chuẩn tắc về những quyết định, chính sách nào là nên làm. Hay nói cách khác, kinh tế học thực chứng là trung tâm của kinh tế học và kinh tế học chuẩn tắc sẽ là nhân tố thúc đẩy và tạo ra hướng nghiên cứu mới cho kinh tế học thực chứng. Chúng ta có thể hình dung sự kết hợp giữa kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc thông qua phát biểu sau: "Những người cao tuổi có chi phí chăm sóc y tế rất cao [Thực chứng] và Chính phủ nên trợ cấp cho họ [Chuẩn tắc]".

Qua những phân tích khái niệm về kinh tế học, chúng ta có thể thấy các tác nhân trong nền kinh tế đều phải đối mặt với sự khan hiếm, vì vậy mà họ luôn phải quyết định sự lựa chọn. Và sự lựa chọn của họ được lý giải thông qua các nghiên cứu của kinh tế học vi mô. Như vậy, đối tượng nghiên cứu của kinh tế vi mô là hành vi kinh tế của các tác nhân trong nền kinh tế. Để hiểu hơn về đối tượng nghiên cứu thì môn học kinh tế vi mô được trình bày hệ thống những nội dung chủ yếu sau:  Sử dụng công cụ đường giới hạn khả năng sản xuất để phân tích sự khan hiếm nguồn lực và đường giới hạn khả năng sản xuất.  Phân tích cung và cầu về hàng hóa và dịch vụ, giá cả thị trường và các mối quan hệ qua lại của chúng. Nghiên cứu sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế thị trường.  Phân tích hành vi lựa chọn của người tiêu dùng để tối đa hóa lợi ích khi phải đối diện với sự khan hiếm nguồn lực.  Nghiên cứu và phân tích hành vi lựa chọn của nhà sản xuất: xác định chi phí, doanh thu, lợi nhuận, và việc lựa chọn đầu vào như thế nào để tối đa hóa sản lượng và tối thiểu hóa chi phí.  Phân tích các cấu trúc thị trường bao gồm thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thị trường độc quyền thuần túy, cạnh tranh độc quyền và độc quyền nhóm.  Phân tích thị trường các yếu tố đầu vào bao gồm các đầu vào chủ yếu như: lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên.

Kinh tế học là một môn khoa học nên phương pháp nghiên cứu kinh tế học cũng tương tự các môn khoa học tự nhiên như sinh học, hoá học hay vật lý. Tuy nhiên vì kinh tế học nghiên cứu hành vi kinh tế của con người, nên phương pháp nghiên cứu kinh tế học nói chung và kinh tế học vi mô nói riêng cũng có nhiều điểm khác với các môn khoa học tự nhiên khác. Phương pháp nghiên cứu của kinh tế học vi mô bao gồm:  Phương pháp mô hình hóa: Bao gồm việc xây dựng mô hình, phát triển mô hình bằng cách phân tích dựa trên các dữ liệu thu thập được, kiểm chứng thực tế.  Phương pháp so sánh tĩnh: Theo phương pháp này, các giả thuyết kinh tế về mối quan hệ giữa các biến luôn phải đi kèm với giả định các yếu tố khác không đổi [Ceteris Paribus] trong mô hình đưa ra.  Phương pháp phân tích cận biên: Đây là phương pháp đặc thù của kinh tế học nói chung và kinh tế học vi mô nói riêng. Nó cũng là phương pháp cơ bản của sự lựa chọn kinh tế tối ưu bởi vì bất cứ sự lựa chọn nào cũng phải dựa trên sự so sánh giữa lợi ích mang lại và chi phí bỏ ra. Phương pháp phân tích cận biên được sử dụng để tìm ra điểm tối ưu của sự lựa chọn. Theo phương pháp này, chúng ta phải so sánh lợi ích và chi phí tại mỗi đơn vị hàng hóa, dịch vụ được sản xuất [hoặc tiêu dùng] tăng thêm. Lợi ích và chi phí đó được gọi là lợi ích cận biên và chi phí cận biên.

Mô hình kinh tế và xây dựng mô hình kinh tế:  Xác định vấn đề nghiên cứu: Bước đầu tiên được áp dụng trong phương pháp nghiên cứu kinh tế học là phải xác định được vấn đề nghiên cứu hay câu hỏi nghiên cứu.  Xây dựng mô hình và phát triển mô hình: Xây dựng mô hình kinh tế để tìm được câu trả lời cho vấn đề nghiên cứu đã xác định. Mô hình kinh tế là một cách thức mô tả thực tế đã được đơn giản hóa để hiểu và dự đoán được mối quan hệ của các biến số. Mô hình kinh tế có thể được mô tả bằng lời, bảng số liệu, đồ thị hay các phương trình toán học.  Mô hình kinh tế: Các mô hình thường dựa trên những giả định về hành vi của các biến số đã được làm đơn giản hoá hơn so với thực tế. Ngoài ra mô hình chỉ tập trung vào những biến số quan trọng nhất để giải thích vấn đề nghiên cứu. Ở ví dụ về xăng dầu, trong thực tế, các biến số có thể liên quan đến lượng tiêu thụ xăng dầu bao gồm giá cả xăng dầu, thu nhập của người tiêu dùng, giá cả các hàng hóa khác hay điều kiện thời tiết... Bằng kiến thức của mình, nhà kinh tế học sẽ phải lựa chọn các biến số thích hợp và loại bỏ những biến ít có liên quan hay không có ảnh hưởng đến lượng xăng dầu. Trong trường hợp đơn giản nhất, nhà kinh tế học sẽ loại bỏ sự phức tạp của thực tế bằng cách giả định chỉ có giá của xăng dầu quyết định đến lượng tiêu thụ xăng dầu còn các yếu tố khác là không thay đổi. Mục tiêu của mô hình kinh tế là dự báo hoặc tiên đoán kết quả khi các biến số thay đổi. Mô hình kinh tế có hai nhiệm vụ quan trọng. Thứ nhất, chúng giúp chúng ta hiểu nền kinh tế hoạt động như thế nào. Bằng cách mô tả vấn đề nghiên cứu thông qua mô hình đơn giản, chúng ta có thể hiểu sâu hơn một vài khía cạnh quan trọng của vấn đề. Thứ hai, các mô hình kinh tế được sử dụng để hình thành các giả thuyết kinh tế.  Kiểm chứng giả thuyết kinh tế: Mô hình kinh tế chỉ có ích khi và chỉ khi nó đưa ra được những dự đoán đúng. Ở bước này, các nhà kinh tế học sẽ tập hợp các số liệu để kiểm chứng lại giả thuyết. Nếu kết quả thực nghiệm phù hợp với giả thuyết thì giả thuyết được công nhận còn nếu ngược lại, giả thuyết sẽ bị bác bỏ. Có hai vấn đề liên quan đến việc giải thích các số liệu kinh tế. Thứ nhất là vấn đề liên quan đến giả định các yếu tố khác không thay đổi và vấn đề còn lại liên quan đến quan hệ nhân quả.

 Giả định các yếu tố khác không thay đổi: Các giả thuyết kinh tế về mối quan hệ giữa các biến luôn phải đi kèm với giả định Ceteris Paribus trong mô hình. Ceteris Paribus là một thuật ngữ Latinh được sử dụng thường xuyên trong kinh tế học có nghĩa là các yếu tố khác không thay đổi. Trong ví dụ về xăng dầu, giả định quan trọng của mô hình là thu nhập của người tiêu dùng, giá cả các hàng hoá khác và một vài biến số khác không thay đổi. Giả định này cho phép chúng ta tập trung vào mối quan hệ giữa hai biến số chính yếu: Giá xăng dầu và lượng tiêu thụ xăng dầu trong từng tháng. Trong kinh tế học, muốn kiểm tra giả thuyết về mối quan hệ giữa các biến số kinh tế, các nhà kinh tế thường phải sử dụng các kỹ thuật phân tích thống kê được thiết kế riêng cho trường hợp các yếu tố khác không thể cố định được.  Phân tích quan hệ nhân quả: Các giả thuyết kinh tế thường mô tả mối quan hệ giữa các biến số mà sự thay đổi của biến số này là nguyên nhân khiến một [hoặc] các biến khác thay đổi theo. Biến chịu sự tác động được gọi là biến phụ thuộc còn biến thay đổi tác động đến các biến khác được gọi là biến độc lập. Biến độc lập ảnh hưởng đến biến phụ thuộc nhưng bản thân thì chịu sự tác động của các biến số khác ngoài mô hình. Phương pháp cân bằng tổng quát: Dùng để phân tích cân bằng chung trên các thị trường.

Phương pháp sử dụng mô hình toán là phương pháp sử dụng các mô hình toán học để phân tích các mối quan hệ giữa các biến số kinh tế với nhau. Các công cụ để phân tích kinh tế học vi mô là các mô hình toán kinh tế. Mô hình toán có thể được sử dụng khi nghiên cứu các vấn đề kinh tế vi mô bao gồm: bảng biểu, hàm số, đồ thị để đi tới thiết lập mô hình, xây dựng phương trình để tìm các điểm tối ưu. Các công thức, phương trình đại số cũng là những công cụ thiết yếu và rất quan trọng trong việc xây dựng các mô hình và giải thích các quy luật trong kinh tế học. Đồ thị được coi là một trong những công cụ trực quan được sử dụng để mô tả sự vận động của các biến số kinh tế. Khi sử dụng đồ thị, chú ý là độ dốc của một đường tuyến tính là tan của góc hợp bởi đường đó với chiều dương của trục hoành -Độ dốc không đổi. Độ dốc tại mỗi điểm của đường cong là tan của góc được hợp bởi tiếp tuyến với các điểm trên đường đó với chiều dương của trục hoành -Độ dốc thay đổi.

Độ dốc tại điểm D:

Khi nói đường nào dốc hơn hay độ dốc tại điểm nào hơn, chúng ta xem xét giá trị tuyệt đối của độ dốc của các đường và trị tuyệt đối của độ dốc tại các điểm với nhau. Ngoài công cụ phân tích trực quan là hình học, khi nghiên cứu, người học có thể sử dụng các phương trình toán học để mô tả, tính toán và xác định các điểm tối ưu [cực đại và cực tiểu] như: phương trình đường tổng chi phí TC = aQ 3 + bQ 2 + cQ + d; phương trình hàm cầu Q D = a + bP + cM + dP R ; phương trình đường cung Q S = c + dQ...

Sự khan hiếm nguồn lực và đường giới hạn khả năng sản xuất

Nguồn lực là tất cả những yếu tố được sử dụng để sản xuất hàng hóa hay dịch vụ và có thể được gọi theo một tên khác là các yếu tố sản xuất. Nguồn lực được chia thành bốn nhóm:  Đất đai: Tất cả nguồn lực trong và trên mặt đất, ví dụ: rừng, khoáng sản, đất trồng trọt, đất xây dựng...  Lao động là người lao động, chất lượng, kỹ năng trình độ của người lao động.  Vốn không chỉ đề cập đến tiền mà còn bao gồm những hàng hóa có thời gian sử dụng lâu dài và nhằm sản xuất ra hàng hóa hay dịch vụ khác. Ví dụ: nhà xưởng, trang thiết bị, dây chuyền sản xuất.  Khả năng kinh doanh, khả năng tạo ra công nghệ sản xuất mới. Khả năng kết hợp vốn -lao động -đất đai nhằm đạt được hiệu quả. Vấn đề ở đây không phải là có bao nhiêu đất đai, bao nhiêu lao động hay bao nhiêu vốn mà vấn đề là sử dụng chúng như thế nào cho hiệu quả. Chúng ta có thể thấy rõ điều này thông qua xem xét Việt Nam và Nhật Bản. Sau chiến tranh thế giới II, nguồn lực về vốn như nhau, Việt Nam có nguồn lực lao động dồi dào hơn, nhưng nguồn lực về khả năng kinh doanh không bằng Nhật Bản nên nền kinh tế Việt Nam phát triển chậm hơn. Chúng ta có thể hiểu đơn giản, khan hiếm là tình trạng hàng hóa, dịch vụ hoặc nguồn lực không đủ so với mong muốn hay nhu cầu. Theo David Begg, một nguồn lực khan hiếm là nguồn lực mà tại điểm giá bằng không thì lượng cầu về nó lớn hơn lượng cung sẵn có. Như vậy, đối với các nguồn lực có mức giá lớn hơn không [có nghĩa là chúng ta phải trả một mức giá nhất định nào đó để có được một sản phẩm mà chúng ta cần] thì đó là các nguồn lực khan hiếm. Các nguồn lực có giá bằng không [có nghĩa là cho không] thì khả năng cung ứng không đủ cho nhu cầu. Nguồn lực là khan hiếm vì số lượng nguồn lực được sử dụng để sản xuất ra hàng hóa, dịch vụ là có hạn ngày một cạn kiệt. Chúng ta có thể thấy sự cạn kiệt tài nguyên khoáng sản, đất đai, lâm sản, hải sản... Trong khi đó, nhu cầu hàng hoá và dịch vụ là vô hạn, ngày càng tăng, càng đa dạng và phong phú, nhất là chất lượng ngày càng cao. Chẳng hạn người ta muốn có nước máy trong nhà, hệ thống sưởi ấm, điều hòa nhiệt độ, tủ lạnh, học hành, lương thực, tivi, sách báo, ôtô, du lịch, thể thao, hòa nhạc, chỗ ở, quần áo, không khí trong lành... Do vậy, vấn đề lựa chọn kinh tế tối ưu ngày càng phải đặt ra một cách nghiêm túc, gay gắt và thực hiện một cách rất khó khăn. Đó là đòi hỏi tất yếu của nhu cầu ngày một tăng và tài nguyên ngày một khan hiếm. Con người phải đối mặt với sự khan hiếm nguồn lực nên luôn phải lựa chọn tối ưu. Việc lựa chọn sẽ đưa đến cho con người tới sự đánh đổi -Muốn sản xuất thêm một đơn vị hàng hóa này thì phải từ bỏ một lượng hàng hóa khác. Đây chính là chi phí cơ hội để sản xuất một hàng hóa. Vậy chi phí cơ hội là gì? Chi phí cơ hội: là giá trị của phương án tốt nhất bị bỏ qua khi thực hiện sự lựa chọn. Chi phí cơ hội luôn xuất hiện khi tình trạng khan hiếm nguồn lực xảy ra, vì khi đó người ta sẽ buộc phải đánh đổi, nếu tiến hành hoạt động này thì phải bỏ hoạt động khác. Chính vì vậy, khi đưa ra bất cứ sự lựa chọn kinh tế nào, chúng ta cũng phải cân nhắc so sánh các phương án với nhau dựa theo chi phí cơ hội của các phương án đó với nguyên tắc chọn phương án có chi phí cơ hội là nhỏ nhất [xem Case study 1.1 -Chi phí cơ hội]. Ví dụ: Chi phí cơ hội của đi học và không đi học [ở nhà]. Hay thay vì nhà đầu tư đầu tư vào chứng khoán lại gửi tiền vào ngân hàng. Chúng ta cần chú ý chi phí cơ hội không phải là tổng giá trị các lựa chọn bị bỏ lỡ mà chỉ là giá trị của lựa chọn tốt nhất có thể bởi vì người ta không thể nào cùng một lúc sử dụng nhiều lựa chọn thay thế được. Với nguồn lực khan hiếm thì năng lực sản xuất của toàn bộ nền kinh tế sẽ được biểu diễn như thế nào. Chúng ta sẽ đi nghiên cứu đến khái niệm đường giới hạn khả năng sản xuất.

Trong kinh tế học có một khái niệm mà tôi rất thích: "Chi phí cơ hội". "Chi phí cơ hội" là khoản chi phí vô hình mà bạn phải trả khi lựa chọn phương án này mà không lựa chọn một phương án khác.

"Chi phí cơ hội dựa trên cơ sở là nguồn lực khan hiếm nên buộc chúng ta phải thực hiện sự lựa chọn. Lựa chọn tức là thực hiện sự đánh đổi, tức là để nhận được một lợi ích nào đó, chúng ta phải đánh đổi hoặc bỏ qua một chi phí nhất định cho nó. Như vậy, chi phí cơ hội của một phương án được lựa chọn là giá trị của phương án tốt nhất bị bỏ qua khi thực hiện sự lựa chọn đó [và là những lợi ích mất đi khi chọn phương án này mà không chọn phương án khác]".

Nói nôm na một cách đời thường thì thế này: Nếu như bạn có 100 triệu đồng trong tay, bạn quyết định đầu tư toàn bộ số tiền đó để kinh doanh một xe nước mía chẳng hạn. Khi bạn thực hiện hành vi này, ngoài những chi phí hữu hình bạn phải bỏ ra để thực hiện việc đầu tư như tiền mua xe nước mía, tiền thuê mặt bằng, tiền mua vật dụng, tiền mua nguyên vật liệu... thì sẽ tồn tại một chi phí khác nữa mà bạn không nhìn thấy.

Đó là, giả như bạn không kinh doanh nước mía, mà đem số tiền này gửi ngân hàng, hoặc thực hiện một hành vi đầu tư khác, thì có thể bạn cũng sẽ nhận được một khoản lợi nhuận khác lớn hơn khoản lời khi bạn kinh doanh nước mía.

Cuộc sống cũng như vậy. Cuộc sống là một quá trình lựa chọn. Khi bạn lựa chọn phương án này nó sẽ dẫn đến kết quả kia, hay khi bạn lựa chọn một phương án kia nó sẽ dẫn đến kết quả này. Sáng nay, bạn quyết định ăn xôi. Tất nhiên, bạn đã mất đi cơ hội được ăn ổ bánh mì mà bạn cũng rất thích [không phải vì bạn thiếu tiền mà vì cái dạ dày bạn có giới hạn]. Khi bạn lựa chọn yêu anh chàng/cô nàng này, biết đâu bạn đã lỡ mất một anh chàng/cô nàng khác phù hợp hơn với mình.

Khi bạn chọn học ngành kinh tế, biết đâu độc giả đã lỡ mất một nhà văn tài năng là bạn trong tương lai. Cách so sánh này có lẽ hơi thiển cận và quá lược giản, không suy xét đến hoàn cảnh xung quanh sự việc. Nhưng mọi việc, từ nhỏ cho đến lớn, dù là công việc, hay tình yêu, hay cuộc sống. Mỗi lựa chọn và quyết định của bạn cũng đồng nghĩa với việc bạn đã mất thêm một chi phí để có cơ hội khác có thể tốt hơn.

Tất nhiên, ngay cả các nhà kinh tế học tài ba nhất cũng không thể tính toán chính xác chi phí cơ hội thực sự của một phương án lựa chọn. Vì thế, trong cuộc sống chúng ta lại càng không thể đưa ra những quyết định đúng đắn nếu chỉ dựa trên việc tính toán các chi phi cơ hội. Bởi làm sao con người có thể đoán trước tương lai được chứ.

Tôi biết hầu hết mọi người trong chúng ta đều tính đến [một cách có ý thức hoặc vô thức] chi phí này khi chúng ta đưa ra các quyết định. Bạn tưởng tượng ra các khả năng có thể xảy ra. Dựa vào những dữ kiện mình có, phán đoán kết quả với phương án A, hoặc B, hoặc C. Sau đó, so sánh, cân đo xem cái nào tốt nhất và lựa chọn.

Tôi không nói việc này là sai trái. Bạn không thể sống trong cái thế giới nhiều biến động và lắm thị phi này chỉ với một tâm hồn trong sáng, không suy tính gì của một đứa trẻ lên hai. Tùy vào lý trí và khả năng suy xét của mỗi người mà chúng ta sẽ có những hành xử khác nhau.

Cuộc sống vốn không dễ dàng. Cuộc sống nhiều khó khăn lắm. Cuộc sống là một trường tranh đấu quyết liệt. Nếu muốn sống, muốn tồn tại và vươn lên phải đủ mạnh mẽ và lý trí để đương đầu. Đó là một trong những cách nói về cuộc sống mà tôi thường thấy một số [nhiều] người kể cả tôi hay nói. Chính vì cái tư tưởng đầy thách thức đó khiến người ta phải suy xét rất thận trọng khi lựa chọn điều gì. Và cũng vì nó mà tôi thấy con người bây giờ sống lý trí và thiếu tự nhiên thế.

Trước khi giúp đỡ người khác, người ta phải tính toán xem có bị thiệt hại hay có lợi ích gì không. Trước khi lắng nghe tiếng trái tim mình, người ta yêu và đến với một ai đó sau khi đã đưa lên bàn cân, đong tới đếm lui, và đó là anh chàng/cô nàng sẽ cho ra một kết quả với nhiều lợi ích nhất.

ECO101_Bai1_v2.3014106226

Trước khi kết bạn với ai, người ta phải tính toán hết các phương án nên dành thời gian cho ai, ai sẽ có lợi cho mình nhất. Ngày xưa, lúc còn đi học tôi rất thích câu chuyện "Tái ông thất mã". Nghĩ là may nhưng hóa ra lại là họa, nghĩ là họa nhưng hóa ra lại là may. Có ai tài giỏi mà nhìn thấy hết được điều chỉ xảy đến trong tương lai chứ.

Tôi không muốn nói rằng, hãy sống mà không suy tính, hay xét đoán điều gì cả. Nhưng khi không thể biết được điều gì là thực sự tốt nhất, tại sao không lắng nghe tiếng nói tự nhiên trong trái tim mình chứ?

Người khôn ngoan nhất không phải là người biết lựa chọn phương án có chi phí cơ hội thấp nhất. Mà người khôn ngoan nhất chính là người "KHÔNG CẦN TỎ RA QUÁ KHÔN NGOAN" trong mỗi quyết định. Điều gì dùng trái tim, điều gì dùng trí óc, tự mình phải biết suy xét. Cuộc sống sẽ chẳng bao giờ dạy cho chúng ta biết nên lựa chọn như thế nào cho tốt nhất đâu. Chúng ta biểu diễn các khả năng sản xuất trên ở một hệ trục tọa độ với trục tung đo lường sản lượng quần áo và trục hoành đo lường sản lượng lương thực. Nối các điểm này lại, ta được một đường cong liên tục và được gọi là đường giới hạn khả năng sản xuất -PPF.

Đường giới hạn khả năng sản xuất [PPF] là một tập hợp các phối hợp tối đa số lượng các sản phẩm mà nền kinh tế có thể sản xuất được, là đường gồm tập hợp tất cả các điểm biểu thị sự kết hợp các nguồn lực thích hợp để sản xuất ra một khối lượng sản phẩm nhất định của nền kinh tế. Đường PPF cho biết các mức phối hợp tối đa của sản lượng mà nền kinh tế có thể sản xuất được khi sử dụng toàn bộ nguồn lực sẵn có.  Những phương án nằm trên đường PPF như A, B, C, D, E là những phương án tối ưu. Ta nhận thấy rằng, đường PPF có dáng cong lồi ra phía ngoài [cong lõm về gốc tọa độ]. Các khoảng dịch chuyển từ A  B  C… mỗi đoạn tương ứng với việc chuyển một công nhân từ ngành quần áo sang ngành sản xuất lương thực và mỗi lần chuyển này làm giảm sản lượng trong ngành quần áo nhưng lại tăng sản lượng trong ngành lương thực. Với mỗi một lần chuyển công nhân, chúng ta nhận được ít hơn sản lượng lương thực sản xuất thêm và phải chịu mất một lượng tăng thêm của sản lượng quần áo.  Những điểm nằm phía trên đường PPF [ví dụ như điểm N] là những điểm không thể đạt tới với nguồn lực và công nghệ hiện có do sự khan hiếm của nguồn lực. So sánh điểm N với B hoặc D chúng ta có thể thấy nền kinh tế không thể đạt được mức sản lượng sản xuất tại N. Với mức sản lượng 40 triệu bộ quần áo/năm nền kinh tế hiện tại chỉ có thể sản xuất tối đa 11 triệu tấn lương thực/năm tức là tối đa tại điểm B. Tương tự, khi so sánh khả năng sản xuất tại N và D chúng ta cũng đưa ra được kết luận tương tự.  Sự khan hiếm về các nguồn lực buộc xã hội phải chọn các điểm nằm trong hoặc trên đường PPF. Để đạt được các điểm này, cần phải tìm cách đẩy đường PPF ra ngoài bằng các biện pháp như: đổi mới công nghệ, thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô...  Các điểm như điểm M nằm trong đường giới hạn, là những điểm không hiệu quả vì ở đó xã hội bỏ phí các nguồn lực. Lý luận tương tự như việc so sánh vị trí của M và B, D chúng ta có thể với nguồn lực chỉ để đầu tư sản xuất 11 triệu tấn lương thực/năm nền kinh tế có thể sản xuất 40 triệu bộ quần áo/năm [tại B] thay vì chỉ sản xuất được 16 triệu bộ quần áo/năm [tại M]. Nền kinh tế có thể tăng thêm sản lượng của một mặt hàng mà không đòi hỏi phải cắt bớt sản lượng mặt hàng khác, như vậy nguồn lực chưa được sử dụng hiệu quả.

Qua việc phân tích những điểm nằm ngoài đường PPF với những giả định công nghệ là cố định là những điểm mà doanh nghiệp không thể đạt được do nguồn lực khan hiếm. Như vậy, PPF chính là công cụ để biểu diễn cho sự khan hiếm nguồn lực của một doanh nghiệp.

Như chúng ta đã biết, tính hiệu quả được thể hiện khi nền kinh tế không thể sản xuất thêm sản lượng của một hàng hóa này mà sản lượng hàng hóa kia tăng hoặc không đổi.

Đường PPF minh họa cho sự hiệu quả vì với số lượng nguồn lực có hạn, nền kinh tế muốn tăng sản lượng lương thực phải giảm sản lượng quần áo. Điều này thể hiện qua sự dịch chuyển các phương án sản xuất từ A đến B, C, D. Ví dụ, khi chuyển từ phương án A sang phương án B, có thể tăng 11 triệu tấn lương thực, nhưng phải từ bỏ 8 triệu bộ quần áo.

Với những căn cứ vậy, chúng ta có thể kết luận những điểm nằm phía trong đường PPF như điểm M là những điểm sản xuất và sử dụng nguồn lực không hiệu quả.

Chúng ta hoàn toàn có thể xác định chi phí cơ hội cho việc sản xuất một triệu tấn lương thực thông qua đường PPF như sau:

Từ điểm A đến điểm B: Để sản xuất thêm 11 triệu tấn lương thực thì phải đánh đổi bằng việc giảm 8 triệu bộ quần áo. Chi phí cơ hội để sản xuất thêm 11 tấn lương thực là 8 triệu bộ quần áo. Chi phí cơ hội để sản xuất thêm 1 tấn lương thực = 8/11 bộ quần áo.

Ta có chi phí cơ hội = Ta thấy, dịch chuyển các điểm từ A đến E nằm trên đường giới hạn khả năng sản xuất thì cho ta thấy chi phí cơ hội tăng dần. Để sản xuất thêm một triệu tấn lương thực thì xã hội sẽ phải từ bỏ ngày càng nhiều các bộ quần áo. Đó là tất cả các ý nghĩa mà bản thân đường khả năng giới hạn sản xuất thể hiện. Tuy nhiên một câu hỏi với các điểm như N, nền kinh tế có thể đạt tới hay không, chúng ta sẽ giải đáp được thông qua xem xét sự dịch chuyển, mở rộng của đường PPF.

Đạt được các điểm nằm ngoài đường PPF, doanh nghiệp cần phải tìm cách lựa chọn các phương án nằm ngoài đường PPF, xác định được đường PPF mới.

Đường PPF dịch chuyển phụ thuộc vào các yếu tố chính như: tăng lên của nguồn lực về chất lượng hoặc số lượng, tiến bộ của khoa học công nghệ hay những chính sách vĩ mô của Nhà nước tác động làm cải thiện nguồn lực và công nghệ.

Hình 1.6. Các nguyên nhân làm cho đường PPF dịch chuyển ra phía ngoài

Quy luật chi phí cơ hội ngày càng tăng lên cho biết: Để sản xuất thêm một đơn vị hàng hóa này, xã hội sẽ phải từ bỏ ngày càng nhiều các đơn vị của loại hàng hóa khác. Do sự chuyển hóa các nguồn lực khi chuyển từ sản xuất hàng hóa này sang sản xuất hàng hóa khác là không hoàn toàn phù hợp. Có thể đó là nguồn lực tốt để sản xuất hàng hóa này nhưng nó lại không phải là nguồn lực tốt để sản xuất hàng hóa kia. Qua phân tích sự thay đổi các phương án sản xuất từ A đến E [dọc theo đường PPF từ trên xuống dưới], doanh nghiệp sẽ phải đánh đổi nhiều quần áo để có thể sản xuất thêm được 1 đơn vị lương thực, chi phí cơ hội là ngày càng tăng [xem case study 1.1 -Chi phí cơ hội]. Do quy luật chi phí cơ hội ngày càng tăng mà chi phí cơ hội lại được tính bằng giá trị tuyệt đối độ dốc đường PPF nên đường giới hạn khả năng sản xuất là một đường cong lồi về phía gốc tọa độ.

Nền kinh tế là một cơ chế phân bổ các nguồn lực khan hiếm cho các mục tiêu cạnh tranh. Cơ chế này nhằm giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Và sản xuất cho ai?

Trong điều kiện nguồn lực khan hiếm, nền kinh tế không thể sản xuất tất cả các hàng hóa, dịch vụ mà cần có sự lựa chọn quyết định sản xuất hàng hóa gì với số lượng bao nhiêu, chất lượng ra sao.

Sản xuất cái gì là vấn đề cơ bản đầu tiên cần phải trả lời. Vì nguồn lực khan hiếm nên không thể dễ dàng đáp ứng mọi nhu cầu của xã hội. Trong khả năng hiện có, xã hội phải lựa chọn để sản xuất một số loại hàng hóa nhất định. Việc lựa chọn loại hàng hóa, dịch vụ gì nên được ưu tiên sản xuất sẽ được căn cứ vào nhiều yếu tố, ví dụ nhu cầu của thị trường, khả năng về các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp, tình hình cạnh tranh, giá cả trên thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, giá cả sẽ là tín hiệu trực tiếp nhất giúp người sản xuất quyết định sản xuất cái gì. Vấn đề này có thể được hiểu như là: "Sản phẩm và dịch vụ nào sẽ được sản xuất?". Trong nền kinh tế thị trường, sự tương tác giữa người mua và người bán vì lợi ích cá nhân sẽ xác định sản phẩm và dịch vụ nào sẽ được sản xuất. Nhà kinh tế học Adam Smith trong tác phẩm "The Wealth of Nations" đã cho rằng sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất sẽ đem lại lợi ích cho xã hội. Sự cạnh tranh làm cho các nhà sản xuất cung cấp các sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Trong việc tìm kiếm lợi nhuận, nhà sản xuất cố gắng cung cấp các sản phẩm có chất lượng cao hơn nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Điều này có thể giải thích tại sao người tiêu dùng có "quyền tối thượng" xác định những sản phẩm và dịch vụ nào sẽ được sản xuất. Một số nhà kinh tế, chẳng hạn như John Kenneth Galbraith cũng đề cập đến vấn đề này và cho rằng các hoạt động tiếp thị của các công ty lớn có thể ảnh hưởng đáng kể đến cầu tiêu dùng trong ngắn hạn. Hầu hết, các nhà kinh tế đều thống nhất rằng, mặc dù các biện pháp tiếp thị có thể ảnh hưởng cầu tiêu dùng, nhưng người tiêu dùng mới chính là người quyết định sản phẩm và dịch vụ nào sẽ được mua. Nếu vì lý do nào đó, người tiêu dùng mong muốn tiêu dùng sản phẩm nhiều hơn, điều này sẽ làm tăng cầu. Trong ngắn hạn, sự gia tăng cầu có thể làm tăng giá cả, lượng sản xuất cũng tăng lên và lợi nhuận của các công ty trong ngành cũng cao hơn. Lợi nhuận cao trong ngành sẽ hấp dẫn các công ty mới gia nhập thị trường trong dài hạn và vì vậy cung thị trường sẽ tăng lên. Sự tăng cung sẽ làm cho giá cả hàng hóa giảm xuống trong khi đó lượng bán vẫn tiếp tục tăng lên. Lợi nhuận trong ngắn hạn do sự gia tăng cầu trong ngắn hạn dần dần sẽ bị mất đi khi giá giảm xuống. Điều này có thể giải thích sự phù hợp với khái niệm quyền tối thượng của người tiêu dùng. Ngoài ra, nhu cầu thị trường về hàng hóa rất đa dạng và phong phú, tăng cả cả về số lượng và chất lượng. Mà khả năng thanh toán, sự khan hiếm về thu nhập đối với cá nhân người tiêu dùng đòi hỏi Chính phủ và các doanh nghiệp cần có sự tính toán và sự lựa chọn hàng hóa phù hợp với người tiêu dùng, có lợi cho xã hội và tối đa hóa lợi nhuận. Ví dụ, ở thị trường nông thôn không nên chọn sản xuất xe SH để bán cho người nông dân.

Khi đã lựa chọn được cần sản xuất cái gì, Chính phủ và các doanh nghiệp phải xem xét và lựa chọn việc sản xuất như thế nào để cạnh tranh thắng lợi trên thị trường và có lợi nhuận cao nhất. Từ mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận doanh nghiệp và phúc lợi xã hội, Chính phủ và các doanh nghiệp luôn tìm kiếm, lựa chọn các phương pháp sản xuất có hiệu quả nhất. Sản xuất như thế nào có nghĩa là do ai sản xuất, bằng công nghệ gì với những tài nguyên nào? Phải kết hợp con người lao động và công nghệ, máy móc sản xuất như thế nào? Bao nhiêu là hợp lý? Sản xuất như thế nào ở đây không chỉ đề cập đến công nghệ mà cách thức kết hợp các yếu tố đầu vào như thế nào để có thể tối thiểu được chi phí và tối đa lợi nhuận. Sau khi quyết định được loại hàng hóa, dịch vụ gì nên được sản xuất, xã hội phải trả lời câu hỏi quan trọng thứ hai là "Sản xuất như thế nào?", tức là tìm ra phương pháp, công nghệ thích hợp cho sản xuất, sự kết hợp hợp lý và hiệu quả giữa các nguồn lực đầu vào để sản xuất ra hàng hóa được lựa chọn. Đồng thời, giải quyết vấn đề "Sản xuất như thế nào?" cũng chính là tìm câu trả lời cho những câu hỏi sau: Hàng hóa đó nên sản xuất ở đâu? Sản xuất bao nhiêu? Khi nào thì sản xuất và cung cấp? Tổ chức và quản lý các khâu từ lựa chọn đầu vào đến tiêu thụ sản phẩm ra sao? Vấn đề thứ hai này có thể phát biểu một cách hoàn chỉnh là: "Sản phẩm và dịch vụ được sản xuất bằng cách nào?". Vấn đề này liên quan đến việc xác định những nguồn lực nào được sử dụng và phương pháp để sản xuất ra những sản phẩm và dịch vụ. Chẳng hạn để sản xuất ra điện, các quốc gia có thể xây dựng các nhà máy nhiệt điện, thủy điện, điện nguyên tử. Tuy nhiên, việc lựa chọn phương pháp sản xuất nào còn phải xem xét trên khía cạnh hiệu quả kinh tế -xã hội, nguồn lực và trình độ khoa học kỹ thuật của mỗi quốc gia. Trong nền kinh tế thị trường, các nhà sản xuất vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận sẽ phải tìm kiếm các nguồn lực có chi phí thấp nhất có thể [giả định với số lượng và chất lượng sản phẩm không thay đổi]. Các phương pháp và kỹ thuật sản xuất mới chỉ có thể được chấp nhận khi chúng làm giảm chi phí sản xuất. Trong khi đó, các nhà cung cấp nguồn lực sản xuất sẽ cung cấp nguồn lực đem lại cho họ các giá trị cao nhất. Một lần nữa, "bàn tay vô hình" theo thuyết của Adam Smith dẫn dắt cách thức phân phối nguồn lực đem lại giá trị sử dụng cao nhất. Để có thể lý giải tại sao một số quốc gia lựa chọn tập trung sản xuất một số hàng hóa và trao đổi với các quốc gia khác. Vấn đề ở đây liên quan đến việc xem xét chi phí cơ hội và bằng cách so sánh chi phí tương đối trong việc sản xuất các hàng hóa, các quốc gia sẽ sản xuất và trao đổi hàng hóa trên cơ sở chi phí cơ hội thấp nhất.

Sau khi xác định được loại hàng hóa, dịch vụ nào nên được sản xuất và phương pháp sản xuất các loại sản phẩm đó, xã hội còn phải giải quyết vấn đề cơ bản thứ ba là "Sản xuất cho ai?". Câu hỏi này liên quan đến việc lựa chọn phương pháp phân phối các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ được sản xuất ra tới tay người tiêu dùng như thế nào. Tất nhiên, vì nguồn lực là khan hiếm, sẽ có cạnh tranh trong tiêu dùng và trên thị trường tự do cạnh tranh thì sản phẩm sẽ thuộc về người có khả năng thanh toán cho việc mua sản phẩm. Tuy nhiên, vấn đề này sẽ được Chính phủ xem xét và điều tiết thông qua các chính sách về thuế, giá cả và trợ cấp, nhằm đảm bảo cho cả những người nghèo, khó khăn, có thu nhập thấp cũng được hưởng những thành quả từ nguồn lực của xã hội. Vấn đề thứ ba này phải giải quyết đó là "Ai sẽ nhận sản phẩm và dịch vụ?". Trong nền kinh tế thị trường, thu nhập và giá cả xác định ai sẽ nhận hàng hóa và dịch vụ cung cấp. Điều này được xác định thông qua tương tác của người mua và bán trên thị trường sản phẩm và thị trường nguồn lực. Thu nhập chính là nguồn tạo ra năng lực mua sắm của các cá nhân và phân phối thu nhập được xác định thông qua: tiền lương, tiền lãi, tiền cho thuê và lợi nhuận trên thị trường nguồn lực sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường, những ai có nguồn tài nguyên, lao động, vốn và kỹ năng quản lý cao hơn sẽ nhận thu nhập cao hơn. Với thu nhập này, các cá nhân đưa ra quyết định loại, số lượng sản phẩm sẽ mua trên thị trường sản phẩm và giá cả định hướng cách thức phân bổ nguồn lực cho những ai mong muốn trả với mức giá thị trường.

Các nền kinh tế luôn đối diện với ba vấn đề cơ bản như chúng ta đã phân tích. Nhưng việc giải quyết đó không hẳn giống nhau. Với mỗi hệ thống kinh tế sẽ có cách thức giải quyết khác nhau. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này thông qua việc nghiên cứu 3 hệ thống kinh tế dưới đây:

 Quản lý được tập trung thống nhất và giải quyết được những nhu cầu công cộng của xã hội.  Giải quyết được những vấn đề xã hội và an ninh.

 Hạn chế được sự phân hóa giàu nghèo và bất công trong xã hội.

 Tập trung được nguồn lực để giải quyết được những cân đối lớn của nền kinh tế quốc dân.

 Tập trung quan liêu, bao cấp không thúc đẩy và kích thích sản xuất phát triển. Mọi quyết định đều do Nhà nước quyết định, các doanh nghiệp không được quyền chủ động trong việc sản xuất kinh doanh của mình.  Phân phối bình quân không xuất phát từ nhu cầu thị trường, mang tính chủ quan, điều này sẽ dẫn tới những mất cân đối cục bộ và sự phân phối trở nên không hiệu quả.  Bộ máy nặng nề, cồng kềnh, quan liêu, kém hiệu lực.

 Phân phối và sử dụng nguồn lực kém hiệu quả, các doanh nghiệp thường chờ đợi, ỷ lại thiếu năng động sáng tạo.  Sự can thiệp của Nhà nước vào những hoạt động cụ thể của doanh nghiệp.

ECO101_Bai1_v2.3014106226

Để giải quyết 3 vấn đề kinh tế cơ bản, nền kinh tế thị trường đều phải thông qua hoạt động của quan hệ cung cầu trên thị trường, quan hệ cạnh tranh, giá cả thị trường. Cách thức giải quyết này xuất phát từ tư tưởng "bàn tay vô hình" của Adam Smith. Giá cả thị trường có vai trò quyết định trong quá trình lựa chọn và ra quyết định, giá cả thị trường do quan hệ cung cầu quyết định và phản ánh quan hệ cung cầu, cạnh tranh trên thị trường. Nền kinh tế thị trường có những ưu điểm và hạn chế sau:

Các chủ thể trong nền kinh tế trở nên năng động hơn. Do các quyết định từ sản xuất và tiêu dùng là từ bản thân các doanh nghiệp nên họ luôn có sự đổi mới trong sản xuất, cải tiến công nghệ, phát triển đội ngũ nhân lực, sử dụng hiệu quả các nguồn lực cũng như có những chiến lược phân phối hàng hóa phù hợp... để có thể tối đa hóa lợi nhuận. Người tiêu dùng cũng có điều kiện quyết định tiêu dùng những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của mình, không còn ở tình trạng bị động như trong nền kinh tế chỉ huy. Từ đó, họ cũng trở nên năng động hơn, hài hòa giữa việc theo đuổi các lợi ích và thu nhập [ngân sách] để có thể tối đa hóa lợi ích của mình.

 Do tính cạnh tranh, vì động cơ lợi nhuận là mục tiêu tối đa và duy nhất, cho nên dễ nảy sinh tình trạng ô nhiễm, phân hóa giàu nghèo, bất công xã hội.  Mức chênh lệch giàu nghèo có thể gây ra, dẫn đến những mâu thuẫn xã hội, nhiều nhu cầu công cộng rất cần cho xã hội và con người, những nếu như lợi nhuận thấp hoặc không có thì những nhu cầu đó không thực hiện được.  Những yêu cầu về an ninh, quốc phòng và xã hội không được giải quyết thỏa đáng.

Như vậy, có thể nhận thấy rằng mỗi một mô hình kinh tế đều có những điểm mạnh và điểm yếu của nó, nói khác đi thì kinh tế thị trường có những lợi thế song cũng có những khuyết tật của nó.

Nếu chỉ phát triển nền kinh tế theo mô hình nền kinh tế chỉ huy hay nền kinh tế thị trường tự do sẽ là việc chúng ta vỗ tay bằng một bàn tay. Việc vận hành nền kinh tế theo mô hình hỗn hợp được ví như hình ảnh vỗ tay có đủ cả hai bàn tay. Nền kinh tế hỗn hợp đòi hỏi trước hết phải phát triển theo cơ chế thị trường [bàn tay vô hình], có nghĩa là cần phát triển các quan hệ cung cầu, cạnh tranh, tôn trọng vai trò của giá cả thị trường, lấy lợi nhuận làm mục tiêu và động cơ phấn đấu. Tuy nhiên, bàn tay hữu hình cũng rất cần thiết đó là sự can thiệp của Nhà nước.

Nếu để nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường sẽ có rất nhiều khuyết tật, và những khuyết tật này sẽ được khắc phục thông qua sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đó là xu thế phát triển tất yếu của nền kinh tế các nước trên thế giới. Nó có ý nghĩa quyết định đến việc lựa chọn tối ưu những vấn đề kinh tế cơ bản của một nền kinh tế và của doanh nghiệp. Việt Nam đang cố gắng xây dựng được nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trung Quốc đang theo đuổi, xây dựng kinh tế thị trường mang màu sắc Trung Quốc và đang rất thành công, dần trở thành một cường quốc kinh tế lớn trên thế giới. Tuy nhiên, cũng có hai nước chưa chuyển sang nền kinh tế thị trường rõ nét như Cuba và Bắc Triều Tiên.  Phương pháp phân tích cận biên: Đây là phương pháp đặc thù của kinh tế học nói chung và kinh tế học vi mô nói riêng. Nó cũng là phương pháp cơ bản của sự lựa chọn kinh tế tối ưu bởi vì bất cứ sự lựa chọn nào cũng phải dựa trên sự so sánh giữa lợi ích mang lại và chi phí bỏ ra. Phương pháp phân tích cận biên được sử dụng để tìm ra điểm tối ưu của sự lựa chọn.

 Khan hiếm là tình trạng hàng hóa, dịch vụ hoặc nguồn lực không đủ so với mong muốn hay nhu cầu. Theo David Begg, một nguồn lực khan hiếm là nguồn lực mà tại điểm giá bằng không thì lượng cầu về nó lớn hơn lượng cung sẵn có. Như vậy, đối với các nguồn lực có mức giá lớn hơn không [có nghĩa là chúng ta phải trả một mức giá nhất định nào đó để có được một sản phẩm mà chúng ta cần] thì đó là các nguồn lực khan hiếm.

 Nguồn lực là khan hiếm vì số lượng nguồn lực được sử dụng để sản xuất ra hàng hóa, dịch vụ là có hạn, ngày một cạn kiệt. Chúng ta có thể thấy sự cạn kiệt tài nguyên khoáng sản, đất đai, lâm sản, hải sản... Trong khi đó, nhu cầu hàng hoá và dịch vụ là vô hạn, ngày càng tăng, càng đa dạng và phong phú, nhất là chất lượng ngày càng cao. Chẳng hạn người ta muốn có nước máy trong nhà, hệ thống sưởi ấm, điều hoà nhiệt độ, tủ lạnh, học hành, lương thực, tivi, sách báo, ôtô, du lịch, thể thao, hòa nhạc, chỗ ở, quần áo, không khí trong lành...  Chi phí cơ hội: là giá trị của phương án tốt nhất bị bỏ qua khi thực hiện sự lựa chọn. Chi phí cơ hội luôn xuất hiện khi tình trạng khan hiếm nguồn lực xảy ra, vì khi đó người ta sẽ buộc phải đánh đổi, nếu tiến hành hoạt động này thì phải bỏ hoạt động khác. Chính vì vậy, khi đưa ra bất cứ sự lựa chọn kinh tế nào, chúng ta cũng phải cân nhắc so sánh các phương án với nhau dựa theo chi phí cơ hội của các phương án đó với nguyên tắc chọn phương án có chi phí cơ hội là nhỏ nhất. Quy luật chi phí cơ hội ngày càng tăng lên cho biết: Để sản xuất thêm một đơn vị hàng hóa này, xã hội sẽ phải từ bỏ ngày càng nhiều các đơn vị của loại hàng hóa khác.

 Đường PPF là một tập hợp các phối hợp tối đa số lượng các sản phẩm mà nền kinh tế có thể sản xuất được, là đường gồm tập hợp tất cả các điểm biểu thị sự kết hợp các nguồn lực thích hợp để sản xuất ra một khối lượng sản phẩm nhất định của nền kinh tế. Đường PPF cho biết các mức phối hợp tối đa của sản lượng mà nền kinh tế có thể sản xuất được khi sử dụng toàn bộ nguồn lực sẵn có.

 Nền kinh tế là một cơ chế phân bổ các nguồn lực khan hiếm cho các mục tiêu cạnh tranh. Cơ chế này nhằm giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Và sản xuất cho ai?

 Nền kinh tế chỉ huy [kinh tế kế hoạch hoá tập trung]: Đối với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước đứng ra giải quyết 3 vấn đề kinh tế cơ bản. Nhà nước giao chỉ tiêu pháp lệnh cho các ngành, các địa phương và cơ sở sản xuất kinh doanh. Nhà nước tiến hành quốc doanh hóa và tập thể hóa, xóa bỏ tư nhân. Nhà nước cấp phát vốn và vật tư cho các ngành, các địa phương và cơ sở thực hiện nhiệm vụ. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ phải giao nộp sản phẩm và tích lũy cho Nhà nước theo chỉ tiêu pháp lệnh.

 Nền kinh tế thị trường tự do: Để giải quyết 3 vấn đề kinh tế cơ bản, nền kinh tế thị trường đều phải thông qua hoạt động của quan hệ cung cầu trên thị trường, quan hệ cạnh tranh, giá cả thị trường. Cách thức giải quyết này xuất phát từ tư tưởng "bàn tay vô hình" của Adam Smith. Giá cả thị trường có vai trò quyết định trong quá trình lựa chọn và ra quyết định, giá cả thị trường do quan hệ cung cầu quyết định và phản ánh quan hệ cung cầu, cạnh tranh trên thị trường.

 Mô hình kinh tế hỗn hợp: Nền kinh tế hỗn hợp, đòi hỏi trước hết phải phát triển theo cơ chế thị trường [bàn tay vô hình], có nghĩa là cần phát triển các quan hệ cung cầu, cạnh tranh, tôn trọng vai trò của giá cả thị trường, lấy lợi nhuận làm mục tiêu và động cơ phấn đấu. Tuy nhiên, bàn tay hữu hình cũng rất cần thiết đó là sự can thiệp của Nhà nước.

Nam muốn đi từ Hà Nội vào Vinh. Nếu Nam đi máy bay thì sẽ mất 1 giờ, còn nếu Nam đi ô tô bus sẽ cần 5 giờ.

Video liên quan

Chủ Đề