Tại sao nói nhiệm vụ củng cố và giữ vững chính quyền là nhiệm vụ trung tâm của cách mạng

Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành lập. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới về nền độc lập của nhân dân Việt Nam.

Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã đem lại cho cách mạng Việt Nam thế và lực mới. Đảng ta từ một đảng hoạt động bất hợp pháp trở thành đảng cầm quyền, nhân dân ta được giải phóng khỏi cuộc đời nô lệ, trở thành người làm chủ đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, ngày 2/9/1945. [Nguồn: Internet]

Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mới ra đời đã đứng trước những khó khăn, thách thức tưởng chừng khó vượt qua của thù trong, giặc ngoài và những khó khăn về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... mà chế độ thực dân, phong kiến để lại. Nước ta còn nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc và các chính quyền phản động trong khu vực. Nhân dân ta còn chưa nhận được sự giúp đỡ trực tiếp của các nước xã hội chủ nghĩa và lực lượng tiến bộ trên thế giới.

Nền kinh tế vốn nghèo nàn, lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Nạn đói năm 1945 làm 2 triệu người chết, tiếp đó là lũ lụt, hạn hán kéo dài làm 50% ruộng đất bị bỏ hoang. Sản xuất nông nghiệp đình đốn. Tài chính khô kiệt, kho bạc trống rỗng, Ngân hàng Đông Dương còn nằm trong tay tư bản Pháp.

Trình độ văn hoá của nhân dân ta thấp kém, 90% số dân mù chữ. Ở miền Bắc, 20 vạn quân Tưởng ồ ạt tràn qua biên giới, kéo theo là Việt Quốc, Việt Cách, chúng lập chính quyền phản động ở một số nơi, cướp của giết người và chống phá chính quyền cách mạng. Ở miền Nam, quân Anh với danh nghĩa đồng minh kéo vào nước ta tiếp tay cho thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai. “Tổ quốc lâm nguy! Vận mệnh dân tộc như ngàn cân treo sợi tóc!”.

Trước tình hình đó, ngày 25/11/1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc.

Dựa trên những nhận định về tình hình khách quan và chủ quan, về tình hình của ta và địch, Chỉ thị chỉ rõ: Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng. Cuộc cách mạng ấy đang tiếp diễn, nó chưa hoàn thành vì nước chưa được hoàn toàn độc lập.

Nhiệm vụ cứu nước của giai cấp vô sản chưa xong. Giai cấp vô sản vẫn phải hăng hái, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng ấy. Khẩu hiệu vẫn là “Dân tộc trên hết. Tổ quốc trên hết”.

Chỉ thị xác định kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng.

Chiến thuật của ta lúc này là lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược. Mở rộng Việt Minh bao gồm mọi tầng lớp nhân dân [chú trọng vận động địa chủ, phong kiến và đồng bào công giáo...].

Thống nhất mặt trận Việt - Miên - Lào chống Pháp xâm lược. Kiên quyết giành độc lập - tự do - hạnh phúc dân tộc. Độc lập về chính trị, thực hiện chế độ dân chủ cộng hoà; cải thiện đời sống cho nhân dân.

Chỉ thị cũng đề ra nhiệm vụ cần kíp của nhân dân Đông Dương đối với cách mạng thế giới là phải tranh đấu để thực hiện triệt để hiến chương các nước liên hiệp, ủng hộ Liên Xô, xây dựng hoà bình thế giới, mở rộng chế độ dân chủ ra các nước, giải phóng cho các dân tộc thuộc địa. Đối với cách mạng Việt Nam, nhiệm vụ riêng, cần kíp là phải củng cố chính quyền chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân.

Trong những nhiệm vụ đó, nhiệm vụ bao trùm là củng cố chính quyền. Để củng cố chính quyền cách mạng, thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ “kháng chiến” và “kiến quốc”, Chỉ thị vạch ra những biện pháp toàn diện và cơ bản để thực hiện.

Về nội chính: Một mặt xúc tiến việc đi đến thành lập Quốc hội để quy định Hiến pháp, bầu Chính phủ chính thức.

Về quân sự: Động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến, tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài; phối hợp chiến thuật du kích với phương pháp bất hợp tác đến triệt để.

Về ngoại giao: Nắm vững nguyên tắc thêm bạn, bớt thù, biểu dương thực lực; kiên trì chủ trương ngoại giao với các nước theo nguyên tắc “bình đẳng và tương trợ”. Đối với Tưởng Giới Thạch, vẫn chủ trương Hoa - Việt thân thiện, coi Hoa kiều như dân tối huệ quốc. Đối với Pháp, thực hành độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế.

Về tuyên truyền: Kêu gọi đoàn kết, chống chủ nghĩa thực dân Pháp xâm lược. Phản đối chia rẽ nhưng chống sự thống nhất vô nguyên tắc với thế lực phản quốc; chống mọi mưu mô phá hoại, chia rẽ của phái Tờ-rốt-xki, Đại Việt, Việt Nam Quốc dân đảng và nâng cao sự tin tưởng của quốc dân vào thắng lợi cuối cùng, khêu gợi chí căm hờn chống thực dân Pháp nhưng tránh khuynh hướng “vị chủng”. Chống thực dân Pháp xâm lược. Không công kích nhân dân Pháp, chỉ công kích bọn thực dân Pháp xâm lược.

Về kinh tế và tài chính: Mở lại các nhà máy do Nhật bỏ; khai thác các mỏ, cho tư nhân được góp vốn vào việc kinh doanh các nhà máy và mỏ ấy; khuyến khích các giới công thương mở hợp tác xã, mở các hội cổ phần tham gia kiến thiết lại nước nhà. Thực hiện khuyến nông, sửa chữa đê điều, lập quốc gia ngân hàng, phát hành giấy bạc, định lại ngạch thuế, lập ngân quỹ toàn quốc, các xứ, các tỉnh.

Về cứu tế: Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi của các giới đồng bào, lập quỹ cứu tế, lập kho thóc cứu tế, tổ chức “bữa cháo cầm hơi”… Động viên thanh niên nam, nữ tổ chức thành các đoàn “cứu đói”, và các “đội quân trừ giặc đói” để trồng trọt khai khẩn, lấy lương cho dân nghèo, hay quyên cho các quỹ cứu tế, tổ chức việc tiếp tế, mua gạo nhà giàu bán cho nhà nghèo theo giá hạ, chở gạo chỗ thừa sang chỗ thiếu…

Về văn hoá: Tổ chức bình dân học vụ, tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở các trường đại học và trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi nhét, cổ động văn hoá cứu quốc, kiến thiết nền văn hoá mới theo ba nguyên tắc: Khoa học hoá, đại chúng hoá, dân tộc hoá.

Lớp học bình dân học vụ [Nguồn: Inernet]

Chỉ thị nhấn mạnh: Muốn thực hiện được những nhiệm vụ trên đây, Đảng và Mặt trận Việt Minh phải được củng cố và phát triển.

Về Đảng, phải duy trì hệ thống tổ chức bí mật và nửa công khai của Đảng, phát triển thêm đảng viên, đặc biệt chú trọng gây cơ sở xí nghiệp của Đảng cho thật rộng, làm sao cho sự phát triển của Đảng ăn nhịp với sự phát triển của công nhân cứu quốc; giữ vững sinh hoạt của Đảng; thành lập đảng đoàn trong các cơ quan hành chính và các đoàn thể quần chúng; xây dựng hệ thống tổ chức đảng trong quân đội…

Về Mặt trận Việt Minh, hết sức phát triển các tổ chức cứu quốc. Thống nhất các tổ chức ấy lên toàn kỳ, toàn quốc; sửa chữa lại điều lệ cho các đoàn thể cứu quốc cho thích hợp với hoàn cảnh mới; mở rộng Mặt trận Việt Minh, lập các đoàn thể cứu quốc mới, giải quyết những mâu thuẫn giữa Uỷ ban nhân dân và Uỷ ban Việt Minh; củng cố quyền lãnh đạo của Đảng trong Mặt trận, thống nhất Mặt trận Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia chống Pháp xâm lược.

Chỉ thị còn đề ra các biện pháp thực hiện những nhiệm vụ cụ thể về chính quyền, kháng chiến ở Nam Bộ, về chống và đề phòng nạn đói, về tổng quyển cử…

Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 25/11/1945 là Cương lĩnh hành động trước mắt của Đảng và nhân dân ta. Bản Chỉ thị đã giải quyết kịp thời những vấn đề quan trọng về chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược cách mạng trong thời kỳ mới giành được chính quyền, đưa đất nước vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.

Nhờ có chủ trương đúng đắn, sáng suốt và nhiều quyết sách kịp thời của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh mà cách mạng Việt Nam đã vượt qua những thách thức hiểm nghèo, tranh thủ từng thời gian hoà bình quý báu để xây dựng thực lực, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.

PV [tổng hợp]

QPTD -Thứ Sáu, 30/08/2019, 07:49 [GMT+7]

Đường lối đấu tranh giữ vững chính quyền, bảo vệ nền độc lập, tự do những năm đầu thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới thành lập đã phải đối phó với vô vàn khó khăn, thách thức, nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài tình của Đảng, nhân dân Việt Nam vừa giữ vững được chính quyền cách mạng, vừa bảo vệ vững chắc nền độc lập, tự do của đất nước.

Ngày 02-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng tuyên bố trước toàn thể quốc dân, đồng bào và thế giới về sự ra đời của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với những quyền dân tộc cơ bản của một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Đây là thành quả của tinh thần quật cường, khao khát tự do, độc lập; sự nỗ lực phi thường của một dân tộc anh hùng không chịu khuất phục trước bất cứ kẻ thù nào, dù chúng có mạnh đến đâu chăng nữa. Tuy nhiên, ngay sau khi thành lập, chính quyền Cách mạng Việt Nam phải đối phó với một tình thế hết sức hiểm nghèo, bởi sự hoành hành của nạn “giặc đói”, “giặc dốt” và giặc ngoại xâm1 đang trực tiếp đe dọa sự tồn vong của dân tộc và nền độc lập nước nhà. Trong khi đó, hệ thống chính quyền từ Trung ương đến cơ sở mới thành lập còn chưa được hoàn thiện trên phạm vi cả nước. Quân đội thường trực đang trong quá trình xây dựng, trình độ tác chiến còn nhiều hạn chế, vũ khí, trang bị thô sơ và thiếu thốn [chủ yếu là giáo mác, dao găm, mã tấu và một số súng trường, súng máy]. Nguy hiểm hơn là chỉ sau 03 tuần Ngày Lễ Độc lập của dân tộc, quân Pháp đã trở lại xâm lược Việt Nam một lần nữa. Điều đó cho thấy, lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền đã khó, giữ vững chính quyền cách mạng và bảo vệ nền độc lập của đất nước trong tình thế “nghìn cân treo sợi tóc” đối với Đảng ta càng trở nên khó khăn gấp bội.

Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá chính xác tình hình thế giới, khu vực, nhất là những nguy cơ, thách thức lớn trong nước, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời hoạch định đường lối chính trị đúng đắn, giữ vững nguyên tắc chiến lược và linh hoạt trong sách lược, lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, giữ vững chính quyền cách mạng, bảo vệ vững chắc nền độc lập, tự do của đất nước trong những năm đầu mới thành lập. Thành công đó của Đảng đã khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo và sự chỉ đạo, tổ chức thực hiện đường lối cách mạng một cách xuất sắc, nổi bật một số nội dung chủ yếu sau:

Một là, xây dựng và duy trì hoạt động hiệu quả bộ máy chính quyền nhà nước dân chủ từ Trung ương đến địa phương. Để giữ vững và phát huy thành quả cách mạng vừa giành được, một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu được Đảng ta xác định là: xây dựng bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân từ Trung ương đến địa phương phù hợp với đặc điểm tình hình của đất nước. Bởi lẽ, hệ thống chính quyền mạnh không chỉ có khả năng tự bảo vệ mình và khẳng định sự hiện diện của một chính thể quốc gia độc lập, mà còn là cầu nối thực thi thắng lợi đường lối chính trị của Đảng. Theo đó, ngay sau khi trở về Thủ đô, dưới sự lãnh đạo của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam đã cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chính phủ lâm thời đã nhanh chóng tiếp quản, tiến hành đổi mới một số bộ phận chủ chốt trong bộ máy chính quyền, điều chỉnh chức năng các ban, ngành chuyển sang phục vụ chính quyền mới. Đặc biệt, ngày 03-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh 41/SL về việc bãi bỏ tất cả cơ quan thuộc Phủ Toàn quyền Đông Dương, sáp nhập vào các bộ của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ở các địa phương, xóa bỏ hoàn toàn bộ máy chính quyền cũ, thay vào đó là Ủy ban nhân dân cách mạng. Tiếp đó, ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”, trong đó xác định nhiệm vụ hàng đầu, bao trùm nhất của cách mạng lúc đó là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược. Đồng thời, đề ra phương hướng lãnh đạo đẩy nhanh việc tiến hành cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, thành lập Chính phủ chính thức, xây dựng hệ thống chính quyền hợp pháp từ Trung ương đến địa phương.

Bằng nhiều giải pháp linh hoạt, mềm dẻo, một mặt, Trung ương Đảng chủ trương đưa Đảng vào hoạt động bí mật, tránh sự tập trung công kích của kẻ thù, mặt khác, lãnh đạo Mặt trận Việt Minh và Chính phủ lâm thời kiên quyết bác bỏ các yêu cầu phi lý của Việt Quốc, Việt Cách; kiên trì, khôn khéo, nhân nhượng trong thương lượng, tạo sự ổn định để tiến hành thành công cuộc Tổng tuyển cử [ngày 06-01-1946], bầu ra những đại biểu, đại diện cho các tầng lớp nhân dân khắp ba miền, tham gia Quốc hội. Sự ra đời của Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước là một thắng lợi lớn của đường lối củng cố chính quyền cách mạng của Đảng, tạo cơ sở pháp lý về quyền lực của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Kết quả đó đã giáng một đòn mạnh vào âm mưu chia rẽ, lật đổ và xâm lược của các thế lực đế quốc, tay sai. Từ đây, một Chính phủ chính thức - cơ quan hành pháp của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Quốc hội quyết nghị thành lập với tên gọi Chính phủ Liên hiệp kháng chiến. Đến tháng 11-1946, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội biểu quyết tán thành Chính phủ mới, gồm 14 thành viên, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.

Trong thời gian ngắn, sau ngày Tổng tuyển cử, hầu hết các địa phương thuộc Bắc Bộ và Trung Bộ đều tổ chức bầu cử Hội đồng nhân dân ở cấp tỉnh và xã. Đến cuối năm 1946, các địa phương đã thành lập Ủy ban hành chính các cấp thay cho ủy ban nhân dân lâm thời. Như vậy, hệ thống bộ máy Nhà nước [cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp] từ Trung ương đến địa phương đã từng bước hoàn thiện, với đầy đủ uy tín, hiệu lực pháp lý trong thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại, quản lý, điều hành mọi hoạt động của đất nước.

Cùng với đó, để bảo đảm tính đồng bộ về sức mạnh của Nhà nước, Đảng chủ trương tiếp tục mở rộng Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Dân tộc thống nhất, nhằm thu hút tổ chức đại diện cho các giai tầng xã hội, tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, phát huy quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Đồng thời, sửa đổi điều lệ các đoàn thể cứu quốc cho phù hợp với tình hình mới; tổ chức thêm một số đoàn thể và vận động đoàn viên, hội viên tham gia các phong trào ủng hộ chế độ mới, chủ động đấu tranh kiên quyết chống các thế lực phản động, đi ngược lại lợi ích của nhân dân, của dân tộc.

Hai là, đẩy mạnh xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh - công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, giữ vững chính quyền, bảo vệ Tổ quốc. Trước sự chống phá quyết liệt của thù trong, giặc ngoài, Đảng đã đề ra đường lối vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang từ lực lượng chính trị của quần chúng, khẩn trương xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân đủ mạnh, thực sự trở thành lực lượng chính trị trung thành của Đảng, công cụ bạo lực sắc bén bảo vệ nền độc lập, tự do của đất nước. Thực hiện chủ trương đó, khắp nơi trên đất nước ta, phong trào luyện tập quân sự, tìm sắm vũ khí diễn ra sôi nổi. Ở Bắc Bộ và Trung Bộ, những chi đội giải phóng quân lần lượt ra đời, đến cuối năm 1945 đã phát triển lên 40 chi đội với 50.000 người. Tháng 9-1945, Bộ Tổng Tham mưu và ngành Quân giới được thành lập. Tháng 11-1945, Quân giải phóng Việt Nam được đổi thành Vệ quốc đoàn [đội quân chính quy của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa], sau đó phát triển thành Quân đội Quốc gia Việt Nam. Tháng 12-1945, Ủy ban Kháng chiến miền Nam ra đời, trực tiếp chỉ đạo quân và dân miền Nam kháng chiến, chống âm mưu tái xâm lược của thực dân Pháp. Đặc biệt, để giúp Trung ương Đảng lãnh đạo công tác quân sự, tháng 01-1946, Trung ương Quân ủy được thành lập, đồng chí Võ Nguyên Giáp được cử làm Bí thư. Đến cuối năm 1946, bộ đội tập trung tăng lên hơn 80.000 người, trong đó có 8.000 đảng viên, lực lượng bán vũ trang phát triển gần 01 triệu người2.

Cùng với xây dựng lực lượng quân đội, lực lượng công an nhân dân được xây dựng và củng cố. Với việc thành lập và duy trì hoạt động hiệu quả của Sở Liêm phóng Bắc Bộ, các đội danh dự trừ gian, Ban trinh sát diệt ác đã kịp thời ngăn chặn, trừng trị các phần tử phản cách mạng, ra mặt chống đối chính quyền nhân dân. Ở Trung Bộ thành lập các sở Trinh sát, ở Nam Bộ là Quốc gia tự vệ cuộc3. Ngày 21-02-1946, Việt Nam Công an vụ được thành lập với nhiệm vụ tìm hiểu, thu thập thông tin liên quan đến an toàn quốc gia, đề xuất thực thi những biện pháp để đề phòng và bảo đảm an ninh trong nước. Ngày 08-4-1946, Bộ Nội vụ ban hành Nghị định 131/BNV, quy định cơ cấu, tổ chức, quyền hạn, nhiệm vụ của Công an vụ. Bên cạnh lực lượng công an, Ban Trinh sát Trung ương được tăng cường củng cố có hệ thống từ Trung ương đến các tỉnh, thành phố; Ban Thanh tra đặc biệt và hệ thống tổ chức của Tòa án cũng lần lượt được thành lập, hoàn thiện. Đây là những tổ chức, công cụ quan trọng bảo đảm cho quá trình hoạt động của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thực thi chế độ dân chủ rộng rãi và sẵn sàng trấn áp các phần tử phản cách mạng. Thành tích lớn nhất của lực lượng công an thời gian này là phá vụ án phố Ôn Như Hầu, đập tan âm mưu đảo chính lật đổ chính quyền nhân dân của lực lượng phản động Việt Quốc, Việt Cách [7-1946].

Ba là, thực hiện tốt chủ trương về công tác đối ngoại. Lê–nin chỉ rõ: nếu có lợi cho cách mạng thì dù phải thỏa hiệp với kẻ thù, chúng ta cũng phải thỏa hiệp. Thấu triệt quan điểm đó. Đảng đã bình tĩnh đánh giá chính xác tình hình, nhận định đúng âm mưu, thủ đoạn của từng đối tượng, từng kẻ thù, đề ra đối sách phù hợp, nhằm “Cố gắng đạt được thỏa hiệp để cứu chính quyền nhân dân khỏi bị tiêu diệt, tranh thủ được thời gian để tập hợp được lực lượng và chuẩn bị cho cuộc chiến đấu quyết liệt chống bọn thực dân”4. Theo đó, đối với Quân đội Trung Hoa dân quốc, dưới danh nghĩa quân Đồng minh vào miền Bắc Việt Nam để giải giáp quân đội Nhật, nhưng lại không giấu giếm ý định “Diệt Cộng, cầm Hồ”, Đảng đã chủ trương giao thiệp “Hoa - Việt thân thiện”, tránh xung đột, hòa hoãn với chính quyền Trung Hoa dân quốc, nhân nhượng nhiều yêu sách về chính trị và kinh tế đối với đội quân Trung Hoa dân quốc và thế lực tay sai của chúng. Tuy nhiên, khi bản “Hiệp ước Pháp - Hoa” được ký kết, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời nắm thời cơ, chuyển hóa linh hoạt sang thực hiện đường lối “hòa với Pháp” để mau chóng “đuổi” gần 20 vạn quân Trung Hoa dân quốc về nước, tránh được hiểm họa cùng lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù.

Đối với thực dân Pháp, Đảng ta xác định, đây là kẻ thù chủ yếu của dân tộc, nên ngay từ khi chúng theo chân quân Anh vào miền Nam, lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam đã tích cực chiến đấu, kiên quyết ngăn chặn các đợt tiến công mở rộng vùng lấn chiếm của địch. Tuy nhiên, để tránh một cuộc chiến tranh nổ ra sớm trong bối cảnh chính quyền cách mạng vẫn còn đang trong giai đoạn “trứng nước”, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương ký Hiệp định sơ bộ [06-3-1946] và bản Tạm ước [14-9-1946] với Pháp. Các văn bản đó đã buộc thực dân Pháp, dù muốn nhanh chóng thực hiện ý định mở rộng xung đột ra miền Bắc, nhưng phải mất hơn 09 tháng sau [đến cuối tháng 12-1946], chúng mới tìm cách làm bùng nổ cuộc chiến tranh trên phạm vi cả nước. Đây cũng là khoảng thời gian Đảng ta đã thành công trong chỉ đạo vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, phá kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh”, đẩy địch sa lầy ở chiến trường miền Nam, tạo điều kiện thời gian xây dựng lực lượng căn bản chuẩn bị cho kháng chiến. Không dừng lại ở đó, từ tháng 9-1945 đến tháng 02-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thư, điện, công hàm cho Tổng thống và Ngoại trưởng Mỹ, những quốc gia và cá nhân giữ trọng trách của Liên hợp quốc, kêu gọi sự ủng hộ nền độc lập của nước Việt Nam.

Như vậy, những năm đầu thành lập nước, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khôn khéo, sáng suốt đưa ra nhiều phương lược, sách lược để xây dựng chính quyền, củng cố lực lượng, hòa hoãn với kẻ thù,... kêu gọi cộng đồng quốc tế ủng hộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Vì thế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam không những giữ vững được chính quyền cách mạng non trẻ, mà còn tạo được sức mạnh căn bản, ban đầu để chủ động bước vào kháng chiến toàn quốc.

TS. NGUYỄN BÌNH*

ThS. PHẠM THỊ THU TRANG**
______________

* Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

** Khoa Xây dựng Đảng, Trường Chính trị tỉnh Tuyên Quang.

1 - Vào thời điểm này, có hơn 30 vạn quân các nước Anh, Pháp, Trung Hoa Dân quốc, Nhật và nhiều đảng phái, tổ chức phản động, như: Việt Nam Quốc Dân Đảng [Việt Quốc], Việt Nam cách mạng đồng minh hội [Việt Cách], Đảng Đông Dương tự trị, Đại Việt quốc dân Đảng, v,v.

2 - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng - Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Tập I [1930- 1954], quyển 2 [1945- 1954], Nxb. CTQG, H. 2018, tr. 116.

3 - Sau thống nhất thành Việt Nam Công an vụ trong toàn quốc.

4 - F.Cô-bê-lép - Đồng chí Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị - Hành chính, H. 2010, tr. 404.

Video liên quan

Chủ Đề