Tiêu chuẩn đánh giá đề tài nghiên cứu khoa học

Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học ngành khoa học xã hội tại trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [1.02 MB, 114 trang ]


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




TRẦN THỊ HỒNG


XÂY DỰNG HỆ THỐNG TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
KHOA HỌC NGÀNH KHOA HỌC XÃ HỘI TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC
KHOA HỌC, ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN



LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ







Hà Nội, 2013



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






TRẦN THỊ HỒNG


XÂY DỰNG HỆ THỐNG TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NGHIÊN
CỨU KHOA HỌC NGÀNH KHOA HỌC XÃ HỘI TẠI TRƢỜNG ĐẠI
HỌC KHOA HỌC, ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN



LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
MÃ SỐ: 60.34.72


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Hoàng Văn Luân





Hà Nội, 2013

1
MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN 3

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 4
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU 5
PHẦN MỞ ĐẦU 6
1. Lý do nghiên cứu 6
2. Lịch sử nghiên cứu 8
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 12
3.1. Mục tiêu nghiên cứu 12
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 12
4. Phạm vi nghiên cứu 12
5. Mẫu khảo sát 13
6. Câu hỏi nghiên cứu 13
7. Giả thuyết nghiên cứu 13
8. Phƣơng pháp nghiên cứu 13
8.1. Phương pháp phân tích tổng hợp 14
8.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi 14
8.3. Phương pháp phỏng vấn sâu 14
8.4. Phương pháp quan sát 15
8.5. Phương pháp trưng cầu ý kiến chuyên gia 15
9. Kết cấu của luận văn 15
PHẦN NỘI DUNG 16
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 16
1.1. Khoa học và nghiên cứu khoa học 16
1.1.1. Khoa học 16
1.1.2. Nghiên cứu khoa học [NCKH] 18
1.2. Đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học và tiêu chí đánh giá kết quả nghiên cứu
khoa học 24
1.2.1. Đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học 24
1.2.2.Tiêu chí đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học 31
1.3. Đặc điểm của nghiên cứu khoa học xã hội và yêu cầu về tiêu chí đánh giá . 32


2
1.3.1. Đặc điểm của nghiên cứu khoa học xã hội 32
1.3.2. Yêu cầu về tiêu chí đánh giá 35
CHƯƠNG 2.THỰC TRẠNG ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
XÃ HỘI TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC, ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN 38
2.1. Khái quát về trƣờng ĐHKH, ĐHTN 38
2.2. Hiện trạng công tác tổ chức và quản lý nghiên cứu khoa học tại trường ĐHKH,
ĐHTN 40
2.2.1. Tình hình các nguồn lực đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học xã hội của
trường ĐHKH 40
2.2.2. Tình hình triển khai các đề tài nghiên cứu khoa học thuộc nhóm ngành khoa học xã hội tại
trường ĐHKH 46
2.3. Hiện trạng công tác đánh giá KQNC khoa học xã hội tại trƣờng ĐHKH 52
2.3.1. Đội ngũ đánh giá và quy trình đánh giá 52
2.3.2. Tiêu chí đánh giá 56
CHƢƠNG 3.XÂY DỰNG HỆ THỐNG TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ
NGHIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI TẠI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC, ĐẠI
HỌC THÁI NGUYÊN 66
3.1. Căn cứ xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá KQNC khoa học xã hội ở
trƣờng ĐHKH 66
3.1.1. Tính mới của KQNC 66
3.1.2. Giá trị của kết quả nghiên cứu 69
3.1.3. Tính logic, hệ thống và sự phù hợp của phương pháp nghiên cứu 73
3.2. Hệ thống tiêu chí và ý kiến đánh giá của chuyên gia về hệ thống tiêu chí 76
3.2.1. Hệ thống tiêu chí 76
3.2.2. Ý kiến đánh giá của chuyên gia về hệ thống tiêu chí 79
3.3. Kết quả áp dụng hệ thống tiêu chí mới vào đánh giá thử nghiệm KQNC 81
KẾT LUẬN 84
KHUYẾN NGHỊ 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89

PHỤ LỤC 91


4
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ĐHKH Đại học Khoa học
ĐHTN Đại học Thái Nguyên
KQNC Kết quả nghiên cứu
KHXH Khoa học xã hội
NCKH Nghiên cứu khoa học
























5
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

STT
Tên bảng biểu
Số trang
Bảng 2.1
Nhân lực thuộc lĩnh vực KHXH tại trường ĐHKH
41
Bảng 2.2
Tình hình phân bổ nguồn lực tài chính cho hoạt động khoa
học và công nghệ ở trường ĐHKH giai đoạn 2007 2011
44
Biểu đồ 2.1
Tỷ lệ kinh phí phân bổ cho hoạt động nghiên cứu khoa học
ở lĩnh vực KHXH tại trường ĐHKH
45
Bảng 2.3
Kết quả thực hiện đề tài NCKH các cấp tại trường ĐHKH
giai đoạn 2007 2011
47
Bảng 2.4
Số lượng các đề tài được thực hiện thuộc lĩnh vực KHXH
qua các năm 2007 2011
48
Bảng 2.5

Nội dung nghiên cứu chính của các đề tài cấp cơ sở thuộc
lĩnh vực KHXH tại trường ĐHKH
50
Bảng 2.6
Nội dung nghiên cứu chính của các đề tài cấp Bộ và cấp
Đại học tại trường ĐHKH
50 - 51
Bảng 2.7
Số lần các thầy cô đã từng tham gia đánh giá KQNC thuộc
lĩnh vực KHXH tại trường ĐHKH
52
Bảng 2.8
Cấp đề tài mà các thầy cô đã từng tham gia đánh giá thuộc
lĩnh vực KHXH tại trường ĐHKH
53
Bảng 2.9
Trình độ chuyên môn và cấp đề tài mà thầy cô đã từn tham
gia đánh giá
54
Bảng 2.10
Chất lượng của các đề tài NCKH các cấp thuộc lĩnh vực
KHXH đã được nghiệm thu tại trường ĐHKH
60
Bảng 2.11
Bảng xếp loại đề tài NCKH các cấp thuộc lĩnh vực KHXH
tại trường ĐHKH
60
Bảng 2.12
Các thành viên trong hội đồng đánh giá có điểm chênh
lệch >= 2/10 điểm trở lên

61


6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu
Khoa học xã hội ngày càng được khẳng định vị trí, vai trò quan trọng trong
đời sống chính trị, xã hội. Các kết quả nghiên cứu của khoa học xã hội đã và đang
góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền tảng tư tưởng, xác lập cơ sở khoa học
cho việc hoạch định đường lối, chiến lược và chính sách của Đảng và Nhà nước,
cũng như trong việc khơi nguồn, xây dựng và phát triển con người và bản sắc văn
hóa dân tộc.
Hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội là loại hình hoạt động trí não hết sức đặc
thù. Kết quả, sản phẩm của nó mang tính giá trị định tính rất cao, khó có thể đánh giá
đo lường chính xác về mặt định lượng. Việc đo lường, đánh giá số lượng thời gian
lao động, cường độ và hiệu suất lao động đối với hoạt động nghiên cứu khoa học nói
chung đã khó, đối với khoa học xã hội càng gặp nhiều khó khăn, trở ngại.
Hiện nay, việc đánh giá chất lượng các kết quả nghiên cứu [KQNC] khoa học
xã hội thể hiện ở thang điểm trên cơ sở các tiêu chí: ý nghĩa về mặt lý luận và thực
tiễn của đề tài, những đóng góp mới về lý luận và thực tiễn, những đề xuất kiến
nghị có tính khả thi cho công tác hoạch định chính sách kinh tế, xã hội và văn hoá.
Tuy nhiên, đây vẫn chỉ là những đánh giá mang tính ước lệ, tuỳ thuộc vào
nhãn quan của người đánh giá và thời điểm lịch sử của những điều kiện chính
trị-xã hội quy định. Trên thực tế, có những đề xuất, kiến nghị không được đánh
giá tốt của ngày hôm nay nhưng lại rất có giá trị cho những thời kỳ phát triển
tiếp theo. Chẳng hạn, tư tưởng chủ động hội nhập quốc tế được manh nha từ sau
Đổi mới, nhưng phải đến Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam, đề xuất
này của giới khoa học xã hội mới được đưa vào cuộc sống, như một tư tưởng chỉ
đạo về mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế ở Việt Nam. Hoặc rất nhiều phát
hiện, đánh giá về lịch sử - khảo cổ đúng nhưng phải đến hàng chục năm sau mới

được thừa nhận. Vì vậy, nếu quá nặng về tính khả thi, tính ứng dụng thực tiễn là
chưa đủ trong đánh giá các công trình khoa học xã hội.

7
Do chưa có hệ thống tiêu chí đánh giá công trình khoa học xã hội khách quan
và toàn diện, công tác nghiệm thu đánh giá KQNC của các đề tài, dự án về khoa
học xã hội vẫn còn thiếu khách quan, chưa chính xác và không thật sự nghiêm túc.
Điều này làm cho hoa học xã hội phần nào mất đi động lực phát triển của nó.
Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên [ĐHKH, ĐHTN] tiền
thân là Khoa Khoa học Tự nhiên, được thành lập năm 2002 theo Quyết định số
1286/QĐ-BGD&ĐT-TCCB ngày 28/03/2002 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo [Bộ GD&ĐT]. Đến tháng 11/2006, để phù hợp với sự mở rộng của quy mô
và ngành đào tạo, Giám đốc ĐHTN đã ký Quyết định số 803/QĐ-TCCB đổi tên
Khoa Khoa học Tự nhiên thành Khoa Khoa học Tự nhiên và Xã hội. Tháng
12/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1901/QĐ TTg ngày 23/
12/ 2008 về việc thành lập trường Đại học Khoa học trên cơ sở phát triển khoa
Khoa học Tự nhiên và Xã hội thuộc ĐHTN. Với chức năng và nhiệm vụ đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có trình độ đại học, sau đại học. Trường ĐHKH đã
triển khai và thực hiện được nhiều đề tài nghiên cứu khoa học thuộc các cấp như
cấp cơ sở, cấp Đại học Thái Nguyên, cấp Bộ và cấp Nhà nước; ứng dụng những
tiến bộ kỹ thuật và chuyển giao công nghệ thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên và
khoa học xã hội phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực và đất
nước. Nhìn các hướng nghiên cứu của trường ĐHKH cả lĩnh vực khoa học tự
nhiên và xã hội đều cho thấy được tính đa dạng và phong phú về nội dung
nghiên cứu, đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của nhà trường và xã hội.
Tuy nhiên qua quan sát thực tế, chúng tôi nhận thấy việc đánh giá kết quả
các công trình nghiên cứu khoa học xã hội hiện nay của trường ĐHKH vẫn còn
những hạn chế. Điều này thể hiện ở khoảng cách hay sự khác nhau giữa kết quả
của hoạt động đánh giá với giá trị thực sự của kết quả nghiên cứu. Biểu hiện cụ
thể là các kết quả nghiên cứu được xếp loại Xuất sắc, Tốt là rất nhiều trong

khi đó chất lượng nghiên cứu, hiệu quả của đề tài trên thực tế là chưa cao. Ngoài
nguyên nhân chung đã nêu ở trên, hiện tượng này còn có nguyên nhân khác do
đặc thù của trường ĐHKH như chất lượng chuyên môn của hội đồng đánh giá

8
chưa đồng đều, trong một số trường hợp còn thiếu tính khách quan; những quy
trình về thủ tục đánh giá, nghiệm thu còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu,
chưa phù hợp với thực tế.
Xuất phát từ những lí do trên, đồng thời với mong muốn làm rõ thực trạng việc
đánh giá kết quả các công trình nghiên cứu khoa học xã hội của trường ĐHKH, chỉ
ra nguyên nhân của những hạn chế trong việc đánh giá kết quả các công trình nghiên
cứu khoa học xã hội, từ đó đề xuất một hệ thống các tiêu chí đánh giá kết quả nghiên
cứu khoa học xã hội rõ ràng, cụ thể và định lượng được cho nhà trường, chúng tôi đã
lựa chọn vấn đề Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá kết quả nghiên cứu ngành
khoa học xã hội tại trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên để nghiên
cứu. Hệ thống các tiêu chí được đề xuất trong luận văn sẽ góp phần nhận dạng chất
lượng các kết quả nghiên cứu, làm cơ sở để nghiệm thu các sản phẩm và kết quả
nghiên cứu khoa học xã hội của trường ĐHKH.
2. Lịch sử nghiên cứu
Nghiên cứu về công tác đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học đã có nhiều
tác giả trong và ngoài nước bàn tới:
Trên thế giới, chúng ta có thể kể ra quan điểm của một số tác giả tiêu biểu như:
P. Fasella, trong cuốn Đánh giá các chương trình nghiên cứu và triển
khai của Cộng đồng Châu Âu đã đề ra một số nguyên tắc chung của việc đánh
giá R&D là: Quá trình đánh giá cần tiến hành trong mối liên hệ đến việc hình
thành và triển khai các giai đoạn của nghiên cứu; có thể kết hợp đánh giá trong và
đánh giá ngoài. Đánh giá trong thường được thực hiện bởi các nhà quản lý dự án,
tham gia trong quá trình thực hiện đề tài. Còn đánh giá ngoài là đánh giá của các
chuyên gia bên ngoài không tham gia vào chương trình nghiên cứu.
Tuy nhiên theo P. Fasella, việc đánh giá nên được tiến hành với các chuyên

gia ngoài, những người không tham gia vào thực hiện chương trình đó. Tác giả
nhấn mạnh cần có cơ chế phản hồi thường xuyên sẽ đảm bảo cho phương pháp
đánh giá được thích nghi với hoàn cảnh. Đồng thời, tác giả còn đưa ra đề xuất
hội đồng đánh giá cần dừng lại ở mức tương đối nhỏ [từ 6- 8 người]. Thời gian

9
thực hiện đánh giá là bắt đầu đánh giá khoảng giữa của chương trình để có thể
đánh giá được những việc làm trước đó và thời gian dành cho việc đánh giá tối
đa là 6 tháng cho đánh giá bằng phương pháp chuyên gia và 3 tháng cho đánh
giá bằng phương pháp hội đồng.
A.M.T Rouban, trong cuốn Đánh giá các chương trình R&D của Pháp
cho rằng mặc dù có thể đưa ra hệ thống chỉ báo rõ ràng, tuy nhiên khi tiến hành
đánh giá và sử dụng công trình khoa học thì sẽ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố
như các nhà khoa học, các nhà quản lý, các cơ quan giám sát. Do vậy, việc đưa
ra một hệ thống chỉ báo có thể áp dụng cho mọi đánh giá vẫn là vấn đề đang
được bàn cãi.
Trong cuốn Đánh giá R&D: kinh nghiệm và suy nghĩ Delcroix có cho
rằng quá trình đánh giá là một hoạt động liên tục và thâm nhập vào các hoạt
động của chương trình. Tác giả này đưa ra một số cơ sở của đánh giá như đánh
giá nguồn gốc của nghiên cứu khoa học và công nghệ trong từng giai đoạn; đánh
giá ảnh hưởng về mặt kinh tế xã hội của đề tài nghiên cứu; sự tham gia của các
đội ngũ nghiên cứu trong các hoạt động có tính quốc tế.
Có thể thấy, các quan niệm của các tác giả kể trên mới chỉ dừng lại ở việc
đề ra một số nguyên tắc, phương pháp, cách thức chung cho việc đánh giá kết
quả nghiên cứu và triển khai.
Ở Việt Nam bàn về công tác đánh giá nghiên cứu khoa học trước hết phải
kể đến: Quyết định số 19/2007/QĐ-BKHCN ngày 18 tháng 9 năm 2007 của Bộ
Khoa học và Công nghệ quy định về việc đánh giá nghiệm thu đề tài nghiên cứu
khoa học cơ bản trong khoa học tự nhiên, trong đó có đưa ra tiêu chí đánh giá
thông qua: Kết quả nghiên cứu; kết quả tham gia đào tạo sau đại học; tiến độ

thực hiện đề tài và tình hình sử dụng kinh phí. Tuy nhiên, những tiêu chí còn
gây nhiều tranh cãi trong giới khoa học trong nước.
Bên cạnh đó, cũng có nhiều nhà khoa học có công trình nghiên cứu và cho
công bố về đánh giá nghiên cứu khoa học như tác giả Vũ Cao Đàm, Nguyễn
Văn An, Hồ Tú Bảo,Đặc biệt là cuốn sách Đánh giá nghiên cứu khoa học

10
[NXB Khoa học và Kỹ thuật năm 2007], Vũ Cao Đàm đã đưa ra một hệ thống
phương pháp luận về việc đánh giá nghiên cứu khoa học.
Vấn đề này cũng đã được một số học viên chuyên ngành Quản lý Khoa học
và Công nghệ quan tâm lựa chọn để nghiên cứu, Chẳng hạn: đề tài Xây dựng
tiêu chí đánh giá nghiên cứu khoa học để thực hiện chức năng nghiên cứu
khoa học tại trường Cao đẳng nghề Hải Dương của học viên Nguyễn Văn
Quang, bảo vệ năm 2008 đã đề cập đến thực trạng đánh giá nghiên cứu khoa học
tại trường Cao đẳng nghề Hải Dương. Trên cơ sở làm rõ thực trạng công tác tổ
chức, quản lý nghiên cứu khoa học, luận văn đề xuất các tiêu chí đánh giá kết
quả nghiên cứu khoa học tại Trường Cao đẳng nghề Hải Dương. Với đề tài Xây
dựng hệ thống tiêu chí đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học của cán bộ
trường Đại học Sư phạm Hà Nội được bảo vệ năm 2010, học viên Lê Ngọc
Sơn đã đưa ra được bộ tiêu chí đánh giá chất lượng nghiên cứu khoa học dựa
theo 3 bước, cụ thể:
Bước 1: [40điểm], ở bước này tập trung vào xem xét tính mới dựa trên sự kiện
khoa học, vấn đề khoa học và luận điểm khoa học theo các chỉ tiêu chuẩn mực.
Bước 2: [25điểm], ở bước này xem xét tính logic của 5 bộ phận đó là: sự
kiện khoa học; vấn đề khoa học; luận điểm khoa học; luận cứ khoa học và
phương pháp nghiên cứu.
Bước 3: [35điểm] Xem xét tổng thể các tiêu chí còn lại như tiêu chí và mức
độ rõ ràng, tính logic và khoa học của việc luận giải về sự cần thiết nghiên cứu đề
tài; mức độ rõ ràng và khả thi của mục tiêu nghiên cứu; phương pháp nghiên cứu;
tính khoa học, độc đáo, phù hợp của cách tiếp cận; kết cấu, hình thức theo cấu

trúc logic của kết quả nghiên cứu.
Ngoài ra, còn có những bài viết về đánh giá hoặc thẩm định nghiên cứu
khoa học được đăng trên tạp chí Hoạt động khoa học của Bộ Khoa học và Công
nghệ và một số trang web. Trong đó nổi bật bài Một số vấn đề trong đánh giá
và nghiệm thu kết quả nghiên cứu khoa học đăng trên tạp chí Hoạt động khoa
học số 4/2005 của Nguyễn Văn An. Bài viết đã làm rõ vai trò và thực trạng của

11
hoạt động đánh giá và nghiệm thu nghiên cứu khoa học Việt Nam hiện nay và
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đổi đổi mới cơ chế quản lý
trong đánh giá, nghiệm thu kết quả nghiên cứu khoa học.
Trong bài viết Đánh giá định lượng kết quả nghiên cứu khoa học của GS.
Hồ Tú Bảo đăng trên tạp chí Hoạt động khoa học, số 7/2010 đã giới thiệu khái
niệm và một số đặc điểm cơ bản của các độ đo tiêu biểu dùng để đánh giá định
lượng các ấn phẩm nghiên cứu khoa học, gồm chỉ số trích dẫn, hệ số ảnh hưởng và
chỉ số H.
Vũ Cao Đàm trong bài Đánh giá nghiên cứu khoa học như thế nào
đăng trên trang web khoahoc.baodatviet.vn đã nêu rõ đánh giá nghiên cứu
khoa học nên được sử dụng trong một số trường hợp cụ thể, phân loại đánh giá
nghiên cứu khoa học và đề nghị xây dựng một hệ thống đánh giá khoa học với
một số cách tiếp cận và tiêu chí phù hợp để đánh giá khách quan các công trình
khoa học.
Với Đánh giá khoa học qua định lượng ấn phẩm: Những xu hướng mới
trên thế giới trong đánh giá khoa học xã hội, nghệ thuật và nhân văn đăng
tải trên trang web khoavanhoc-ngonngu.edu.vn. Phạm Thị Ly đã cho thấy thực
trạng phân cực trong kết quả nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn trên thế
giới thông qua dữ liệu của hệ thống đánh giá khoa học qua định lượng ấn phẩm,
nêu ra những hạn chế của các hệ thống này trong việc đánh giá các kết quả
nghiên cứu trong khoa học xã hội và nhân văn. Bài viết cũng nêu những xu hướng
mới trên thế giới trong việc cải tiến phương pháp đo lường ấn bản khoa học, chủ

yếu là bổ sung những công cụ và tiêu chí đánh giá mang tính chất định tính cho
khoa học xã hội và nhân văn, tác giả cũng nêu ra một số đề xuất liên quan đến đo
lường ấn phẩm khoa học để cải thiện chất lượng nghiên cứu khoa học xã hội và
nhân văn ở Việt Nam.
Có thể thấy các công trình nghiên cứu kể trên đã được tiếp cận ở những
khía cạnh khác nhau của vấn đề đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học như
phương pháp luận cho việc đánh giá: tìm hiểu thực trạng của việc đánh giá và

12
nghiệm thu kết quả nghiên cứu, hệ thống tiêu chí để phục vụ cho việc đánh giá
đúng chất lượng các công trình nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, tất cả các công
trình nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở những cách tiếp đánh giá kết quả
nghiên cứu khoa học nói chung, chứ chưa đề cập đến khía cạnh xây dựng tiêu
chí đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học xã hội. Mặt khác, những nghiên cứu
trên được tiến hành và triển khai ở phạm vi về nội dung, thời gian và không gian
khác nhau. Do đó, đề tài Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá kết quả nghiên
cứu khoa học ngành khoa học xã hội tại trường Đại học Khoa học, Đại học
Thái Nguyên không phải là hướng tiếp cận hoàn toàn mới nhưng nó được tiến
hành ở không gian nghiên cứu mới là trường ĐHKH và những tiêu chí đánh giá
cụ thể áp dụng cho đánh giá các kết quả nghiên cứu khoa học xã hội của một
trường đại học cụ thể.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá chất lượng các kết quả nghiên cứu khoa
học xã hội ở trường ĐHKH, ĐHTN.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, đề tài thực hiện một số nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận của đề tài [thao tác hóa một số khái niệm liên quan
đến đề tài như khái niệm khoa học, nghiên cứu khoa học, tiêu chí, đánh giá, kết
quả nghiên cứu khoa học,.Làm rõ đặc điểm hoạt động nghiên cứu khoa học xã

hội, yêu cầu về tiêu chí đánh kết quả nghiên cứu khoa học xã hội].
- Làm rõ thực trạng việc đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học xã hội tại
trường ĐHKH, ĐHTN.
- Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học xã hội ở
trường ĐHKH, ĐHTN.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian nghiên cứu: Trường ĐHKH, ĐHTN.
- Phạm vi về thời gian khảo sát số liệu: 5 năm trở lại đây [từ năm 2007 đến 2011].

13
5. Mẫu khảo sát
- Các công trình nghiên cứu khoa học xã hội;
- Các luận văn thạc sĩ;
- Cán bộ, giảng viên trực tiếp thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học các cấp thuộc
lĩnh vực khoa học xã hội;
- Các chuyên gia;
- Cán bộ quản lý, chuyên viên phụ trách hoạt động nghiên cứu khoa học
của trường ĐHKH.
6. Câu hỏi nghiên cứu
Việc đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học xã hội tại trường ĐHKH, ĐHTN
hiện nay như thế nào?
Một hệ thống tiêu chí như thế nào để nhận dạng được đúng chất lượng các
công trình nghiên cứu xã hội ở trường ĐHKH, ĐHTN?
7. Giả thuyết nghiên cứu
Việc đánh giá chất lượng kết quả các công trình nghiên cứu khoa học xã hội
của trường ĐHKH, ĐHTN hiện nay còn nhiều hạn chế: chưa phản ánh đúng
chất lượng các công trình nghiên cứu.
Hệ thống tiêu chí đánh giá chất lượng kết quả nghiên cứu khoa học xã hội cần
bao hàm những nội dung để nhận dạng chất lượng của kết quả nghiên cứu như tính
mới, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài, tính hệ thống, toàn diện trong nghiên

cứu, tính phù hợp của phương pháp nghiên cứu.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận, luận
thuyết của Vũ Cao Đàm trong cuốn Đánh giá nghiên cứu khoa học NXB
KH&KT, năm 2007, cuốn Phương pháp luận nghiên cứu khoa học NXB Giáo
dục, năm 2007 cũng như các tiêu chí, quan điểm đánh giá nghiên cứu khoa học
của trường ĐHKH, ĐHTN, hay trong các trường đại học, cao đẳng khác và các tổ
chức khoa học trong và quốc tế. Các chủ trương chính sách của Việt Nam về đánh
giá nghiên cứu khoa học.

14
Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
8.1. Phương pháp phân tích tổng hợp
Từ những luận cứ lý thuyết có được nhờ nghiên cứu tài liệu và những luận
cứ thực tiễn như số liệu thống kê về thực trạng việc đánh giá kết quả nghiên cứu
của Trường, ý kiến thu thập được sau khi sử dụng phương pháp trưng cầu ý
kiến, chúng tôi tiến hành phân tích và tổng hợp các số liệu, tài liệu để có cái
nhìn tổng quan về việc đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học xã hội tại trường
ĐHKH, ĐHTN, từ đó đề xuất hệ thống tiêu chí phù hợp với đặc điểm riêng của
trường ĐHKH.
8.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Chúng tôi tiến hành phát 45 phiếu bảng hỏi cho các cán bộ, giảng viên trực
tiếp thực hiện đề tài, tham gia hội đồng nghiệm thu đề tài nghiên cứu khoa học
xã hội các cấp của trường ĐHKH để lấy ý kiến nhận xét về công tác đánh giá
chất lượng kết quả nghiên cứu khoa học mà trường ĐHKH đang thực hiện; quan
điểm của họ về một hệ thống tiêu chí đánh giá chất lượng các kết quả nghiên
cứu khoa học xã hội.
Thông tin thu thập được từ việc phát phiếu điều tra có cả thông tin định tính
và thông tin định lượng. Đối với thông tin định tính chúng tôi tiến hành xử lý
logic, nghĩa là đưa ra những phán đoán về bản chất của các sự kiện, đồng thời

thể hiện những liên hệ logic của các sự kiện đang được xem xét. Còn đối với
thông tin định lượng chúng tôi xử lý theo phương pháp toán học bằng bảng số
liệu, biểu đồ.
8.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Với mục đích nhằm thu thập được những thông tin sâu hơn liên quan đến vấn
đề nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn một số cán bộ quản lý của trường,
chuyên gia và giảng viên với tư cách là chủ nhiệm các đề tại, cụ thể như sau:
- Phỏng vấn 02 cán bộ [01 phó trưởng phòng Đào tạo NCKH &QHQT và
01 chuyên viên phụ trách mảng nghiên cứu khoa học].

15
- Phỏng vấn sâu 05 giảng viên là chủ nhiệm các đề tài nghiên cứu khoa học
thuộc các cấp như cấp cơ sở; cấp Bộ, cấp Đại học.
- Phỏng vấn 05 cán bộ giảng viên tham gia chấm đề tài nghiên cứu khoa
học xã hội các cấp].
8.4. Phương pháp quan sát
Chúng tôi còn sử dụng phương pháp quan sát để quan sát quy trình nghiệm
thu một đề tài nghiên cứu khoa học; quan sát cách thức quản lý vấn đề khoa học
của trường; quan sát quy trình làm việc của hội đồng nghiệm thu để có được cái
nhìn tổng quát về vấn đề nghiên cứu.
8.5. Phương pháp trưng cầu ý kiến chuyên gia
Sau khi đề xuất hệ thống tiêu chí đánh giá KQNC khoa học xã hội tại trường
ĐHKH, chúng tôi tiến hành trưng cầu ý kiến của chuyên gia về những tiêu chí được
xây dựng cũng như tính khả thi của hệ thống tiêu chí mới này. Từ đó, làm căn cứ
cho việc đưa ra những khuyến nghị đối với trường ĐHKH để áp dụng hệ thống tiêu
chí này vào thực tiễn công tác đánh giá KQNC khoa học xã hội của trường ĐHKH
góp phần khắc phục những hạn chế đang tồn tại trong công tác đánh giá KQNC
khoa học xã hội hiện nay.
9. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận

văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương1. Cơ sở lý luận
Chương 2. Thực trạng đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học xã hội tại
trường ĐHKH, ĐHTN
Chương3. Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá kết quả nghiên cứu khoa
học ngành khoa học xã hội trường ĐHKH, ĐHTN





16
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khoa học và nghiên cứu khoa học
1.1.1. Khoa học
Khái niệm Khoa học được giải thích trong một số từ điển như sau:
Theo từ điển Larousse của Cộng hòa Pháp [2002] khoa học là một tập hợp
tri thức đã được kiểm chứng bằng thực nghiệm về các sự kiện, sự vật và hiện
tượng tuân theo một quy luật xác định.
Từ điển Triết học của Liên Xô [bản tiếng Việt, 1975], khoa học là lĩnh vực hoạt
động nhằm mục đích sản xuất ra những tri thức mới về tự nhiên, xã hội và tư duy bao
gồm tất cả những điều kiện và những yếu tố của sự sản xuất này. Khoa học trong
trường hợp này được xem như một hoạt động sản xuất tri thức của con người.
Từ điển Bách khoa toàn thư của Liên Xô[Bản tiếng Việt, 1986], khoa học
là lĩnh vực hoạt động của con người, có chức năng xử lý và hệ thống hóa về
mặt lý thuyết các tri thức khách quan, Là một trong những hình thái ý thức xã
hội, bao gồm trong đó cả những hoạt động nhằm thu nhận các kiến thức mới, và
cả những kết quả của các hoạt động đó. Khoa học trong trường hợp này được

xem như là phương tiện cung cấp những tri thức khách quan cho con người.
Từ điển Xã hội học của Nguyễn Khắc Viện [Nhà xuất bản thế giới, 1994],
khoa học là một thiết chế xã hội. [17] Khoa học trong trường hợp này được
xem như một hệ thống các giá trị, các quy tắc tạo nên khuôn mẫu xã hội biểu
hiện sự thống nhất được xã hội thừa nhận. Nó đã thâm nhập vào mọi lĩnh vực
hoạt động xã hội và thực hiện những chức năng của một thiết chế xã hội như
định ra một khuôn mẫu hành vi lấy tính khoa học làm thước đo; Xây dựng luận
cứ cho các quyết định sản xuất, kinh doanh, tổ chức xã hội; Khoa học ngày càng
trở thành một phương tiện góp phần rất quan trọng làm biến đổi tận gốc rễ mọi
mặt của đời sống xã hội.

17
Theo từ điển Từ và Ngữ Việt Nam [Nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ
Chí Minh, 2005], khoa học là hệ thống các tri thức của người ta về tự nhiên, về
xã hội, về tư duy, tích lũy trong quá trình lịch sử, khiến người ta khám phá được
những quy luật khách quan của các hiện tượng và giải thích được các hiện
tượng đó. [16].
Tóm lại qua các từ điển được tra cứu, chúng tôi nhận thấy về cơ bản có 4
định nghĩa về khoa học dựa trên 4 cách tiếp cận sau:
Khoa học là một hệ thống tri thức
Khoa học là một hoạt động sản xuất tri thức
Khoa học là một hình thái ý thức xã hội
Khoa học là một thiết chế xã hội.
Trong khuôn khổ của luận văn này, khoa học được hiểu là: hệ thống tri thức
về mọi loại quy luật của vật chất và sự vận động của vật chất, những quy luật của
tự nhiên, xã hội, tư duy. Đây cũng là khái niệm được sử dụng rộng rãi và được
UNESSCO sử dụng trong các văn bản chính thức của mình. Khoa học trong trường
hợp này như một hệ thống tĩnh tại các tri thức, xem khoa học như một sản phẩm trí
tuệ được tích lũy từ trong hoạt động tìm tòi, sáng tạo của nhân loại.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ luận văn này chúng ta cũng cần phân biệt hệ

thống tri thức khoa học theo cách hiểu này với hệ thống tri thức kinh nghiệm.
Hệ thống tri thức kinh nghiệm là những hiểu biết được tích lũy qua hoạt động
sống hàng ngày trong mối quan hệ giữa con người với con người và giữa con
người với thiên nhiên. Quá trình này giúp con người hiểu biết về sự vật, về cách
quản lý thiên nhiên và hình thành mối quan hệ giữa những con người trong xã
hội. Tri thức kinh nghiệm được con người không ngừng sử dụng và phát triển
trong hoạt động thực tế. Tuy nhiên tri thức kinh nghiệm chưa thực sự đi sâu vào
bản chất, chưa thấy được hết các thuộc tính của sự vật và mối quan hệ bên trong
giữa sự vật và con người. Còn tri thức khoa học ở đây là những hiểu biết được
tích lũy một cách có hệ thống nhờ hoạt động nghiên cứu khoa học, các hoạt
động này có mục tiêu nhất định và sử dụng phương pháp khoa học. Không giống

18
như tri thức kinh nghiệm, tri thức khoa học dựa trên kết quả quan sát, thu thập
được qua những thí nghiệm và qua các sự kiện xảy ra trong khuôn khổ các
ngành và bộ môn khoa học như triết học, sử học,Có thấy rõ sự khác biệt qua
ví dụ: Khi thấy trời oi bức, mọi người đều biết là trời sắp mưa -> Đó là hiểu biết
kinh nghiệm, do quan sát nhiều lần từ thực tế mà rút ra kết luận như vậy, chứ
không giải thích được vì sao? Nhưng trong khoa học, không dừng lại ở đây mà
người ta đi lý giải các hiện tượng có liên quan bằng các luận cứ khoa học, chẳng
hạn: Trời oi bức có nghĩa là độ ẩm không khí đã tăng đến một giới hạn nào đó.
Điều này cho phép rút ra kết luận khoa học: sự tăng độ ẩm không khí đến một
giới hạn nào đó là dấu hiệu cho biết trời sắp mưa đó là những hiểu biết khoa học.
Tóm lại, tri thức khoa học có được là nhờ vào hoạt động nghiên cứu, tìm tòi,
sáng tạo của con người, còn tri thức kinh nghiệm có được là vào sự quan sát từ
các sự vật, hiện tượng lặp đi lặp lại xung quanh con người. Vì vậy, tri thức kinh
nghiệm chỉ phát triển đến một hiểu biết giới hạn nhất định, nhưng tri thức kinh
nghiệm là cơ sở cho sự hình thành tri thức khoa học.
1.1.2. Nghiên cứu khoa học [NCKH]
Để hiểu đúng về khái niệm nghiên cứu khoa học, trước hết chúng ta cần

hiểu nghiên cứu là gì.
Theo từ điển Từ và Ngữ Việt Nam, NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí
Minh, [2005], nghiên cứu là đi sâu vào một vấn đề để tìm hiểu bản chất vấn đề
đó hoặc để tìm cách giải quyết những điều mà vấn đề đó đề ra. [16].
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: Nghiên cứu thường được mô tả là
một quy trình tìm hiểu tích cực, cần cù và có hệ thống nhằm khám phá, phiên
giải và xem xét các sự kiện. Sự điều tra tri thức này tạo ra sự hiểu biết tốt hơn
về các sự kiện, hành vi hoặc giả thuyết và tạo ra các ứng dụng thực tế thông qua
các định luật và giả thuyết. Thuật ngữ nghiên cứu cũng được sử dụng để mô tả
việc thu thập thông tin về các vấn đề chuyên môn và nó thường liên quan đến
khoa học và các phương pháp khoa học. Với cách hiểu này, có thể thấy rằng

19
nghiên cứu được hiểu là một quá trình đi sâu tìm hiểu nhằm khám phá bản chất
các sự kiện.
Nghiên cứu còn được hiểu là quá trình điều tra có thông số và mục tiêu rõ
ràng: khám phá hay sáng tạo nên tri thức, xây dựng học thuyết; kiểm tra, xác
minh, thẩm định hay bác bỏ một tri thức khoa học hay học thuyết.
Từ các cách hiểu trên về nghiên cứu, khái niệm nghiên cứu khoa học cũng
được hiểu theo nhiều cách khác nhau:
Theo luật Khoa học và công nghệ [2000], nghiên cứu khoa học là hoạt
động phát hiện, tìm hiểu các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và
tư duy; sáng tạo các giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn. Nghiên cứu khoa
học bao gồm nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng. [11, tr.1]
Theo Vũ Cao Đàm: nghiên cứu khoa học là một hoạt động xã hội, hướng vào
việc tìm kiếm những điều mà khoa học chưa biết: hoặc là phát hiện bản chất sự vật,
phát triển nhận thức khoa học về thế giới; hoặc là sáng tạo phương pháp mới và
phương tiện kỹ thuật mới để cải tạo thế giới. [9, tr.20]. Về mặt thao tác, nghiên cứu
khoa học là quá trình hình thành và chứng minh luận điểm khoa học về một sự vật
hoặc hiện tượng cần khám phá. [8, tr.35].

Nghiên cứu khoa học theo quan điểm của Dương Thiệu Tống: là một hoạt
động tìm hiểu có tính hệ thống đạt đến sự hiểu biết được kiểm chứng. Nó là một
hoạt động nỗ lực có chủ đích, có tổ chức nhằm thu thập những thông tin, xem xét
kỹ, phân tích xếp đặt các các dữ kiện lại với nhau rồi rồi đánh giá các thông tin ấy
bằng con đường qui nạp và diễn dịch.
Nghiên cứu khoa học còn được hiểu là sự tìm tòi, khám phá bản chất các sự vật
[tự nhiên, xã hội, con người], nhằm thỏa mãn nhu cầu nhận thức, đồng thời sáng tạo
các giải pháp tác động trở lại sự vật, biến đổi sự vật theo mục đích sử dụng.
Nghiên cứu khoa học cũng có thể được hiểu là một hoạt động xã hội, với
chức năng tìm kiếm những điều mà khoa học chưa biết; hoặc là phát hiện bản
chất sự vật, phát triển nhận thức khoa học về thế giới; hoặc là sáng tạo phương
pháp mới và phương tiện kỹ thuật mới để cải tạo thế giới.

20
Tóm lại, có nhiều cách hiểu khác nhau về nghiên cứu khoa học, tuy nhiên
trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi hiểu nghiên cứu khoa học là một hoạt
động tìm kiếm, xem xét, điều tra hoặc thử nghiệm. Dựa trên những số liệu, tài
liệu, kiến thức,đạt được từ các thí nghiệm nghiên cứu khoa học để phát hiện
ra cái mới về bản chất sự vật, về thế giới tự nhiên và xã hội, và để sáng tạo
phương pháp và phương tiện kỹ thuật mới cao hơn, giá trị hơn nhằm ứng dụng
vào thực tiễn phục vụ mục đích của con người.
Với cách hiểu trên về nghiên cứu khoa học, có thể thấy nghiên cứu khoa
học là một loại hoạt động đặc biệt. Nó đặc biệt ở chỗ: công việc tìm kiếm những
điều chưa biết và người nghiên cứu hoàn toàn không thể hình dung được, hoặc
không thể hình dung thật chính xác kết quả dự kiến. Chẳng hạn: khi nghiên cứu
hiện tượng một số sinh viên nghỉ học, chuồn giờ, xao nhãng trong giờ học của các
học phần lý luận chính trị nhiều hơn các học phần khác, trước khi bắt tay vào
nghiên cứu thì người nghiên cứu không thể hình dung thật chính xác được kết
quả nghiên cứu, mà chỉ đến khi kết thúc quá trình nghiên cứu mới có kết luận
chính xác về hiện tượng này. Điều này khác biệt hoàn toàn với hàng loạt hoạt

động khác trong đời sống xã hội.
Từ đặc điểm chung nhất của nghiên cứu khoa học là sự tìm tòi những sự
vật, hiện tượng mà khoa học chưa biết đến dẫn đến hàng loạt những đặc điểm
khác của nghiên cứu khoa học đó là:
Tính mới: Nghiên cứu khoa học là quá trình khám phá thế giới của những
sự vật, hiện tượng mà khoa học chưa biết, cho nên quá trình nghiên cứu khoa
học luôn là quá trình hướng tới những phát hiện mới hoặc sáng tạo mới. Tính
mới là đặc điểm quan trọng nhất trong nghiên cứu khoa học vì trong nghiên cứu
khoa học không có sự lặp lại như cũ những phát hiện hoặc sáng tạo mà các đồng
nghiệp đi trước đã thực hiện. Như vậy, có thể thấy hoạt động nghiên cứu khoa
học là một loại lao động trí óc mang tính sáng tạo, nó cho thấy năng lực và sự
sáng tạo của người nghiên cứu, và đây cũng là điểm cơ bản nhất phân biệt nó
với lao động sản xuất bình thường. Hiểu được đặc điểm này, giúp các chuyên

21
gia đánh giá KQNC sẽ đặc biệt chú trọng tới tính mới của đề tài khi thực hiện
việc đánh giá. Đồng thời, việc công nhận và khẳng định vai trò quan trọng của
tính mới trong nghiên cứu khoa học cho thấy sự tôn trọng và khuyến khích sự
sáng tạo cũng như năng lực của người nghiên cứu.
Tính tin cậy: Tính tin cậy ở đây được hiểu là một kết quả nghiên cứu đạt
được nhờ một phương pháp nào đó phải có khả năng kiểm chứng lại nhiều lần
trong những điều kiện quan sát hoặc thí nghiệm hoàn toàn giống nhau và với những
kết quả thu được hoàn toàn giống nhau. Một kết quả thu được ngẫu nhiên dù phù
hợp với giả thuyết đặt ra trước đó cũng chưa xem là đủ tin cậy để kết luận về bản
chất của sự vật hoặc hiện tượng. Đặc điểm này buộc người nghiên cứu phải thận
trọng khi lựa chọn và sử dụng các phương pháp nghiên cứu trong quá trình thực
hiện đề tài, để có được những kết quả nghiên cứu đáng tin cậy. Đồng thời, với
đặc điểm này cũng giúp loại bỏ hoàn toàn những kết quả nghiên cứu không
trung thực, có tính nhào nặn hoặc ngẫu nhiên.
Tính thông tin: Sản phẩm của nghiên cứu khoa học luôn mang đặc trưng

thông tin. Đó là những thông tin về quy luật vận động của sự vật, thông tin về
một quá trình xã hội hoặc quy trình công nghệ và các tham số đặc trưng cho quy
trình đó. Nó có thể được thể hiện dưới nhiều dạng, là một báo cáo khoa học, một
tác phẩm khoa học, song cũng có thể là một mẫu vật liệu mới, mẫu sản phẩm
mới, mô hình thí điểm về một phương thức tổ chức sản xuất mới,v.v Đặc
điểm này, giúp chúng ta phân biệt được sản phẩm của hoạt động nghiên cứu
khoa học với các hoạt động lao động sản xuất bình thường khác, là cho những
sản phẩm vật chất cụ thể có thể cầm nắm được. Với đặc điểm này của hoạt động
nghiên cứu khoa học cũng cho thấy người đánh giá cần phải đặc biệt chú ý đến
lượng thông tin khoa học mà đề tài đã tạo ra thể hiện trong những trang báo cáo
khoa học, trong tác phẩm khoa học, không nên bỏ sót mà phải tiến hành đánh
giá một cách cẩn thận và nghiêm túc.
Tính khách quan: Vừa là một đặc điểm của nghiên cứu khoa học vừa là một
tiêu chuẩn về phẩm chất của người nghiên cứu khoa học. Một nhận định vội vã

22
theo tình cảm, một kết luận thiếu xác nhận bằng kiểm chứng chưa thể xem là một
phản ánh khách quan về bản chất của sự vật, hiện tượng. Để đảm bảo tính khách
quan, người nghiên cứu cần phải luôn đặt các loại câu hỏi ngược lại những kết luận
đã được xác nhận, chẳng hạn: kết quả có thể khác không? Nếu là kết quả đúng thì
đúng trong những điều kiện nào?,.v.vVới đặc điểm này, giúp loại bỏ những yếu
tố, nhận định, kết luận chủ quan của người nghiên cứu thể hiện trong kết quả
nghiên cứu.
Tính rủi ro: Quá trình khám phá bản chất sự vật và sáng tạo sự vật mới
hoàn toàn có thể gặp phải thất bại. Đó là tính rủi ro của nghiên cứu. Sự thất bại
trong nghiên cứu khoa học có thể do nhiều nguyên nhân, chẳng hạn: thiếu những
thông tin cần thiết và đủ tin cậy; trình độ kỹ thuật của thiết bị quan sát hoặc thí
nghiệm thấp; năng lực xử lý thông tin của người nghiên cứu còn hạn chế; giả
thuyết đặt ra là sai do những tác nhân bất khả kháng,v.vTuy nhiên trong khoa
học, thất bại cũng được xem là một kết quả. Kết quả ấy cũng mang ý nghĩa là

một kết luận của nghiên cứu khoa học, mà nội dung là các giả thuyết đã đặt ra
không được xác nhận về mặt khoa học, nghĩa là trong sự vật không tồn tại quy
luật hoặc giải pháp như đã dự kiến. Hiểu được đặc điểm này, giúp cho người
đánh giá khi đánh giá KQNC có cái nhìn khách quan, không định kiến hoặc
nhạo báng người nghiên cứu thất bại.
Tính kế thừa: Hầu như không có một công trình nghiên cứu khoa học nào
bắt đầu từ chỗ hoàn toàn trống không về kiến thức. Mỗi nghiên cứu phải kế thừa
các kết quả nghiên cứu trong các khoa học khác nhau rất xa. Hiểu được đặc điểm
này, khi đánh giá KQNC người đánh giá cần phân biệt giữa đạo văn với kế
thừa, để tránh gây nên những ức chế, thiệt thòi cho người nghiên cứu.
Tính cá nhân: Dù là một công trình nghiên cứu khoa học do một tập thể thực
hiện thì vai trò cá nhân trong sáng tạo cũng mang tính quyết định. Tính cá nhân
được thể hiện trong tư duy, nỗ lực cá nhân và chủ kiến riêng của cá nhân. Tùy
theo trình độ học vấn, tư chất di truyền, thể lực và môi trường xã hội mà cá tính
và năng lực cá nhân hình thành và phát huy khác nhau. Hiểu được đặc điểm này,

23
khi đánh giá KQNC, người đánh giá cần phải tôn trọng ý kiến đề xuất khoa học của
một cá nhân mới xuất hiện, thậm chí chưa được thử nghiệm một cách đầy đủ.
Chính khí chất và tính cách khác nhau của cá nhân những người nghiên cứu là yếu
tố quan trọng tạo nên sự phát triển không ngừng cho nền khoa học.
Tính trễ trong áp dụng: Một kết quả nghiên cứu không phải lúc nào cũng
có thể áp dụng ngay vào sản xuất và đời sống được vì nhiều lý do như điều kiện
kinh tế, văn hóa, tâm lý xã hội, đặc biệt là những kết quả nghiên cứu trong
nghiên cứu cơ bản, có khi phải mất nhiều năm mới thấy được kết quả và hiệu
quả của nó. Tính chất này được gọi là độ trễ trong nghiên cứu khoa học. Do
vậy, với đặc điểm này thì trong đánh giá KQNC, người đánh giá không nên nặng
nề về tính ứng dụng của kết quả nghiên cứu, nhất là đánh giá KQNC trong khoa
học xã hội.
Trên đây là những đặc điểm riêng có của hoạt động nghiên cứu khoa học,

hiểu đúng về những đặc điểm này là một việc hết sức cần thiết đối với người
nghiên cứu, người quản lý cũng như những người thực hiện đánh giá KQNC sẽ
giúp họ chủ động, tự tin, loại bỏ được những tư tưởng phi khoa học.
Có thể nói, nghiên cứu khoa học có rất nhiều vai trò, nhưng đối với mỗi
trường đại học, cao đẳng thì nghiên cứu khoa học và đào tạo là hai nhiệm vụ đặc
biệt quan trọng của bản thân mỗi trường, có một ý nghĩa quan trọng giúp các
trường có được một nền kiến thức cơ bản rộng, tạo điều kiện để tiến hành các
hoạt động đào tạo thường xuyên, đào tạo lại hoặc đào tạo nâng cao. Hoạt động
NCKH cũng giúp tạo cơ sở vững chắc cho các trường đại học có vị trí xứng
đáng trong hệ thống các cơ quan NCKH quốc gia, giúp các trường thực hiện tốt
chức năng nghiên cứu khoa học và công nghệ của mình. Hoạt động NCKH còn
là một phương thức tăng cường hiệu quả cho quá trình giảng dạy học tập, giúp
cho chất lượng đội ngũ giảng viên được cải thiện và nâng cao, làm cho đội ngũ
giảng viên trở thành những chuyên gia khoa học và công nghệ giỏi, khẳng định
và nâng cao vị trí, vai trò của giảng viên trong sự nghiệp giáo dục đào tạo nói
riêng và sự phát triển của đất nước nói chung. Bên cạnh đó, hoạt động NCKH là

24
một môi trường rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo và phương pháp nghiên cứu giúp sinh
viên nắm chắc chuyên môn đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn khi ra trường,
bảo đảm cho sinh viên mới tốt nghiệp có thể làm đúng ngành nghề đã đào tạo.
ĐHKH, ĐHTN trải qua 10 năm hoạt động, cho đến nay đã đạt được một số
thành tích nhất định trong hoạt động đào tạo cũng như nghiên cứu khoa học.
Tuy nhiên, là một trường mới thành lập nên muốn nâng cao vị thế của mình
trong hệ thống các trường đại học của Việt Nam, ĐHKH cần phải không ngừng
học hỏi, nâng cao chất lượng đào tạo. Một trong những yếu tố giúp ĐHKH làm
được điều này là việc phải làm tốt công tác nghiên cứu khoa học bên cạnh hoạt
động đào tạo.
1.2. Đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học và tiêu chí đánh giá kết quả
nghiên cứu khoa học

1.2.1. Đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học
a. Đánh giá
Khái niệm Đánh giá tương đương với khái niệm Evaluer trong tiếng
Pháp và Evaluate trong tiếng Anh:
Từ điển Larousse [2002] giải thích Evaluer là Déterminer la valeur, le
prix, limportance de, tạm dịch là Xác định giá trị, giá cả, tầm quan trọng.
Từ điển Web Dictionary of Cybernetics and System định nghĩa Đánh giá
là sự sử dụng phương pháp và thủ tục khoa học để thu nhận và hạn chế thông
tin nhằm mục đích so sánh một sự kiện thực tế hoặc một sự kiện trong giả thuyết
với mục tiêu và giá trị chuẩn
Từ điển Cobuild, 2001 giải thích Evaluate là Khi bạn muốn đánh giá
một người hoặc một sự vật náo đó, bạn cần xem xét chúng để phán xét về chúng,
chẳng hạn, chúng tốt hoặc xấu như thế nào.
Trong tiếng Việt: Đánh giá được hiểu theo một số nghĩa như sau:
+ Xem xét một công việc sau khi đã hoàn tất, xem xét mức độ đạt yêu
cầu so với dự kiến ban đầu.
+ Xem xét một con người theo một tiêu chuẩn đã đặt ra.

Video liên quan

Chủ Đề