Trúc đào là ai

Tên khác

Tên thường dùng: Giáp trúc đào, Đào lê, Trước đào.

Tên tiếng Trung: 竹桃

Tên thuốc: Neriolin

Tên khoa học:Nerium indicum Miler

Họ khoa học:Polemoniaceae

Cây trúc đào- cây trúc đào

[Mô tả, hình ảnh cây trúc đào, phân bố, thu hái, thành phần hóa học, tác dụng dược lý...]

Mô tả

Trúc đào là một cây nhỡ, có thể cao tới 4-5m, mọc riêng lẻ hay có khi trồng thành bụi. Cành mềm dẻo. Lá mọc đối hay mọc vòng từng 3 lá một, thuộc loại lá đơn, mép nguyên, cuống ngắn, phiến lá hình mác, dài 7-20cm, rộng từ 1-4cm, dai cứng, mặt trên màu xanh thẫm, mặt dưới màu nhạt hơn, gân đều, song song ngang hai bên gân chính. Hoa màu hồng hay màu trắng, mọc thành xim ngù ở đầu cành. Quả gồm 2 đại, gầy, trongchứa rất nhiều hạt có nhiều lông.

Phân bố, thu hái:

Cây này vốn mọc hoang ở vùng ven biển , chưa rõ được di thực vào nước ta từ hồi nào. Việc trồng rất dễ dàng chỉ cần cắt những cành bánh tẻ thành từng đoạn dài 15-50cm, cắm nghiêng xuống đất, tưới để giữ độ ẩm đều, trong vòng 15 ngày đến 1 tháng là cây mọc. Sau một năm có thể thu hoạch lá nhưng càng những năm sau số lượng lá thu hoạch lá càng cao. Cắt lá nên cắt cả cành vì như vậy cành non mới phát triển và cho nhiều lá.

Có thể hái quanh năm nhưng tốt nhất vào lúc cây sắp ra hoa hoặc đang ra hoa. Lá hái xong cần phơi ngay cho khô, để lâu, tỷ lệ hoạt chất bị giảm sút.

Bộ phận dùng:

Bộ phận thường dùng là lá.

Mô tả dược liệu

Trúc đào là loại cây có độc nên không thể dùng trực tiếp, thường được được dùng dưới dạng chiết xuất neriolin.

Bào chế

Trúc đào được bào chế theo quy trình sau:

Giai đoạn chiết xuất. Lá trúc đào mới hái về, phơi khô trong mát cho tới khi tỷ lệ nước chỉ còn 12-14%, thái thành từng miếng nhỏ, kích thước 2-5mm, không nên tán thành bột nhỏ, cũng không nên để nguyên cả lá to vì như vậy tạp chất sẽ nhiều, khó tinh chế mà hoạt chất ra không hết. Ngâm 5kg lá thái nhỏ như trên với 50 lít rượu 250 trong 20 giờ, sau đó lấy cả được chừng 25-27 lít, sau đó ép thì sẽ được thêm chừng 18-20 lít nữa.

Giai đoạn loại tạp chất. Đổ 45 lít rượu trên vào vại sành sức chứa chừng 75 lít, đổ dần vào đó nửa lít dung dịch chì axetat 30%. Sau đó phải thử xem đã hết tạp chất chưa, nghĩa là đem lọc một ít nước trên và thêm một ít chì axetat nữa, nếu còn thấy đục thì phải cho thêm chì axetat nữa. Làm như vậy cho đến khi dung dịch lọc, thêm chì axetat không còn kết tủa nữa. Để yên một đêm. gạn lấy nước trong, lọc qua phễu Buchner, sau cùng rửa chất cặn trên phễu bằng 2 lít rượu 25°. Dồn các nước trong lại và đổ dần vào đó 2 lít dung dịch natri sunfat 15%, mỗi lần chừng nửa lít và quấy cho đều, lọc qua giấy, thử xem phần lọc thêm dung dịch natri sunfat vào xem còn đục không. Nếu còn đục thì phải thêm cho đến khi hết chì axêtat.

Giai doạn tinh chế. Cho các dung dịch đã loại tạp chất vào một bình thuỷ tinh đặt trên nồi cách thuỷ và đun để thu hồi cồn. Nhiệt độ trong bình phải luôn luôn ở 50-55°. Nếu cao quá glucozit sẽ hỏng. Muốn vậy phải cất trong chân không 700- 720mm thuỷ ngân. Đem cô còn chừng 8 lít, để nguội, vớt những cục glucozit thô ra. Hiệu suất chừng 48-50g glucozit thô. Cho chỗ glucozit thô này vào một bình nửa lít và một số cồn 700 [chừng 200m1], đặt bình này trong nồi cách thuỷ và lắc cho đến khí tan hết. Lọc và cho vào tủ lạnh trong 2 ngày. Neriolin sẽ kết tinh, nhưng chưa được tinh khiết lắm. Cần phải kết tinh hai lần nữa. Muốn vậy hoà neriolin nói trên trong cồn 500 [chừng 200ml] lọc và để vào tủ lạnh. Làm lại một lần thứ hai nữa, neriolin sẽ rất tinh khiết.

Bảo quản:

Cần phơi ngoài gió hay ở nơi nhiệt độ thấp hơn 600.

Bảo quản nơi khô ráo, thoáng mát

Thành phần hoá học:

Trong các bộ phận của cây đều chứa chất nhựa màu kem, vàng vàng rồi hóa lục. Trong lá Trúc đào người ta nghiên cứu thấy có cardenolid, oleandrin, oleasids A…F, neriolin. Trong lá còn chứa nhựa, tanin, một loại parafin, vitamin C, tinh dầu.

 Lá chứa hoạt chất chính là các glycosid tim, có 17 glycosid tim khác nhau. Hàm lượng glycosid tim toàn phần trong lá là 0,5%. Đáng chú ý là các glycosid: Oleandrin [Neriolin], deacetyloleandrin, Neriantin, adynerin.

Tác dụng dược lý:

Neriolin làm chậm nhịp tim, kéo dài thời kỳ tâm trương, tác dụng lên tim đến rất nhanh. Ngoài ra còn có tác dụng thông tiểu, giảm hiện tượng phù.

Vị thuốc trúc đào

[Công dụng, liều dùng, tính vị, quy kinh...]

Tính vị:

Vị đắng, chát, tính bình, có độc mạnh

Tác dụng:

Có tác dụng cường tâm [trợ tim]. Toàn cây và nhựa cây lợi niệu, phát hãn, khư đàm, tán ứ chỉ thống, giải độc thấu chẩn.

Ngoài ra còn có thể trị suyễn khan, động kinh, đòn ngã, tâm lực suy kiệt.

Liều dùng:

Trúc đào là vị thuốc rất độc, phải sử dụng theo sự chỉ dẫn của bác sĩ.

Ứng dụng lâm sàng của vị thuốc trúc đào

Trúc đào vì có tính độc mạnh nên thường chỉ được sử dụng là dược liệu để chiết xuất hoặc sử dụng ngoài da để điều trị mẩn ngưa ghẻ lở ngoài da.

Chú ý là cây rất độc, dùng theo sự chỉ dẫn của thầy thuốc và phải cẩn thận.

Tham khảo

Cấm dùng Trúc đào làm thang thuốc sắc hoặc ngâm rượu thuốc.

Triệu chứng ngộ độc: Đây là tình trạng ngộ độc Glocozide tim. Bệnh nhân có thể nôn dữ dội, sau đó mệt lả, không buồn nôn. Nhức đầu, chóng mặt, đau bụng. Mạch chậm dần, rối loạn nhịp tim, nặng hơn có thể trụy tim mạch, tụt huyết áp, hôn mê.

Giải độc và điều trị: Loại bỏ chất độc ra khỏi cơ thể bằng cách gây nôn, rửa dạ dày. Ủ ấm, theo dõi mạch, huyết áp thường xuyên. Nhanh chóng chuyển cấp cứu tuyến sau, nhịp tim quá chậm [dưới 50 lần/ phút] có thể tiêm dưới da Atropin liều 0,5 – 1,0 mg [2- 4 ống loại 1/4mg]. Và có thể tiêm nhắc lại lần 2 sau 2 giờ [liều dùng 1/4mg].

Lưu ý

Theo tài liệu nước ngoài, bò ngựa ăn phải lá Trúc đào tươi cũng bị ngộ độc. Người ăn thịt súc vật bị chết vì lá Trúc đào cũng sẽ bị ngộ độc theo.

- Chất độc ở cây Trúc đào không bị phá hủy khi đun sôi hoặc qua quá trình làm khô cây.

- Hoa Trúc đào cũng độc, tuy lượng chất độc thấp hơn so với các bộ phận khác.

- Dùng lá Trúc đào để chữa bệnh ngoài da để rửa cần chú ý. Có nơi giã nhỏ lá để đắp chữa ghẻ có thể bị ngộ độc, cần lưu ý.

- Có nơi dùng bột vỏ thân cây Trúc đào để đánh bả chuột.

- Không nên trồng cây Trúc đào cạnh nguồn nước ăn [giếng bể nước] vì lá hoặc hoa Trúc đào rụng xuống làm nhiễm độc nước, uống lâu ngày sẽ ngộ độc.       

 

Tag: cay truc dao, vi thuoc truc dao, cong dung truc dao, Hinh anh cay truc dao, Tac dung truc dao, Thuoc nam , ngo doc truc dao

Nơi mua bán vị thuốc Trúc đào đạt chất lượng ở đâu?

Trước thực trạng thuốc đông dược kém chất lượng, nguồn gốc không rõ ràng,... xuất hiện tràn lan trên thị trường, làm ảnh hưởng tới hiệu quả điều trị cũng như ảnh hưởng tới sức khỏe của bệnh nhân. Việc lựa chọn những địa chỉ uy tín để mua thuốc đông dược là rất quan trọng và cần thiết. Vậy khách hàng có thể mua vị thuốc Trúc đào ở đâu?

Trúc đào là vị thuốc nam quý, được sử dụng rộng rãi trong YHCT. Hiện tại hầu hết các cửa hàng thuốc đông dược, phòng khám đông y, phòng chẩn trị YHCT... đều có bán vị thuốc này. Tuy nhiên người mua nên chọn những địa chỉ có uy tín, đảm bảo chất lượng, có giấy phép hoạt động để mua được vị thuốc đạt chất lượng.

Với mong muốn bệnh nhân được sử dụng những loại dược liệu đúng, chất lượng tốt, phòng khám Đông y Nguyễn Hữu Toàn không chỉ là đia chỉ khám chữa bệnh tin cậy, uy tín chất lượng mà còn cung cấp cho khách hàng những vị thuốc đông y [thuốc nam, thuốc bắc] đúng, chuẩn, đạt chất lượng cao. Các vị thuốc có trong tiêu chuẩn Dược điển Việt Nam đều được nghành y tế kiểm nghiệm đạt chất lượng tiêu chuẩn.

Vị thuốc Trúc đào được bán tại Phòng khám là thuốc đã được bào chế theo Tiêu chuẩn NHT.

Giá bán vị thuốc Trúc đào tại Phòng khám Đông y Nguyễn Hữu Toàn: Gọi 18006834 để biết chi tiết

Tùy theo thời điểm giá bán có thể thay đổi.

+ Khách hàng có thể mua trực tiếp tại địa chỉ phòng khám: Cơ sở 1: Số 482, lô 22C, Lê Hồng Phong, Ngô Quyền, Hải Phòng

+ Mua trực tuyến: Thuốc được chuyển qua đường bưu điện. Khi nhận được thuốc khách hàng thanh toán tiền COD.

Tag: cay Truc dao, vi thuoc Truc dao, cong dung Truc dao, Hinh anh cay Truc dao, Tac dung Truc dao, Thuoc nam

Thaythuoccuaban.com Tổng hợp

*************************

A. Mô tả cây

  • Trúc đào là một cây nhỡ, có thể cao tới 4-5m, mọc riêng lẻ hay có khi trồng thành bụi. Cành mềm dẻo.
  • Lá mọc đối hay mọc vòng từng 3 lá một, thuộc loại lá đơn, mép nguyên, cuống ngắn, phiến lá hình mác, dài 7-20cm, rộng từ 1-4cm, dai cứng, mặt trên màu xanh thẫm, mặt dưới màu nhạt hơn, gân đều, song song ngang hai bên gân chính.
  • Hoa màu hồng hay màu trắng, mọc thành xim ở đầu cành.
  • Quả gồm hai đại, gầy, trong chứa rất nhiều hạt có nhiều lông.
  • Mùa hoa: tháng 5-7.

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Cây này vốn mọc hoang ở vùng ven biển Địa Trung Hải, chưa rõ được di thực vào nước ta từ hồi nào, chỉ biết hiện nay được trồng làm cảnh ở các vườn hoa hay dọc bên đường như ở Đồng Đăng, Lạng Sơn.

Có thể hái lá quanh năm, nhưng tốt nhất vào lúc cây sắp ra hoa hoặc đang ra hoa. Lá hái xong, cẩn phơi ngay cho khô, để lâu, tỷ lệ hoạt chất bị giảm sút. Cần phơi ngoài gió hay ở nhiệt độ thấp hơn 60°. Trúc đào mọc ở ta thường chỉ ít lá vào các tháng 1-2-3. Lá chỉ nên thu hái vào mùa hè, mùa thu. Các mùa khác cho ít hoạt chất.

Chú ý: Cây rất độc, không được trồng ở nơi trẻ em dễ tiếp xúc.

C.Thành phần hoá học

Trong lá trúc đào, người ta nghiên cứu thấy có 4 glucozit chủ yếu là oleandrin, neriin, neriantin, adynerin.

1. Oleandrin còn gọi là neriolin [Liên Xô cũ] hay folinerin [theo tên gọi cùa Schering] hoặc oleandroat có công thức nguyên là C32H48O9 trọng lượng phân tử 576,70 là một glucozit không màu, có tinh thể hình kim, vị rất đắng, ít tan trong nước và trong benzen, tan trong clorofoc, trong cồn etylic và metylic, nhưng độ tan trong rượu metylic kém hơn trong rượu etylic. Cho phản ứng Legal và phản ứng Keller- Kiliani.

Thủy phân axit [dùng axit clohydric 0,1N, trên nồi cách thủy trong 2 giờ] sẽ cho phần không đường gọi là oleandrigenin [hay 16 axetyl gitoxigenin] và một chất đường đăc biệt gọi là oleandroza.

Nhưng nếu dùng dung dịch 0,5N HCl thủy phân trong 4 giờ trên nồi cách thủy thì ta sẽ được chất dianhydrogitoxigenin. Còn nếu dùng dung dịch kiềm nhẹ để thủy phân, thì ta sẽ thu được gốc desaxetyloleandrin.

2. Neriin còn gọi là neriozit. Đây không phải là một nguyên chất, mà là một hỗn hợp glucozit trợ tim không có tinh thể, bột vô định hình màu vàng, tan trong nước và trong rượu, không tan trong ête etylic và ête dầu hoả, clorofoc. benzen, axetat etyl, dung dịch loãng trong nước rất dễ cho bọt, vị đắng, đun tới 160-170°C thì phân giải, năng suất quay cực αD =-20° [C=5% trong cồn], cho phản ứng Legal, không cho phản ứng KellerKiliani, mặc phân cách giữa hai lớp dung dịch có màu đỏ, lớp axit axetic có màu vàng xanh. Sau khi thủy phân bằng dung dịch 3 HCL đun sôi thì được 37-39% chất genin vô định hình, trong đó chỉ có 7-10% là không tan trong clorofoc. Do đó Zabolotnaia là người nghiên cứu chất này đã di đến kết luận là ít nhất neriin gồm hai chất khác nhau. Neriin chỉ có tác dụng trợ tim yếu.

3. Adynerin là một glucozit trợ tim có tinh thể, không tan trong nước và benzen, tan trong nước clorofoc và cồn cao độ [97°] khó tan trong cồn metylic. Độ chảy 219-220°C.

Năng suất quay cực αD=+9°38, trong công thức có một nối kép giữa • cacbon 8 và 9, do đó không có tác dụng trợ tim.

4. Neriatin là một glucozit có tinh thể hoặc vô định hình, vị đắng, tan trong nước và cồn, không có tác dụng trợ tim. Công thức cấu tạo chưa được xác định rõ ràng, trong phân tử có hai nối kép nhung vị trí chưa được xác đinh.

Cách chế tạo oleandrin. Căn cứ vào những phương pháp giới thiệu trong các tài liệu và đặc biệt phương pháp của Liên Xô cũ chúng tôi đã chế được chất oleandrin từ lá cây trúc đào mọc ở Việt Nam [Đỗ Tất Lợi, 1955, Tạp chí Y học Việt Nam,12, 41-42]. Phương pháp đó có thể tóm tắt như sau:

  • Giai đoạn chiết xuất.
  • Lá trúc đào mới hái về, phơi khô trong mát cho tới khi tỷ lệ nước chỉ còn 12-14%, thái thành từng miếng nhỏ, kích thước 2-5mm, không nên tán thành bột nhỏ, cũng không nên để nguyên cả lá to vì như vậy tạp chất sẽ nhiều, khó tinh chế mà hoạt chất ra không hết. Ngâm 5kg lá thái nhỏ như trên với 50 lít rượu 250 trong 20 giờ, sau đó lấy cả được chừng 25-27 lít, sau đó ép thì sẽ được thêm chừng 18-20 lít nữa.
  • Giai đoạn loại tạp chất.
  • Đổ 45 lít rượu trên vào vại sành sức chứa chừng 75 lít, đổ dần vào đó nửa lít dung dịch chì axetat 30%. Sau đó phải thử xem đã hết tạp chất chưa, nghĩa là đem lọc một ít nước trên và thêm một ít chì axetat nữa, nếu còn thấy đục thì phải cho thêm chì axetat nữa. Làm như vậy cho đến khi dung dịch lọc, thêm chì axetat không còn kết tủa nữa. Để yên một đêm. gạn lấy nước trong, lọc qua phễu Buchner, sau cùng rửa chất cặn trên phễu bằng 2 lít rượu 25°. Dồn các nước trong lại và đổ dần vào đó 2 lít dung dịch natri sunfat 15%, mỗi lần chừng nửa lít và quấy cho đều, lọc qua giấy, thử xem phần lọc thêm dung dịch natri sunfat vào xem còn đục không. Nếu còn đục thì phải thêm cho đến khi hết chì axêtat.
  • Giai đoạn tinh chế.
  • Cho các dung dịch đã loại tạp chất vào một bình thuỷ tinh đặt trên nồi cách thuỷ và đun để thu hồi cồn. Nhiệt độ trong bình phải luôn luôn ở 50-55°. Nếu cao quá glucozit sẽ hỏng. Muốn vậy phải cất trong chân không 700- 720mm thuỷ ngân. Đem cô còn chừng 8 lít, để nguội, vớt những cục glucozit thô ra. Hiệu suất chừng 48-50g glucozit thô. Cho chỗ glucozit thô này vào một bình nửa lít và một số cồn 700 [chừng 200ml], đặt bình này trong nồi cách thuỷ và lắc cho đến khí tan hết. Lọc và cho vào tủ lạnh trong 2 ngày. Neriolin sẽ kết tinh, nhưng chưa được tinh khiết lắm. Cần phải kết tinh hai lần nữa. Muốn vậy hoà neriolin nói trên trong cồn 500 [chừng 200ml] lọc và để vào tủ lạnh. Làm lại một lần thứ hai nữa, neriolin sẽ rất tinh khiết.

Hiệu suất chừng 5-6g nerioloin, tính ra cứ mỗi kg lá cây trúc đào khô sẽ được 1g neriolin nghĩa là hiệu suất 0,1%. Có khi chỉ được 0,05%.

D. Tác dụng dược lý và độc tính

Độc tính của lá trúc đào đã được biết từ lâu. Tại châu Âu, người ta kể những trường hợp lính vùng đảo Coocsơ [Corse, một đảo thuộc miền Nam nước Pháp] đã bị ngộ độc chết do ăn chả dùng cành cây trúc đào xiên vào thịt nướng. Có những người đã ngộ độc nặng do uống nước đựng trong chai nút bằng thân cây trúc đào, hay do uống nước suối rễ cây trúc đào mọc ở gần. Nhân dân tỉnh Nisơ [Nice] đã dùng bột vỏ thân và bột gỗ trúc đào để đánh bả chuột.

  • Tại Á Đông, trúc đào được ghi trong cuốn Y học nhập môn của Lý Duyên như sau: Chữa những người tự nhiên mặt đỏ bừng [bạo xích], có nước tích tụ trong ngũ tạng làm bụng to. Lợi tiểu tiện.
  • Trong Y học, trúc đào được dùng lần đầu tiên vào khoảng năm 1866 sau khi được nhà dược lý học người Nga E. B. Pelikan nghiên cứu, nhưng rồi lại bị quên đi. Đến năm 1936, Viện nghiên cứu cây thuốc và tinh dầu ở Liên Xô cũ nghiên cứu lại và hiện nay hoạt chất của trúc đào là chất neriolin được ghi làm vị thuốc chính thức trong Dược điển Liên Xô in lần thứ 9 [1961].
  • Theo sự nghiên cứu về dược lý của các nhà dược học Liên Xô cũ thì neriolin có tác dụng rất mạnh, có thể thay được digitalin và strophantin để chữa các bệnh về tim. So với digitalìn, neriolin [oleandrin] có những ưu điểm sau đây:
  1. Hấp thụ nhanh khi qua bộ máy tiêu hoá nên không bị các men và axit của bộ máy tiêu hóa phá huỷ.
  2. Tích lũy rất ít.
  3. Làm đi tiểu nhiều.

Trong tháng 10 đầu năm 1962. các bác sĩ Vũ Đình Hải và Dương Hoàng Trọng đã dùng chất neriolin do Bộ môn dược liệu Trường đại học y dược khoa Hà Nội sản xuất để điều trị 77 bệnh nhân suy tim ở Bệnh viện Việt-Tiệp đã đi tới một số kết luận sau đây:

  • Tác dụng trợ tim của neriolin rõ rệt nhất đối với triệu chứng khó thở. Đánh giá triệu chứng chủ quan này có phần khách quan ở chỗ nó đo được khả năng lao động vì khi bệnh nhân đỡ khó thở thì họ có thể làm việc được và sống cuộc đời bình thường. Vì phần lớn bệnh nhân thấy neriolin làm dễ thở rõ rệt nên họ tự động tăng liều lượng trong những ngày phải làm việc nhiều và để dành thuốc những ngày nghỉ ngơi.
  • Tác dụng trợ tim đến rất nhanh, thường chỉ 2-3 giờ sau khi uống thuốc là dễ thở ngay. Một bệnh nhân là thợ cắt cóc, chỉ cần 30 giọt là có thể dậy làm việc được ngay. Sự nhanh chóng này được nhiều tác giả đã nhận thấy và Henler đã mệnh danh neriolin là uabain uống được. Nhờ tính chất này, bệnh nhân có thể tự mình tìm ra Iiều thích hợp…
  • Neriolin là một thuốc trợ tim có hiệu quả nhanh chóng, không tích luỹ, dễ sử dụng và đối với bệnh van tim thì có thể so sánh với các loại thuốc trợ tim cổ điển. Điều trị phải liên tục và đủ liều nghĩa là khoảng 0,4-1,2mg mỗi ngày.
  • Neriolin đặc biệt thích hợp với điều trị duy trì lâu dài và ngoại trú ở các phòng khám tim cho các bệnh nhân bị di chứng của thấp khớp cấp mất bù, là loại bệnh tim phổ biến nhất ở Việt Nam hiện nay [Tạp chi ỵ học Việt Nam số 3 năm 1963].

E. Công dụng và liều dùng

Lá trúc đào được dùng làm nguyên liệu chiết xuất oleandrin, là thuốc uống được chỉ định điều trị suy tim, hở van hai lá, nhịp tim nhanh, các bệnh tim có phù, giảm niệu.

Vì có tính độc cao, nên trúc đào không được dùng làm thuốc trong y học cổ truyền, chỉ dùng để chế thuốc trừ sâu, nấu nước trị ghẻ [20-30g lá tươi, nấu nước đặc rửa, ngày một lần].

Video liên quan

Chủ Đề